ẨN TU NGẪU VỊNH


BÀI SỐ 83

 

Ẩn tu ai bảo niệm hồng danh

Không có Tây-phương chẳng vãng sanh

Liên hữu xưa nay nhiều hiện ứng

Thánh-Hiền-Lục đã chép ghi rành.

 

NHƯ Ý : Niệm Phật nếu thích thì cứ Niệm, nhưng cốt để ngăn trừ Vọng Tưởng và Phá Chướng mà thôi. Vì thật ra, KHÔNG có cõi CỰC-LẠC cũng KHÔNG có sự VÃNG-SANH.

Nếu có thì tại sao không thấy ai trở về BÁO TIN, đều nói trên có Hai Lối Mê Chấp xin lần lượt Giải Phá:

 

1)  Trong Ngũ Đình Tâm Quán có nói, Chúng-Sanh nào nhiều THAM DỤC nên tu pháp BẤT TỊNH QUÁN, nhiều SÂN HẬN tu Pháp TỪ BI QUÁN, nhiều SI MÊ tu pháp NHÂN DUYÊN QUÁN, nhiều TÁN LOẠN tu pháp SỔ TỨC QUÁN, nhiều TỘI CHƯỚNG tu Pháp NIÊM PHẬT QUÁN, nói Niệm Phật để Phá Chướng Trừ Vọng là giải thích theo quan niệm của Ngũ Đình Tâm Quán của Tiểu thừa, với Đại  thừa thì Niệm Phật là để THÀNH PHẬT, bởi Niệm Phật có công năng khai ngộ Phật tánh rất mau lẹ, bậc Thượng căn có thể một đời chứng Niệm Phật Tam-Muội, hàng Trung Hạ căn khi MẠNG CHUNG sẽ được sanh về Cực Lạc và cũng đạt được tiêu điểm ấy.

 

2)  Lời tục bảo, nói có SÁCH mắt có CHỨNG, về vấn đề Cực Lạc và Vãng Sanh trong VÃNG SANH LỤC và THÁNH HIỀN LỤC đều có ghi chép về các điềm lành và hiện ứng rất nhiều, chẳng hạn như chuyện KINH VƯƠNG PHU NHƠN và VIÊN TRUNG ĐẠO lúc Sanh Bình Niệm Phật được người TỲ NỮ và VIÊN HOẰNG ĐẠO đưa thần thức viếng cõi Cực Lạc ở Tây Phương, bức tường Thành Kiến và Chấp Mê của Chúng Sanh THẬT KIÊN CỐ, đáng nên Than Thở.

 

 

MẤY ĐIỆU SEN THANH

 

Quyển này bút giả tuyển dịch từ nguyên bản Tịnh Ðộ THÁNH HIỀN LỤC của Phật giáo Trung Hoa.

Những lời và hạnh của thánh hiền tu Tịnh độ khi xưa, là những điệu nhạc, những đài gương để khuyến khích, soi sáng cho các hàng liên hữu. Cổ nhơn đã có vị viết sách Tịnh độ, nhan đề là Liên Lậu Thanh âm. Liên Lậu là giờ khắc hoa sen, lấy sự tích đồng hồ sen nơi Bạch Liên Xã của ngài Huệ Viễn. Thanh Âm là những âm điệu thanh tao để khuyến hóa mọi người niệm Phật. Bút giả thể theo ý đó, đặt nhan đề quyển này là MẤY ĐIỆU SEN THANH.

 

Mấy điệu sen thanh dìu dặt trỗi,
Vang thành ánh ngọc nối liên phương.

 

 

VIỆT QUỐC PHU NHƠN

(KINH VƯƠNG PHU NHƠN)

 

Việt Quốc PHU NHƠN Vương thị, nguyên là vợ của KINH VƯƠNG.

 



Tiết 18.- Những Mối Nghi Thiệp Lý

 

Hỏi: Niệm Phật cốt để ngăn trừ vọng tâm, chặn đứng phiền não, đi đến chỗ vô niệm. Đã như thế thì cứ để tâm thanh tịnh, lần lần sẽ tiến vào cảnh giới vô niệm, cần gì phải niệm Phật cho nhọc sức lao hơi?

