Đại Nhật Kinh Sớ (Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ) new sa-môn Nhất Hạnh
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần một
大毘盧遮那成佛經疏
Đại Đường Thiên Trúc Tam
Tạng Thiện Vô Úy, sa-môn Nhất Hạnh dịch kinh
大唐天竺三藏善無畏共沙門一行譯經
Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê ký
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ
Trang
* Thay lời dẫn nhập
Kinh Đại Nhật (tên gọi đầy đủ là Đại Tỳ Lô Giá Na Thành
Phật Thần Biến Gia Trì Kinh, Mahāvairocanābhi-saṃbodhi-vikurvitādhiṣṭhāna-vaipulya-sūtren-drarāja-nāmadharma-paryāya) cùng với kinh Kim Cang Đảnh là hai bộ kinh trọng yếu
trong Đông Mật. Từ các giáo nghĩa trong kinh Đại Nhật mà lưu xuất Thai Tạng Mạn
Đà La. Do không tu tập Mật Tông, đối với giáo nghĩa của Mật Tông, mạt nhân chỉ
hiểu biết sơ sài về mặt văn tự, lại không có cơ duyên tìm học và lãnh hội Mật
Tông. Do
vậy, mạt nhân rất ngần ngại khi phải chuyển ngữ các tác phẩm
liên quan đến Mật Tông. Chỉ vì trước kia do lòng
tham pháp mà đua đòi chuyển ngữ, lại được một số đạo hữu lầm tin tưởng, chẳng
chấp nhặt văn từ vụng dại, chữ nghĩa quê kệch, cứ cổ vũ mạt nhân tiếp tục làm
chuyện quá sức mình, đến nỗi một người bạn đạo vong niên cũng lầm tưởng mạt nhân đủ khả năng, nhiều lần yêu cầu dịch bộ chú giải
kinh Đại Nhật này. Anh nói: “Kinh Mật Tông đã được dịch rất nhiều, nhưng không
hiểu vì sao không ai dịch các tác phẩm chú giải, chú hãy giúp anh được đọc chú
giải của bộ kinh này trước khi nhắm mắt xuôi tay”. Mạt nhân cũng thử tìm kiếm
trên Internet, chắc là do quá low-tech, chưa tìm thấy bản dịch nào. Do cả nể và
từ chối mãi chẳng được, cũng như thấy vị đạo huynh ấy tuổi ngày một cao, đành
phải cắn răng làm liều, dùng kiến thức chấp vá, văn phong quê kệch để chuyển
ngữ tác phẩm trọng yếu này cho xong trách nhiệm.
Xét
trong Đại Tạng Kinh và Tục Tạng Kinh, ngài Nhất Hạnh để lại hai tác phẩm: Một
là Đại Nhật Kinh Sớ (gồm 20 quyển), và một phiên bản khác là Đại Tỳ Lô Giá Na
Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh Nghĩa Thích (14 quyển), mạt nhân chọn bản dài
hơn (tức bản Đại Nhật Kinh Sớ trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, phiên bản điện tử
của CBETA). Ngoài ra, do lời Sớ chỉ trích dẫn đại lược các đoạn
chánh kinh, chúng tôi cũng dựa theo chánh kinh trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh để trích dẫn nguyên văn các đoạn kinh được giảng giải ngõ hầu người đọc dễ
đối chiếu lời chú giải với chánh kinh. Đối với những chữ sai khác đôi chút giữa
bản chú giải và chánh kinh, chúng tôi sửa theo
chữ ghi trong bản chú giải của ngài Nhất Hạnh. Hơn nữa, tuy bản chú giải chia
thành hai mươi quyển, nhưng do thấy nhiều khi chưa giảng hết ý trong một đoạn
mà đã sang quyển khác, chúng tôi lược đi, không chia thành quyển để mạch văn
được liên tục. Kính mong Tam Bảo từ bi gia hộ, khiến cho con không đến nỗi
chuyển ngữ sai lạc ý Phật, ý Tổ, cũng như mong rằng bản dịch quê kệch này sẽ
phần nào hữu ích đối với các hành nhân sơ cơ có dịp hiểu đôi chút về giáo nghĩa
Mật Tông. Nếu có chút công đức nào, đều xin hồi hướng về pháp
giới chúng sanh, lịch đại tổ tiên, oán thân trái chủ, hiện tiền và quá khứ phụ
mẫu, sư trưởng, thiện ác tri thức cũng như mười phương chúng sanh đều cùng sanh
về Cực Lạc, diện kiến A Di Đà Phật, cùng nghe pháp, tấn tu, cùng chứng Bồ Đề.