 

- Đáp: Điểm cứu cánh của pháp Niệm Phật là Niệm Phật Tam Muội, chứng toàn thể bản tánh Di Đà, tức cảnh giới Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Nhưng mục đích chánh yếu và cấp thiết của tông Tịnh Độ, là cầu vãng sanh để bảo đảm không còn luân hồi mê đọa, mượn hoàn cảnh ưu thắng ở cõi Cực Lạc tu hành, cho mau tiến lên Phật quả. Vì lẽ ấy nên hành giả của môn Tịnh Độ cần phải xưng niệm danh hiệu đức A Di Đà. Chủ đích của môn Tịnh Độ là như thế, không cấp thiết ở chỗ cầu cảnh giới vô niệm, mau chứng ngộ tánh bản lai như bên Thiền Tông.

 

Tuy nhiên, khi thật hành chủ đích này, hành giả phải niệm Phật cho được nhứt tâm, nên dù không cầu vô niệm mà cảnh vô niệm vẫn tự hiện bày. Hơn nữa, nhờ công đức niệm Phật giúp sức cho mau tiêu nghiệp, nên cảnh giới ấy lại càng chóng hiển lộ. Ở đây chúng ta thấy mở thêm một tia sáng: muốn mau được vô niệm, được sớm ngộ tánh bản lai, lại cần phải niệm Phật.

 

Đi sâu thêm, nếu là người căn tánh Đại Thừa, tất phải hiểu niệm Phật là để thành Phật. Như chỉ hiểu niệm Phật cốt để ngăn trừ vọng tưởng, tức đã lạc vào Ngũ Đình Tâm Quán của Tiểu Thừa.

 

Tại sao niệm Phật là để thành Phật?

 

 - Bởi khi vừa đề khởi câu niệm Phật, thì quá khứ, hiện tại, vị lai đều mất, tuy có tướng mà lìa tướng, tức sắc là không, hữu niệm đồng vô niệm, đi ngay vào cảnh giới bản giác ly niệm của Như Lai, đương thể là Phật chớ còn chi nữa?

 

Nếu cho rằng có niệm là còn trệ nơi hữu vi thì khi đức Thế Tôn hiện các tướng hữu vi như ăn cơm, khoác y, đàm luận, thuyết pháp đi đứng nằm ngồi, đều trệ nơi hữu vi và không phải là Như Lai sao?

 

Lại nếu cho rằng còn niệm Phật chưa phải là vô niệm, thì chư tôn đức bên Thiền Tông khi tham thoại đầu, giảng luận, hoặc có lúc tụng kinh, lễ bái, sám hối, kinh hành đều thuộc về hữu tướng, không phải là Thiền ư?

 

Nên biết đạo lý của vô vi là "làm tất cả việc hữu vi mà không thấy có tướng làm", vô niệm cũng thế; chớ không phải tuyệt cả hành động, ngôn ngữ là vô vi vô niệm đâu! Bởi chẳng rõ lý này nên nhiều kẻ chấp không cho rằng: Niệm Phật như chiếc xe chạy đi thêm chở nặng, hoặc như trong vàng còn lẫn chì, trong cơm lẫn cát, không được nhẹ nhàng thuần nhứt, thật đã sai lầm!

 

Nhưng niệm mà không niệm là cảnh giới của bậc thượng thượng căn; nơi đây chỉ khái luận qua để giải mối nghi chấp. Riêng bậc trung, hạ căn gắng niệm Phật cho thuần thục cũng đã quý lắm rồi!

 

BÀI KỆ THỨ 76

 

Một câu A Di Ðà
Tâm lặng tưởng nhớ chuyên
Tuy chưa lìa Nhẫn độ
Ðã ngồi tòa bảo liên.

( Nhứt cú Di Ðà
Tưởng tịch tư chuyên
Vị ly Nhẫn Ðộ
Dĩ tọa bảo liên.)

 

LƯỢC GIẢI

 


Bài kệ trên, hai câu trước ý nghĩa đã rõ ràng, duy hai câu sau, riêng một số độc giả chưa khỏi có điều nghi vấn. Theo Ấn Quang pháp sư, tác dụng nghiệp thức của chúng sanh không thể nghĩ bàn! Có người tuy còn ở Ta Bà, mà một phần thần thức đã hiện thân ngồi nơi hoa sen cõi Tịnh Ðộ.

 

Có người đang còn sống mà nghiệp thức đã hiện thân thọ tội nơi địa ngục dưới Âm Ty. Chuyện Cửu Pháp Hoa và Kinh Dương phu nhơn trong Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, thân chơi Cực Lạc, thấy trước Dương Kiệt, Từ đạo cô, Tôn Trung đã ngồi nơi hoa sen, là điều chứng minh cho hai câu: "Tuy chưa lìa Nhẫn độ. Ðã ngồi tọa bảo liên" vậy.

 

Nhẫn độ chính là cõi Ta Bà, vì Ta Bà có nghĩa "Kham Nhẫn". Chúng sanh ở cõi này phải có sức nhẫn nại mới chịu đựng nổi với những cảnh chướng ác xung quanh.


 

VIỆT QUỐC PHU NHƠN

 

Việt Quốc PHU NHƠN Vương thị, nguyên là vợ của KINH VƯƠNG. Kinh Vương lại là chú của Triết Tôn hoàng đế đời Tống. Phu nhơn chuyên niệm Phật ngày đêm không gián đoạn, lại hướng dân các hàng tỳ thiếp đều tu Tịnh độ cầu sanh Cực Lạc. Trong hàng tỳ thiếp ấy, có một cô thường hay biếng trễ. Phu nhơn gọi lên bảo: “Không thể vì một mình ngươi, mà phá hoại quy củ của ta!” Rồi liền đuổi ra khỏi đoàn thể.Người thiếp sợ hãi ăn năn, phát tâm tinh tấn niệm Phật không nài mỏi nhọc.

 

Một hôm, cô bảo bạn đồng sự rằng: “Em sắp đi xa!” Đêm lại mùi hương lạ bay đầy phòng, cô không bịnh chi mà qua đời. Cách vài hôm sau, cô bạn đồng sự thưa với phu nhơn rằng: “Đêm vừa rồi, con mơ thấy người thiếp mãn phần nhờ chuyển lời kính xin cảm tạ ân đức vô lượng của phu nhơn. Bởi nhờ phu nhơn răn trách, mà cô đã được sanh về Cực Lạc!” Phu nhơn bảo: “Nếu nó có thể ứng mộng cho ta biết thì ta mới tin”. Đêm ấy, phu nhơn nằm mộng thấy người thiếp quá cố đến tạ ân như lời đã nói, liền hỏi: “Cõi Tây phương có thể đến được chăng?” Cô đáp rằng được, rồi dẫn phu nhơn bay đi. Độ giây phút, đến một bảo trì to rộng mênh mang, ánh sáng giao hòa chói suốt.

Trong ao báu, hoa sen lớn nhỏ xen lẫn gồm nhiều màu sắc và quang minh, có đóa hoặc tươi hoặc héo. Phu nhơn hỏi duyên cớ, người thiếp thưa: “Chúng sanh ở Ta Bà vừa phát tâm niệm Phật cầu về Cực Lạc, thì nơi đây liền hóa sanh một hoa sen. Nếu dương nhơn mỗi ngày tinh tấn tu niệm, thì hoa càng thêm lớn và tươi đẹp. Trái lại nửa chừng lần lần biếng trễ, tất hoa sẽ héo. Như không tiếp tục tu hành, hoa liền tàn rồi ẩn mất.

Còn phát tâm tinh tấn niệm Phật trở lại, thì một hoa sen khác mọc lên. Nếu công tu lâu ngày vẫn không thối chuyển, tất tịnh quả sẽ thành thục. Khi dương nhơn bỏ báo thân ở Ta Bà, thần thức sẽ nương gởi vào thai sen ấy, đợi đến khi hoa nở thấy Phật”. Nhìn ra xa, trên một đài hoa có vị đội mão ngọc, cổ đeo chuỗi anh lạc, phục sức và thân tướng trang nghiêm, phu nhơn hỏi: “Ai đấy thế?” Người thiếp thưa: “Đó là Vô Vi cư sĩ Dương Kiệt. Vị ấy vừa mới vãng sanh về đây”.

Phu nhơn thấy một người khác mặc triều phục, ngồi trên đóa sen hơi kém hơn, lại hỏi thăm. Cô đáp: “Đó là cư sĩ Mã Vu, chờ khi công thành quả mãn, cũng lại sắp vãng sanh về đây”. Phu nhơn hỏi: “Còn ta sẽ sanh về chỗ nào?” Người thiếp liền dẫn bà bay đi độ vài dặm. Nơi ấy có một hoa tòa to lớn, cánh bích ngọc, đài hoàng kim, phóng ánh sáng rực rỡ. Người thiếp chỉ đóa hoa nói: “Đây là chỗ sanh của phu nhơn, thuộc về kim đài thượng phẩm!”