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa đê đầu kính bạch
* Đôi nét về sa-môn Nhất Hạnh
Sa-môn
Nhất Hạnh (683-727), còn gọi là Nhất Hạnh A-xà-lê, pháp hiệu Kính Hiền, là một
vị cao tăng Mật giáo, đồng thời là một nhà thiên văn kiêm lịch pháp gia lỗi lạc
thời Đường. Ngài được tôn là một trong năm vị tổ của Đông Mật (Long Thọ, Kim
Cang Trí, Thiện Vô Úy, Bất Không, và Nhất Hạnh). Ngài quê ở Cự Lộc (nay là
huyện Cự Lộc tỉnh Hà Bắc. Có sách chép Ngài quê ở Xương Lạc thuộc Ngụy Châu,
nay là huyện Lạc thuộc tỉnh
Hà Nam), họ ngoài đời là Trương, tên Toại. Xuất thân từ một gia tộc hiển hách,
oai quyền (Ngài là hậu duệ của công thần Trương Công Cẩn thời Sơ Đường, nhưng
đến thời ông nội Ngài là Trương Đại Tố, đang làm Môn Hạ Tỉnh Đông Đài Xá Nhân
thì do phạm lỗi, bị biếm làm Trưởng Sử ở Hoài Châu, gia đạo bắt đầu suy vi).
Lúc mười hai tuổi, Ngài đã làu thông kinh sử, nổi tiếng nhớ dai, bất cứ sách vở nào hễ đọc qua
một lượt đều nhớ kỹ không sai. Năm hai mươi tuổi, Ngài đã tinh thông các học
thuyết lịch tượng, âm dương, ngũ hành. Sau khi đọc bộ Thái Huyền Kinh của Dương
Hùng, Ngài đã biên soạn hai tác phẩm Đại Diễn Đồ Quyết và Nghĩa Quyết trong
vòng mấy ngày, được các bậc hành gia đương thời đánh giá rất cao.
Khi
đó, Vũ Tam Tư (cháu của Vũ
Tắc Thiên) đang thao
túng triều chánh, nhiều lượt toan kết giao với Ngài để tăng thêm thanh thế. Thấy vậy, Ngài
lánh về phương Nam,
và bắt đầu chú ý đến Phật pháp. Sau khi song thân đều mất, Ngài gặp Hoằng Cảnh
Thiền Sư ở chùa Ngọc Tuyền thuộc Kinh Châu (lúc đó Ngài hai mươi mốt tuổi)
giảng pháp, bèn manh nha ý niệm xuất gia. Về sau, do theo học Thiền với ngài Tung Sơn Phổ Tịch, Sư bèn xuất gia làm Tăng (lúc đó Ngài khoảng
hai mươi bốn tuổi). Do Ngài thâm nhập Nhất Hạnh tam-muội, thầy liền ban pháp
danh là Nhất Hạnh. Sư lại
còn theo ngài Đương Dương Ngộ Chân học Luật. Ngài từng thâu thập những điều
trọng yếu trong luật tạng và kinh tạng, soạn thành bộ sách Nhiếp Điều Phục Tạng
gồm mười quyển, được đánh giá rất cao. Năm Khai Nguyên thứ năm (717), dưới sự
khẩn khoản yêu cầu của chú ruột đang làm Lễ Bộ Lang Trung trong triều, Ngài
nhập cung, chuẩn bị giúp ngài Thiện Vô Úy dịch kinh Mật giáo. Đồng thời, Ngài
cũng theo học Mật pháp với cả hai vị cao tăng Mật Tông thuở đó là Thiện Vô Úy
và Kim Cang Trí, được thọ quán đảnh.
Ngoài
ra, Ngài cũng tinh thông Đạo giáo, toán học, lịch pháp, đặc biệt là Phạn văn và
toán pháp của Ấn Độ. Năm Khai Nguyên thứ chín (721), Ngài vâng sắc chỉ của
Đường Huyền Tông, đính chánh lịch pháp, biên soạn bộ Đại Diễn Lịch Pháp gồm năm
mươi hai quyển (hoàn thành vào năm Khai Nguyên thứ 15, tức năm 727). Để giúp các nhà lịch
pháp đương thời tính toán lịch pháp dễ dàng
hơn, Ngài soạn các bộ Lịch Nghị (mười quyển), Lịch Lập Thành (mười hai quyển),
Lịch Thảo (hai mươi bốn quyển), Thất Chánh Trường Lịch (ba quyển) để thuyết
minh các nguyên tắc tính toán lịch số. Ngài lại cùng với Binh Tào Tham Quân
Lương Linh Toản chế ra dụng cụ Hoàng Đạo Du Nghi để tính toán vị trí chánh
xác của một trăm năm mươi mấy hằng tinh, đo lường chánh xác độ dài của kinh
tuyến trái đất, khảo sát sự vận hành của mặt trăng v.v… Từ các kết quả trắc
lượng, Ngài vẽ thành ba mươi sáu bộ bản đồ tinh tú. Ngài và các cộng sự như
Lương Linh Toản chế ra Hỗn Thiên Nghi là dụng cụ trọng yếu để nghiên cứu thiên
văn của cổ Trung Hoa, tính toán chuẩn xác quỹ đạo của các tinh tú.
Ngài
lại ghi chép những điều do ngài Thiện Vô Úy giảng về kinh Đại Nhật thành bộ Đại
Nhật Kinh Sớ (gồm hai mươi quyển), cũng như vận dụng rất nhiều kinh sách khác
để giảng rộng ý nghĩa chánh kinh. Có lẽ do quá lao lực, Ngài qua đời khi mới bốn mươi lăm
tuổi, thụy hiệu là Đại Huệ Thiền Sư. Ngài để lại một số trước tác như Tú Diệu
Nghi Quỹ, Phạm Thiên Hỏa La Nghi Quỹ, Thất Diệu Tinh Thần Biệt Hành Pháp, Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai Tiêu Tai Trừ Nạn Niệm Tụng Nghi Quỹ, Hoa Nghiêm Kinh
Hải Ấn Đạo Tràng Sám Nghi (bốn mươi hai quyển, soạn chung với đệ tử là Huệ
Giác), Thích Thị Hệ Lục (một quyển), Đại Tỳ Lô Giá Na Phật Nhãn Tu Hành Nghi
Quỹ, Mạn Thù Thất Lợi Diễm Mạn Đức Ca Niệm Tụng Nghi Quỹ, Bắc Đẩu Tinh Quân Hộ
Ma Pháp...
Trong
đó, theo ghi chép, sau khi bộ Đại Nhật Kinh được dịch xong vào năm Khai Nguyên
12 (724), ngài Nhất Hạnh cung thỉnh ngài Thiện Vô Úy giảng giải nghĩa lý trọng
yếu, chép lại những điều trọng yếu gọi là Nghĩa Thích (gồm mười bốn quyển).
Hiện thời, có các phiên bản gồm bảy quyển, mười quyển, mười một quyển, mười bốn
quyển và hai mươi quyển, nội dung cũng sai khác đôi chút.
Ngoài
ra, theo các sách Khai Nguyên Thích Giáo Lục và Tục Cổ Kim Dịch Kinh Đồ Kỷ,
ngài Nhất Hạnh đã cung thỉnh A-xà-lê Kim Cang Trí dịch Kim Cang Đảnh Du Già
Trung Lược Xuất Niệm Tụng Pháp (bốn quyển), Phật Thuyết Thất Câu Chi Phật Mẫu
Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni Kinh (một quyển) và được thọ quán đảnh. Do vậy, Ngài
là bậc A-xà-lê hoằng truyền của hai bộ Thai Tạng Giới và Kim Cang Giới Mạn Đà
La.
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ,
Quyển đệ nhất
1. Phẩm thứ nhất: Nhập Chân Ngôn Môn Trụ
Tâm (Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm phẩm đệ nhất, 入真言門住心品第一)
1.1. Lược giải tựa đề kinh
“Đại
Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì”: Tỳ Lô Giá Na (Vairocana)
theo âm tiếng Phạn là tên gọi khác của mặt trời, tức là ý nghĩa “trừ
tối tăm, sáng sủa trọn khắp”. Nhưng mặt trời trong thế gian có nơi
chốn, giới hạn. Nếu chiếu
bên ngoài, sẽ chẳng thể chiếu bên trong, chiếu sáng tại một bên này, sẽ chẳng chiếu sáng
bên kia. Lại chỉ chiếu sáng ban ngày, chẳng soi sáng ban đêm. Ánh sáng từ vầng
mặt trời trí huệ của Như Lai chẳng giống như vậy, trọn khắp hết thảy mọi nơi
đều chiếu sáng bừng, chẳng có nơi chốn “trong,
ngoài”, hay đêm, ngày sai khác.
Lại
nữa, mặt trời vận hành trong cõi Diêm Phù Đề, hết thảy cỏ cây, rừng lùm, tùy theo tánh chất của chúng đều được tăng
trưởng, các sự việc trong thế gian bởi đó mà được hoàn thành. Ánh sáng từ vầng
mặt trời Như Lai chiếu trọn khắp pháp giới, cũng có thể bình đẳng khai phát các
thứ thiện căn của vô lượng chúng sanh, cho đến sự nghiệp thù thắng trong thế
gian và xuất thế gian, không gì chẳng do vậy mà được hoàn thành. Lại như lúc
mây mù âm u che lấp mặt trời, nó cũng chẳng bị hoại diệt; gió mạnh thổi tan
mây, ánh mặt trời chiếu rạng, cũng chẳng phải là [tới lúc đó, mặt trời] mới
sanh. Vầng mặt trời Phật tâm cũng giống như thế, tuy bị mây dày vô minh, phiền
não, hý luận chướng lấp, nhưng nó chẳng giảm. Trong các pháp, Thật Tướng tam-muội viên
minh rốt ráo không ngằn mé, nó chẳng tăng! Do các nhân duyên như thế, mặt trời
của thế gian chẳng thể sánh ví [vầng mặt trời nơi Phật tâm], chỉ lấy chút phần
tương tự. Vì thế, thêm vào đó chữ Đại, mà nói là Ma Ha Tỳ Lô Giá Na vậy!