Khi thức dậy, phu nhơn ghi nhớ rõ điềm mộng, nỗi vui mừng bi cảm lẫn lộn, càng tinh tấn tu hành. Đến hơn tám mươi tuổi, nhằm ngày sanh nhựt, sáng sớm bà thức dậy, hai tay bưng lò trầm hương nhỏ, khói thơm bay tỏa, nghiêm kính đứng hướng về phía Quán Âm Các. Tất cả tỳ thiếp y phục chỉnh tề, sắp thành hàng bước đến định làm lễ chúc thọ. Nhưng khi nhìn xem lại, thì phu nhơn đã thoát hóa.

 

LỜI BÌNH:

Ấn Quang Pháp sư nói: “Tác dụng của thần thức và nghiệp lành dữ đều không thể nghĩ bàn! Có kẻ tạo ác, tuy còn sống ở trên dương thế, mà một phần hình thần đã thọ khổ nơi địa ngục. Lại có hành giả tu Tịnh độ, tuy hiện đang ở cõi trược, mà phần thần thức đã sanh về Liên bang”. Trường hợp của Mã Vu trên đây cũng như thế.

Người nữ sanh về Cực Lạc, đều chuyển thành thân nam đủ ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm. Nhưng cô thiếp lại hiện ra thân nữ cho đồng bạn và Kinh Vương phu nhơn trơng thấy cũng chỉ là phương tiện hóa hiện, để người quen dễ được nhận thức đó thôi.

Điều này độc giả nên thông hiểu và đừng lấy làm nghi hoặc.

 

 

VIÊN HOẰNG ĐẠO

TÂY PHƯƠNG HIỆP LUẬN

 

Viên Hoằng Đạo, tự Trung Lang, hiệu Thạch Đầu cư sĩ, người ở huyện Công An, tinh Hồ Bắc. Anh là Tông Đạo, tự Bá Tu, hiệu Hương Quang cư sĩ. Em là Trung Đạo, tự Tiểu Tu, hiệu Thượng Sanh cư sĩ. Ba anh em đồng một mẹ, lúc thiếu thời đều nổi tiếng văn tài, lớn lên cùng ưa thích Thiền tông. Trong niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, ba anh em trước sau lần lượt đều đỗ Tiến sĩ. Bá Tu làm quan đến chức Hữu giá từ, Tiêu Tu làm quan đến chức Lễ bộ lang trung. Sau hai anh em đều xin về quê hưu dưỡng, sớm hôm siêng cần lễ tụng.

Riêng phần Trung Lang, tức Hoằng Đạo, sau khi thi đỗ, được bổ làm Tri huyện ở Ngô Giang. Ông xử việc án tụng rất sáng, lẹ quyết đoán. Khi rảnh việc công, lại ưa ngao du sơn thủy. Sau được thăng lên chức Lễ bộ chủ sự, chẳng bao lâu cáo bịnh xin về nghỉ. Cư sĩ có lập ra một khu vườn ở thành nam, trồng cả muôn cây liễu xanh tốt. Khi gió thổi qua, đứng trên lầu cao, thấy ngọn liễu uốn dợn như ngàn đợt sóng, tiếng chim oanh cùng các phi cầm đua nhau kếu hót bên trong.

Ông gọi cảnh trí nầy là Liễu lăng đấu oanh, thường cùng các văn nhơn thiền khách du lãm trong đó, khi thì uống rượu ngâm thi, lúc lại luận bàn đạo lý. Ban sơ, cư sĩ học thiền với Lý Trác Ngô, tín giải thông suốt, biện tài không ngại. Sau tự nghiệm xét, thấy dù huyền luận dọc ngang, cũng chỉ là lời nói xuông, không có chi lợi ích thiết thật, mới hồi hướng về Tịnh độ, sớm hôm sám hối lễ niệm, kiêm giữ gìn giới cấm. Bá Tu và Tiểu Tu cũng đồng phát tâm niệm Phật. Cư sĩ tuyển trong các kinh giáo, viết ra bộ Tây Phương Hiệp Luận. Trong ấy bàn tánh tướng đến chỗ viên dung, đi sâu vào pháp môn Bất Nhị. Xin lược trích vài đoạn thiết yếu như sau:

“… Trong năm thứ Hành môn, thứ nhứt là Tín tâm hạnh. Kinh nói: “Niềm tin là bước đầu vào đạo, là mẹ các công đức”. Thế nên đức tin là chánh nhân của tất cả hạnh. Cho đến khi tròn mãn quả bồ đề, cũng chỉ hoàn thành tín căn ấy mà thôi. Như mụt măng non khi thành cây tre cao vút, trước sau cũng chỉ là một gốc. Các Bồ Tát mới phát tâm, không vị nào chẳng nương nơi sức tin mà được thành tựu. Trong Liên tông, lòng tin lại là cội gốc. Vậy phải tin như thế nào?