“Thành
Phật”: Nói đầy đủ theo âm tiếng Phạn sẽ là “thành Tam Bồ Đề”, [Tam Bồ Đề] có nghĩa là Chánh Giác
Chánh Tri, tức là dùng Như Thật Trí để biết quá khứ, vị lai, hiện tại, chúng
sanh số, phi chúng sanh số, hữu thường, vô thường v.v… hết thảy các pháp đều
hiểu biết rành rành, vì thế gọi là Giác. Nhưng Phật chính là Giác Giả (đấng
giác ngộ); do nói tỉnh lược, chỉ nói là “thành Phật”.
“Thần
biến gia trì”: Dịch theo lối cũ, sẽ là Thần Lực Sở Trì, hoặc Phật Sở Hộ
Niệm. Nhưng sự tự chứng Tam Bồ Đề này vượt ngoài hết thảy các tâm địa, hiện
tiền giác ngộ các pháp từ thoạt đầu vốn bất sanh, tức là ngôn ngữ đều dứt bặt,
tâm hạnh cũng vắng lặng. Nếu lìa khỏi sức oai thần của Như Lai, dẫu bậc Thập
Địa Bồ Tát còn chưa thuộc vào cảnh giới ấy, huống hồ những kẻ khác còn đang ở
trong sanh tử ư? Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn do nguyện đại bi từ xưa kia, nghĩ như
thế này: “Nếu ta chỉ trụ trong cảnh giới như thế này, các hữu tình sẽ
chẳng thể do vậy mà đạt được lợi ích”. Vì thế, Ngài trụ trong tam-muội
được gia trì bởi thần lực tự tại, vì khắp hết thảy các chúng sanh, nêu
bày đủ loại thân
tướng mà [chúng sanh trong] các đường thích thấy, nói đủ loại pháp đáng nên nghe ứng hợp với căn tánh và
lòng ưa thích [của từng loại chúng
sanh], tùy thuận các thứ tâm hạnh mà mở ra môn quán chiếu. Nhưng sự ứng hóa ấy
chẳng sanh từ thân, ngữ, hoặc ý của đức Tỳ Lô Giá Na. Trong hết thảy thời, xứ,
khởi lên, hay diệt mất, đều chẳng thể tìm được ngằn mé! Ví như huyễn sư (người
thực hiện huyễn thuật, ảo thuật gia) do sức chú thuật gia trì dược thảo, có thể
hiển hiện đủ mọi chuyện chưa từng có, ứng với ngũ tình[1],
khiến đại chúng đẹp lòng. Nếu rời bỏ sự gia trì, sau đó [các huyễn sự ấy] sẽ ẩn
mất. Kim cang huyễn của Như Lai cũng giống như thế, hễ duyên hết bèn diệt, cơ
duyên hưng khởi bèn sanh, mọi chuyện hễ tiếp xúc đều là chân thật, chẳng có
cùng tận. Vì thế nói là Thần Lực Gia Trì Kinh. Nếu xét theo Phạn bổn, tựa đề
đầy đủ phải là Đại Quảng Bác Kinh Nhân Đà La Vương. Nhân Đà La Vương chính là
Đế Thích. Ý nói kinh này là tạng bí yếu của hết thảy các đức Như Lai, oai đức
đặc biệt tôn quý trong các giáo thuộc Đại Thừa, ví như Thiên Mục là chúa trời
Đế Thích. Nay sợ tựa đề kinh rộng lớn, cho nên chẳng gọi đủ [theo danh xưng ấy]!
1.2. Lược giải tên phẩm
Đối
với phẩm Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm, bản tiếng Phạn có hai tựa đề:
-
Một là Tu Chân Ngôn Hạnh Phẩm.
-
Hai là Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm Phẩm.
Tôi
trộm cho rằng ý nghĩa của chữ Nhập Trụ đã kèm thêm ý Tu Hành, cho nên bỏ lối
nói rườm rà, chỉ chọn lấy một tựa đề.
Chân
Ngôn tiếng Phạn là Mạn-đát-la (Mantra), tức là chân ngữ, như ngữ (lời nói đúng
như sự thật), là tiếng chẳng quên, chẳng khác. Thích Luận[2] của
ngài Long Thọ gọi đấy là “phù hiệu bí mật”, dịch theo lối cũ
là Chú (呪); đó chẳng phải là cách dịch
chánh xác. Phẩm này luận định chung đại ý của kinh, tức là nói: “Tự tâm
của chúng sanh chính là trí Nhất Thiết Trí”. Hiểu rõ đúng như thật thì
gọi là Nhất Thiết Trí. Vì thế, kinh này dạy các Bồ Tát lấy chân ngữ làm môn, tự
tâm phát Bồ Đề chính là “tâm trọn đủ muôn hạnh, thấy Chánh Đẳng Giác
trong tâm, chứng Đại Niết Bàn trong tâm, phát khởi phương tiện nơi tâm, trang
nghiêm thanh tịnh cõi Phật trong tâm”. Từ nhân tới quả, đều dùng “vô sở trụ” (không
trụ vào đâu) để trụ cái tâm. Vì thế nói là phẩm Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm.