– Một là tin Căn bản trí và Bất động trí của Phật A Di Đà cùng mình không khác. Như khoảng thái hư, mặt trời rọi thì sáng, mây kéo che thì râm tối, nhưng hư không vẫn không có tánh sáng tối. Lại nên hiểu mặt trời cùng mây chẳng ngoài thể của hư không.

– Hai là tin Phật A Di Đà tu tập các hạnh trong vô số kiếp, làm những việc khó làm, nhẫn những điều khó nhẫn, ta cũng có thể làm được. Tại sao thế? Bởi từ trước trong vô số kiếp, khi ta bị chìm đắm ở ba ác đạo, chịu vô lượng sự khổ về thân tâm, khi thì mang lông đội sừng, lúc lại đọa nơi vạc dầu giường lửa. Những sự khổ vô ích như thế, ta đã từng trải qua và nhẫn chịu được; huống chi là muôn hạnh độ mình độ chúng sanh của Bồ Tát, ta há chẳng thể làm ư?

– Ba là tin Phật A Di Đà có vô lượng trí huệ, thần thông, thành tựu vô lượng nguyện lực cùng mọi việc, ta cũng sẽ được … Bởi trong tự tánh phương tiện của Như Lai, có đủ những việc không thể nghĩ bàn như thế. Lại bởi ta cùng Như Lai đồng một thể tự tánh thanh tịnh vậy.

– Bốn là tin Phật A Di Đà không đi không lại, ta cũng không đi không lại, cõi Cực Lạc và Ta Bà chẳng cách một đầu lông, muốn thấy liền thấy. Tại sao thế? Vì hai cõi đồng ở trong một thể chân tâm không phân biệt kia đây. Lại vì tất cả chư Phật đều lấy pháp tánh làm thân và độ vậy.

– Năm là tin Phật A Di Đà tu hành trải qua vô lượng vô biên kiếp cho đến khi thành đạo, vẫn không lìa một sát na, ta cũng không lìa một sát na mà địa vị ngang hàng với chư Phật. Tại sao thế? Bởi thời gian là huyễn hóa không thật, nhiếp về nghiệp hư vọng phân biệt. Trong biển pháp giới, tìm cái thật của nghiệp không thể được. Tin hiểu như thế là sơ tâm bước vào đạo, là tín hạnh Tịnh độ của tất cả chư Phật.

 

*… Thứ ba là Lục độ hạnh. Khởi Tín Luận nói: “Bồ Tát hiểu sâu sự tu hiện tại của mình vốn lìa tướng.

Vì biết thế của chân tâm lìa tham lam bỏn sẻn, nên tùy thuận tu hành Bố thí ba la mật.

Vì biết thể của chân tâm không ô nhiễm, lìa sự lỗi lầm của năm điều dục lạc, nên tùy thuận tu hành Trì giới ba la mật.

Vì biết thể của chân tâm không khổ, lìa phiền não giận hờn, nên tùy thuận hành Nhẫn nhục ba la mật.

Vì biết thể của chân tâm không có tướng thân tâm, lìa sự biếng trễ, nên tùy thuận tu hành Tinh tấn ba la mật.

Vì biết thể của chân tâm yên tĩnh, không tán loạn, nên tùy thuận tu hành Thiền định ba la mật.

Vì biết thể của chân tâm sáng suốt, lìa vô minh, nên tùy thuận tu hành Bát nhã ba la mật”.

 – Người tu Tịnh độ trong một câu niệm Phật, có đủ cả sáu môn như thế.

 

Niệm niệm xả lìa, tức là Bố thí.

Niệm niệm thanh tịnh, tức là Trì giới.

Niệm niệm vắng lặng không phân biệt kia đây, người và cảnh, tức là Nhẫn nhục.

Niệm niệm nối tiếp không gián đoạn, tức là Tinh tấn.

Niệm niệm quy nhứt, tức là Thiền định.

Niệm niệm trong sáng, tức là Bát nhã.