Nhập
Chân Ngôn môn, đại lược có ba sự:
-
Một là thân mật môn.
-
Hai là ngữ mật môn.
-
Ba là tâm mật môn, trong phần sau sẽ nói cặn kẽ điều này.
Hành
giả dùng ba phương tiện ấy để tự tịnh hóa ba nghiệp, tức là được tam mật của
Như Lai gia trì, cho đến trong đời này có thể trọn vẹn Địa Ba La Mật, chẳng còn
phải trải qua nhiều kiếp tu trọn các hạnh đối trị. Vì thế, kinh Đại Phẩm [Bát Nhã]
nói: “Hoặc hữu Bồ Tát sơ phát tâm thời, tức thượng Bồ Tát vị, đắc bất
thoái chuyển. Hoặc hữu sơ phát tâm thời, tức đắc Vô Thượng Bồ Đề, tiện chuyển
pháp luân “ (Có Bồ Tát khi sơ phát tâm, liền dự vào địa vị Bồ Tát bậc
thượng, đạt được bất thoái chuyển. Hoặc có vị khi mới phát tâm, liền đắc Vô
Thượng Bồ Đề, liền chuyển pháp luân). Ngài Long Thọ bảo là như đi xa, nếu cưỡi
dê thì lâu thật lâu mới đến. Ngựa thì nhanh hơn một tí. Nếu nương vào người có
thần thông, trong khoảng vừa dấy lên ý niệm là đã đến nơi, chẳng thể nói “trong
khoảng dấy lên một ý
niệm, sao có thể đến
được?” Thần thông giống như thế đó, chớ nên sanh nghi! Đấy chính là ý chỉ sâu
xa của kinh này vậy.
1.3. Giải thích kinh văn
(Kinh)
Như thị ngã văn: Nhất thời, Bạc Già Phạm trụ Như Lai gia trì quảng đại kim cang
pháp giới cung. Nhất thiết trì kim cang giả giai tất tập hội.
(經)如是我聞:一時薄伽梵住如來加持廣大金剛法界宮。一切持金剛者皆悉集會。
(Kinh:
Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Bạc Già Phạm trụ trong Như Lai gia trì kim
cang pháp giới cung rộng lớn. Hết thảy các vị trì kim cang thảy đều nhóm họp).
Khởi
đầu của một bộ kinh luôn có năm nghĩa như Đại Trí Độ Luận đã nói cặn kẽ, nhưng
bản tiếng Phạn của kinh này thiếu phần Thông Tự. A-xà-lê (tức ngài Thiện Vô Úy)
nói: “Tỳ Lô Giá Na đại bổn có mười vạn bài kệ, do to rộng khó trì, bậc
thánh nhân truyền pháp chọn lấy phần tông yếu gồm hơn ba ngàn bài tụng. Tuy
văn, nghĩa của chân ngôn và hành pháp nói chung là trọn vẹn, nhưng do không
phải là bản gốc của đại kinh, cho nên thiếu phần Thông Tự “. Nay theo lệ,
thêm vào thì ý
nghĩa cũng
chẳng bị ảnh
hưởng gì.
Bạc
Già Phạm (Bhagavān) theo giải thích của
bậc luận sư thì có sáu nghĩa. Nay dựa theo điều được đề cao trong kinh này, thì
Bạc Già Phạm có nghĩa là Năng Phá (có thể phá trừ), như người cầm vũ khí sắc bén, sẽ dẹp yên được nhiều [oán địch]! Đầu đuôi
của danh xưng ấy là do thế gian bàn luận, xem xét sự tích, cho nên gọi người ấy
là Năng Phá Giả (người có thể phá). Đức Thế Tôn cũng thế, dùng ánh sáng đại trí
phá hết thảy vô minh phiền não trong thức tâm. Các thứ vô minh vốn tự vô sanh
mà cũng chẳng có tướng mạo, nhưng mặt trời trí huệ vừa mọc thì tối tăm, mê hoặc
tự trừ. Do vậy, dựa theo ý nghĩa ấy mà gọi là Phá. Thích Luận cũng nói: “Bà
Già là Phá, Bà là có thể phá. Có thể phá dâm, giận, si, nên gọi là Bà Già Bà.
Nhị Thừa tuy phá Tam Độc, nhưng trọn chẳng sạch hết, như đồ đựng
hương vẫn còn sót lại mùi hương. Lại như thảo mộc đem đốt, do sức lửa yếu, tro
than chẳng hết. Như Lai như lửa lúc kiếp thiêu, [vạn vật] thảy đều cháy hết sạch
chẳng có khói, chẳng còn than! Vì thế, gọi là Bà Già Bà”.