 

Sáu hành môn này đều từ câu niệm Phật mà lưu xuất, chánh và trợ không hai, sự cùng lý chẳng khác. Cho nên hạnh niệm Phật gồm tất cả hạnh, vì đó là Nhứt tâm pháp môn, vì ngoài tâm không có các hạnh vậy. Nếu bỏ các hạnh, tức là bỏ tâm, bỏ sự tức chẳng thành lý …”

Không bao lâu, Hoằng Đạo được triệu giữ lại chức cũ, lần lần thăng tiến đến ngôi Huân ly lang trung. Ít lúc sau lại cáo bịnh xin nghỉ, về nhà chẳng mấy ngày, liền vào thành Kinh Châu ở trọ trong chùa tăng tu niệm, rồi không bịnh mà qua đời.

 

Trung Đạo tức Tiểu Tu, sau khi về hưu, sớm hôm tinh cần niệm Phật. Một đêm, nhằm ngày rằm tháng mười năm Giáp Dần, vào niên hiệu Vạn Lịch thứ 42, khi khóa tụng xong, ông tĩnh tọa, cảm biết hình thần thanh sáng. Bỗng chợt có trạng thái như vào thiền định, thần thức vượt lên khỏi nhà, nương mây bay đi. Hai bên có đồng tử phò trợ, bảo: “Hãy theo chúng tôi!” Rồi đưa đi về phương Tây lẹ như chim bay. Trông chung quanh, ánh trăng vẫn sáng tỏ, gương nga lồ lộ giữa trời. Nhìn xuống dưới thấy núi, đầm, ruộng, nương, thành ấp, làng xóm, nhỏ như đống đất, chén nước, chòm ong, tổ kiến. Khi sa thấp xuống một chút, nghe mùi tanh hôi bốc lên, liền gắng sức vượt thẳng lên cao mới cảm thấy thanh nhẹ. Lần lần bay nhanh như chớp, trải qua không bao lâu, hai đồng tử bỗng hô lên bảo: “Dừng lại!” Rồi cùng đáp xuống đất.

Tiểu Tu nhìn quanh, thấy đường ngay như giây giăng, mặt đất bằng phẳng sáng chói trơn nhuần, chẳng phải chất cát đá. Dọc theo bên đường có đầm ao bề ngang rộng hơn mười trượng, thêm ao bằng bảo thạch có lằn như như viên chạm. Trong ao hoa sen năm sắc đua nhau tươi nở, thơm đẹp khác thường. Dài theo bờ ao có hàng cây sáng chói, các thứ chim lạ hòa nhau kêu thanh. Cách khoảng lại có cầu bằng vàng ngang qua ao làm ranh giới. Câu lơn liên tiếp làm mé thành cầu. Sau hàng cây bên bờ kia, có lầu các xinh lạ khó sánh ví. Người trong lầu có tướng mạo đều thanh sáng, tươi đẹp như thiên tiên, nhìn Tiểu Tu mà mỉm cười.

Hai đồng tử đi mau, cư sĩ đuổi theo không kịp, vội kêu lên rằng: “Xin tạm đứng trên cầu đợi tôi một chút!” Hai đồng tử y lời, ông mới bước theo kịp, cùng dựa lan can báu của cầu tạm dừng nghỉ. Tiểu Tu vòng tay hỏi: “Xin được hân hạnh cho biết hai vị là ai? Đây là nơi nào?” Một đồng tử đáp: “Chúng tôi là thị giả cùa Linh Hòa tiên sinh, ngài muốn cùng ông gặp gỡ nói đôi chuyện, nên bảo đến đón tiếp”. Cư sĩ lại hỏi: “Tiên sinh là bậc người thế nào?” Đáp: “Ngài chính là Lịnh huynh, Viên Hoằng Đạo tự Trung Lang đấy. Sau khi gặp mặt ông sẽ tự biết, hiện thời chúng ta phải kíp đi đến nơi!”

Nói xong cùng qua cầu theo đường tới một khu có hơn ngàn cội cây to, lá chất phỉ thúy, hoa cánh hoàng kim. Sau vùng cây có ao to rộng, qua cầu ao có cửa bằng bạch ngọc, một đồng tử đẩy cửa tiến vào trước. Đồng tử kia dẫn Tiểu Tu đi qua hơn hai mươi lớp lầu các, kim sắc chói rực rỡ, hoa linh cỏ lạ phơ phất bên thềm. Khi tới dưới toa lầu nọ có một vị thần thái tợ Trung Lang, mặt sáng như ngọc, áo tợ ráng mây, cao hơn trượng, bước đến đón rước, mừng rỡ bảo: “Em đã tới đó ư?” Rồi dắt tay lên lầu, trên đó có bốn năm vị tướng trạng như thiên nhơn, ngồi xung quanh.