Lại
nữa, Thanh Luận của Đế Thích nói
nữ nhân là Bạc Già, tức là ý nghĩa “mong cầu nhân duyên để có thể dứt
phiền não”. Lại còn có nghĩa là “sở tùng sanh” (được sanh bởi), tông chỉ của kinh Kim
Cang Đảnh chính là
được dịch theo nghĩa này. Nói “nữ nhân” thì tức là Bát Nhã
Phật Mẫu[3],
là bậc tri kiến vô ngại, thảy đều từ đó mà sanh. Do dốc chí mong cầu nhân
duyên, sẽ được tương ứng, phiền não và hý luận thảy đều vĩnh viễn dứt bặt,
chẳng như sức nóng dục vọng của thế gian tuy tạm ngưng dứt, mà thật ra càng tăng trưởng! Do Mật Giáo
không thể nói thẳng, có nhiều khi giống như ẩn ngữ, người học hễ tiếp xúc phải
suy tưởng.
Hơn
nữa, Bạc Già Phạm tức là “có thanh danh”, như người có nhiều
tài vật được gọi là Trì Tư Tài Giả (người nắm giữ tài vật), do có vàng nên gọi
là Trì Kim Giả. Do Như Lai trọn đủ đức hạnh thù thắng, nên gọi là Trì Chúng Đức
Giả (người nắm giữ các đức). Thích Luận cũng nói: “Bà Già là đức, Bà là
Có, tức [Bà Già Bà] là Có Đức. Bà Già là thanh danh, Bà là có, [Bà Già Bà] tức
là người có thanh danh”. Hết thảy thế gian, chẳng ai có thanh danh, đức hạnh như Phật; đó chính là ý nghĩa này vậy. Trong kinh,
[từ ngữ này] phần nhiều được dịch thành Thế Tôn, tức là danh xưng chung để tán
thán phẩm đức.
Trong cách nói của phương Tây (Ấn Độ), hễ nói đến bậc tôn quý, chẳng dám réo
thẳng tên, ắt là phải trước đó tán thán công đức của vị ấy, như nói Đại Trí Xá
Lợi Phất, Thần Thông Mục Kiền Liên, Đầu Đà Đại Ca Diếp, Trì Luật Ưu Bà Ly v.v…
Vì vậy, trong kinh, theo lệ ấy, bèn
nói Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na. Nay thuận theo cách hành văn của phương này, có
thể dùng Thế Tôn trong các phần sau vậy.
Kinh
nói “Bạc Già Phạm trụ Như Lai gia trì”, Bạc Già Phạm tức là bổn địa
Pháp Thân của Tỳ Lô Giá Na Phật. Kế đó, nói Như Lai, tức là thân gia trì của
Phật. Trụ xứ ấy được gọi là Thọ Dụng Thân của Phật. Tức là dùng thân ấy làm trụ
xứ được Phật gia trì. Đối với Như Lai tâm vương, chư Phật hễ trụ bèn trụ trong
đó. Từ đó, sanh ra sức gia trì trọn khắp hết thảy mọi nơi, tức là chẳng hai,
chẳng khác với vô tướng Pháp Thân, nhưng do thần lực tự tại, khiến cho hết thảy
chúng sanh trông thấy sắc tướng nơi Thân Mật, nghe âm thanh của Ngữ Mật, ngộ
pháp nơi Ý Mật, tùy thuộc căn tánh của họ mà chia thành đủ loại bất đồng, tức
là chỗ để trụ ấy được gọi là “gia trì xứ “.
Kế
đó, lại nhằm giải thích, tán thán trụ xứ được gia trì, bèn nói là “quảng
đại kim cang pháp giới cung”. “Đại” là chẳng có ngằn mé. “Quảng” là
chẳng thể tính đếm. “Kim cang” là sánh ví trí Thật Tướng, vượt
khỏi hết thảy các phương
cách diễn tả, suy lường của ngôn ngữ và tâm hạnh, tương ứng với “chẳng
nương tựa vào đâu”, chẳng chỉ bày các pháp, chẳng có đầu, giữa, sau,
chẳng tận, chẳng hoại, lìa các tội lỗi, chẳng thể biến đổi, chẳng thể phá hủy,
nên gọi là Kim Cang. Như chất báu kim cang trong thế gian có ba sự tối thắng:
Một là chẳng thể phá hoại, hai là bậc thượng trong các báu, ba là thù thắng
trong các khí cụ để chiến đấu. Điều này đại lược tương đồng với ý nghĩa của thí
dụ sánh ví ba loại Kim Cang tam-muội trong Thích Luận.
“Pháp
giới” chính là cái Thể của trí kim cang rộng lớn. Trí thể ấy được gọi là trí thân Thật
Tướng của Như Lai. Do được gia trì, nó chính là chỗ được trang nghiêm bởi công
đức chân thật, là cảnh diệu trụ, là cốt lõi của tâm vương; vì thế nói là Cung. Cung ấy chính là
chỗ cổ Phật thành Bồ Đề, được gọi là Ma Hê Thủ La Thiên Cung. Thích Luận
nói: “Năm loại trụ xứ của A Na Hàm thuộc Đệ Tứ Thiền Thiên gọi là Tịnh
Cư Thiên. Qua khỏi nơi đó, có trụ xứ của bậc Thập Trụ Bồ Tát, cũng gọi là Tịnh
Cư, hiệu là Đại Tự Tại Thiên Vương”. Nay ý nghĩa được đề cao, nêu tỏ ở
đây là “dùng cái tâm thần diệu gia trì tự tại để làm chỗ cư
trụ”, bèn
gọi là Tự Tại Thiên Vương Cung. Ý nói: Hễ chỗ nào Như Lai đáng nên ngự thì không gì chẳng
phải là cung điện ấy, chẳng phải chỉ biểu thị riêng [một nơi chốn nhất định]
trong tam giới.
“Nhất
thiết Trì Kim Cang giả giai tất tập hội” (hết thảy các vị Trì Kim Cang
thảy đều nhóm họp): Kế đó, nói về quyến thuộc mầu nhiệm. Như Lai ngự trong cung
ấy là ở một mình, hay là có quyến thuộc? Vì thế, bèn nói trong ấy có vô biên
quyến thuộc thường nhóm họp, tức là các vị như Chấp Kim Cang v.v… [Chấp Kim
Cang trong] tiếng Phạn là Phạt Chiết La Đà La (Vajradhara), Phạt Chiết La (Vajra) tức là kim
cang chử
(chày kim cang), còn Đà La (Dhara) nghĩa là “chấp trì” (nắm
giữ). Vì thế, lối xưa dịch [danh hiệu này] thành Chấp Kim Cang, nay nói là Trì
Kim Cang. Giải thích theo hai lối cạn và sâu, xét về ý nghĩa [thì cách dịch
mới] thù thắng hơn, cho nên trong kinh văn sẽ tùy thuộc thuận tiện mà sử dụng
lẫn nhau. Nếu biểu thị theo lối thông thường trong Thế Đế, thì sẽ nói “sanh
thân của Phật thường có năm trăm vị Chấp Kim Cang Thần chầu hầu, bảo vệ”.
Nhưng [xét theo] mật ý được đề cao ở đây thì Phạt Chiết La là Kim Cang Trí Ấn[4] của
Như Lai. Trí ấn như thế số nhiều vô lượng, người có thể trì ấn ấy cũng là vô
biên! Vì cớ sao vậy? Chỗ trụ của tâm vương ắt có tâm số (tâm sở) nhiều như cát bụi làm
quyến thuộc. Nay tâm vương Tỳ Lô Giá Na thành tựu tự nhiên giác, lúc bấy giờ,
hết thảy tâm số không gì chẳng vào trong kim cang giới, thành trí ấn nội chứng
công đức sai biệt của Như Lai. Trí ấn như thế chỉ có Phật và Phật mới có thể
nắm giữ. Xét theo ý nghĩa Bồ Đề, tức là có vô lượng vô biên kim cang ấn. Xét
theo ý nghĩa Phật Đà, sẽ có vô lượng vô biên vị Trì Kim Cang. Do các đức đều là
một tướng, một vị, quy vào Thật Tế, nên gọi là “tập hội” (nhóm
họp). Nếu có chút phần chẳng bằng, hoặc một pháp chưa viên mãn, sẽ chẳng gọi
là “nhất thiết tập hội” (hết thảy nhóm họp). Nhưng
do dùng thần lực tự tại gia
trì, từ tâm vương Tỳ Lô Giá Na bèn hiện ra thân gia trì tôn quý, đặc biệt. Lúc
đó, vô lượng pháp môn quyến thuộc, mỗi mỗi đều hiện thân Chấp Kim Cang, hòng
hiển lộ, phát khởi thế lực to lớn oai mãnh của Như Lai, ví như Đế Thích tay cầm
chày kim cang phá quân Tu La. Nay các vị Chấp Kim Cang ở đây cũng giống như
thế, mỗi vị đều từ một môn, cầm vũ khí Đại Không[5] có
thể phá hoại phiền não vô tướng của chúng sanh. Vì thế, dùng hình tướng ấy để
sánh ví.
(Kinh)
Như Lai tín giải du hý thần biến sanh đại lâu các bảo vương, cao vô trung biên,
chư đại diệu bảo vương chủng chủng gián sức, Bồ Tát chi thân vi sư tử tòa.
(經)如來信解遊戲神變生大樓閣寶王,高無中邊,諸大妙寶王種種間飾,菩薩之身為師子座。
(Kinh:
Do thần biến du hý tín giải của Như Lai, sanh ra lầu gác lớn là vua trong các
báu, cao vời,
chẳng có chặng giữa hay ngằn mé, các loại vua chất báu mầu nhiệm quý
nhất [dùng để] xen
kẽ trang hoàng, dùng thân của Bồ Tát làm tòa sư tử).