Trung Lang nói: “Đây là cảnh biên địa ở Tây phương. Nhưng hành giả niệm Phật, tín giải chưa thành, giới châu chưa trọn, phần nhiều sanh về chốn nầy. Nơi đây cũng gọi là Giải Mạn Quốc (xứ của người tu còn bê trễ). Phương trên có lâu đài của Hóa Phật, trước lầu có ao to rộng hơn trăm do tuần, trong ao có sen báu. Chúng sanh mười phương sanh về gởi chất nơi hoa sen-ấy, đúng kỳ hoa nở, chia nhau đi ở các lầu đài, cùng các bạn tu tịnh có duyên tụ hội nhau. Do không có mỵ sắc dâm thanh, nên thắng giải dễ thành, chẳng bao lâu tu tiến lên sanh vào chánh quốc ở Cực Lạc!”

Tiểu Tu thầm nghĩ: “Cảnh đẹp như thế, mà hãy còn là biên địa ư?” Nhân đó hỏi: “Anh sanh về chỗ nào?” Trung Lang đáp: “Anh tịnh nguyện tuy tha thiết, song tình nhiễm chưa dứt trừ, ban sơ sanh về nơi đây ít lâu, nay thì đã được Tịnh độ. Nhưng do thừa gấp giới hưỡn, nên chỉ thuộc hàng địa cư, không được cùng bậc đại sĩ ở lầu các giữa hư không, còn phải tiến tu thêm nữa. Rất may lúc còn tại Ta Bà, nhờ trí huệ mãnh lợi, anh từng soạn bộ Tây Phương Hiệp Luận, khen ngợi công đức độ sanh không thể nghĩ bàn của Như Lai nên cảm báo được bay đi tự tại, dạo chơi các quốc độ. Chư Phật nói pháp, đều được đến nghe, đây thật là điều thù thắng!”

Nói xong, nắm tay Tiểu Tu bay lên hư không, phút chốc vượt ngàn muôn dặm, rồi đáp xuống một chỗ. Nơi đây không ngày đêm nhật nguyệt, ánh sáng rực rỡ chẳng bị ngăn che. Đất lưu ly trong ngoài chói suốt, trụ giây hoàng kim thất bảo giao xen ngăn chia ranh giới. Cây đều là thứ Chiên đàn, Cát tường, hàng hàng đối nhau, gốc gốc trông nhau, vài muôn ngàn lớp. Mỗi mỗi lá mọc ra các hoa đẹp mầu, màu sắc dị bảo. Bên dưới cây là ao báu, vô lượng đợt sóng gợn, tự nhiên phát ra tiếng pháp mầu. Đáy ao lót thuần bằng cát kim cương. Trong ao sen báu muôn mầu phóng ánh sáng dị sắc.

Dọc theo hàng cây bờ ao, lầu các nguy nga quanh lộn ẩn hiện, hiên thềm nhô ra, cột đỡ mái cong, cửa lớn cửa song giao chiếu, câu lơn báu quanh vây bao bọc, thảy đều đầy đủ. Xung quanh lầu các có treo vô lượng nhạc khí, tự khua động diễn các pháp âm. Những điều ghi chép trong kinh A Di Đà và Vô Lượng Thọ, so với đây mười phần chưa được một.

Ngước nhìn lên, nhiều lầu các lơ lửng giữa hư không, đẹp huyền ảo giữa những vầng mây ráng. Trung Lang bảo: “Chỗ em thấy là quang cảnh của hàng địa cư chúng sanh ở Tịnh độ. Qua khỏi chốn nầy là nơi ở của chư pháp thân đại sĩ, cảnh trí còn đẹp mầu ngàn muôn phần gấp bội hơn đây. Thần thông của các vị ấy cũng ngàn muôn phần bội hơn. Anh nhờ huệ lực có thể đến dạo chơi, mà không được ở. Khỏi nơi đó là chỗ cư trú của bậc Thập địa cùng Đẳng giác Bồ Tát, anh không thể đi đến và hiểu biết được. Xa hơn nữa, là cảnh giới của đấng Diệu giác, duy Phật cùng Phật mới có thể thấy biết!”

Nói xong, lại cùng bay đến một chỗ, điện các chói sáng khác thường, chẳng biết làm bằng chất gì. Cảm thấy hoàng kim bạch ngọc sánh với thứ báu nầy, dường như là sắc đất. Nơi đây không thành quách, chỉ có lan can bao bọc. Hai người cùng ngồi dưới lầu trò chuyện, Trung Lang nói: “Anh không ngờ cảnh lại đẹp vui cùng cực như vầy! Giả sử khi ở Ta Bà, anh giữ giới luật thêm tinh nghiêm, thì sự thọ lạc chẳng phải như thế mà thôi đâu! Đại để trước nhất, thừa giới đều gấp, sanh phẩm rất cao.

Thứ nữa, là giới gấp, sanh phẩm rất ổn (Thừa gấp: tâm giải ngộ sâu sắc. Giới gấp: sự giữ giới tinh nghiêm). Nếu có thừa mà không giới, phần nhiều bị sức nghiệp lôi kéo, sanh vào hàng Bát bộ quỉ thần. Những bạn đồng tu lâm vào cảnh nầy, anh đã trông thấy rất nhiều, về phần em, khí phần Bát nhã tuy sâu song sức giới định rất kém. Nếu giải ngộ lý mầu mà không sanh giới định, cũng thuộc loại cuồng huệ mà thôi!

Khi trở về Ta Bà, em phải nhân lúc còn mạnh khỏe mà thật ngộ thật tu, giữ tịnh nguyện cho tha thiết, siêng làm phương tiện giúp người, thương xót tất cả, chẳng bao lâu sẽ có lúc cùng hội ngộ. Nếu lơ là để lạc vào đường khác, thì thật là đáng kinh đáng sợ! Như chưa thể giữ giới hoàn toàn, hãy tuân hành theo pháp Lục trai của ngài Long Thọ cũng được. Trong các giới, sát giới rất quan yếu.

Xin gởi lời nhắn nhủ bạn đồng tu: Chưa có ai mỗi ngày tay cầm dao giết, miệng tham vị ngon, mà được sanh về cõi Cực Lạc! Dù cho có tài thuyết pháp như mưa sa mây cuốn, đối với sự tinh tu nếu không thật hành, cũng là vô ích! Anh cùng em từ thuở Phật Không Vương đã nhiều đời làm huynh đệ, cho đến khi luân hồi sáu cõi cũng đều như thế! Nay may mắn anh đã được về chỗ tốt, sợ em bị lạc vào ác đạo, nên phải dùng sức thần thông phương tiện, đem đến đây khuyên bảo. Bấy giờ báo nghiệp giữa hai cõi tịnh và uế khác nhau em không thể ở lâu được!

Tiểu Tu vội hỏi về chỗ sanh của Bá Tu cùng cậc đồng bạn đã mãn phần. Trung Lang đáp: “Nơi sanh của anh Tông Đạo và các vị đều tốt, về sau em sẽ tự rõ!” Nói xong, liền vượt lên hư không mà bay đi. Tiểu Tu đứng lên bước chậm rãi theo bờ ao ngoạn cảnh, bỗng như trượt té xuống nước, kinh hãi giật mình tỉnh lại. Lúc ấy cả thân xuất hạn, nhìn lại ngọn đèn tàn còn trên giá, ánh trăng sáng vẫn chiếu song, thời khắc đã sang canh tư. Liền vội lấy giấy bút ghi chép thiên “Tịnh Quốc Du Ký” nầy.

Trước kia, Tông Đạo có con trai tên Viên Đăng mới mười ba tuổi, bị bịnh uất hơi sắp mãn phần. Đứa bé nói với Hoằng Đạo rằng: “Cháu sắp chết, chú làm sao cứu cháu?” Trung Lang bảo: “Cháu chỉ chuyên niệm Phật, tất sẽ được sanh về cõi Cực Lạc. Nơi đây là cảnh ngũ trược không đủ để luyến tiếc!”

Đứa bé liền chắp tay liên tiếp niệm Nam mô A Di Đà Phật, hàng quyến thuộc cũng đồng thanh trợ niệm. Giây phút nó cười nói: “Cháu thấy một hoa sen sắc hơi đỏ”. Niệm thêm giây lát, lại bảo: “Hoa đã lần lần lớn, sắc tươi sáng, đẹp không thể tả!” Trong khoảnh khắc, lại nói: “Đức Phật đã đến, tướng tốt quang minh, thân cao lớn chật cả nhà!” Giây phút, nó thở hơi gấp.

Tông Đạo bảo: “Để người nhà trợ niệm, con chỉ xưng một chữ “Phật” sau chót cũng được”. Viên Đăng xưng Phật vài tiếng, chắp tay mà qua đời.

Comments

Popular posts from this blog