Đại
chúng đã nhóm họp, phải nên có chỗ thuyết pháp. Vì thế, kế đó nói đến lầu gác
để trụ và tòa sư tử. “Tín giải”: Bắt đầu từ thật sự phát tâm cho
đến khi thành Phật, trong khoảng giữa đó, gọi chung là Tín Giải Địa (địa vị tín
giải). [Tín Giải trong] tiếng
Phạn là Vi Cật Rị Nê Đa (Vikriḍita), có
nghĩa là “hăng hái, du hý, thần biến”, ý nói: Từ sơ phát tâm
cho tới nay, đã gieo sâu căn lành, dấy lên các thứ nguyện hạnh để trang nghiêm
cõi Phật, thành tựu chúng sanh, luôn tiến lên thù thắng, chẳng ngưng nghỉ, tức
là ý nghĩa “siêu thăng, vọt lên”. Như người được thúc đẩy, cổ
vũ, có thể dùng ba nghiệp thiện xảo khiến cho trọn khắp mọi người đều đẹp dạ.
Vì vậy, “vọt lên” bèn được gọi là “du hý”. Du
hý như thế chính là thần thông tự tại của Bồ Tát. [Chánh kinh có ý] nói đức Tỳ
Lô Giá Na khi hành Bồ Tát đạo, đã dùng Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội, cúng
dường vô lượng thiện tri thức, hành trọn khắp vô lượng các Độ môn (các Ba La
Mật môn), pháp tự lợi và lợi tha đều trọn đủ, có thể đạt được điện đài pháp
giới bí mật trang nghiêm do các chất báu trí huệ của Như Lai hợp thành như thế,
là cao tột bậc nhất trong hết thảy các thứ được sanh bởi Thật Báo, ví như Chân
Đà Ma Ni (Cintāmaṇi, Như Ý Bảo Châu) là vua của các chất báu. Vì thế nói
là “du hý thần biến sanh đại lâu các bảo vương”. Điện đường ấy
cao vô cùng, phải biết là nó cũng rộng không ngằn mé, do chẳng thể tìm được
giới hạn. Cũng lại không có trung gian, do là chỗ trụ của thân trong hết thảy
các xứ. Hãy
nên biết: Điện đường như thế cũng trọn khắp hết thảy mọi nơi.
Kế
đó, nói về tướng trạng trang nghiêm của điện đường: Giống như có người dùng đủ loại kim cang nhiều màu để
trang nghiêm kim cang, nhưng thể tánh của chúng chẳng có sai biệt. Nay ở đây cũng như thế: Lại
dùng các thứ công đức bảo vương của Như Lai để xen kẽ trang hoàng lâu các bảo
vương. Vì sao vậy?
Chẳng có pháp nào khác xuất sanh tánh báu như thế. Nhưng tướng tịch diệt bậc
nhất ấy, do được thần lực của Như Lai gia trì, khiến cho người đáng được độ sẽ
tùy theo các biểu tượng của các pháp môn, nếu có thể thấy, nghe, tiếp
xúc, liền dùng
môn ấy để nhập pháp giới, như nhân duyên Thiện Tài đồng tử vào cung điện của
ngài Di Lặc.
Ở
đây, phải nên nói cặn kẽ về chuyện dùng thân Bồ Tát làm tòa sư tử: “Kim
cang pháp giới cung” vừa nói trên đây chính là thân của Như Lai. Kế
đó, nói tới “đại
lâu các bảo vương”, đấy
cũng chính là thân của Như Lai. Nay nói “tòa sư tử”, hãy nên
biết cũng như thế. Sở dĩ nói “thân của Bồ Tát” tức là nói khi
hành Bồ Tát đạo, lần lượt tu hành Ba La Mật thuộc mỗi địa vị, cho đến địa vị
thứ mười một. Hãy nên biết: Địa vị sau dùng địa vị trước làm nền tảng. Vì thế
nói “Như Lai dùng thân Bồ Tát làm tòa sư tử”. Thích Luận
viết: “Ví như sư tử là vua trong các loài thú, đi một mình chẳng sợ
hãi. Phật cũng giống như thế, trong chín mươi sáu loại ngoại đạo, hàng phục hết
thảy vô úy. Vì thế, gọi là ‘nhân trung sư tử’ (sư tử trong loài người). Chỗ
Ngài ngồi, dù là giường hay mặt đất, đều gọi là sư tử tòa”. Đối với ý
nghĩa được đề cao, nêu tỏ ở đây, nói “sư tử” tức là nói tới
tâm Bồ Đề dũng kiện. Từ sơ phát ý tới nay, đạt được thế lực tinh tấn to lớn,
chẳng hề khiếp nhược, giống như sư tử tùy ý bắt giữ, ắt đều đạt được chẳng sót, tức là ý
nghĩa “tự tại độ người khác chẳng bỏ sót” vậy! Nếu giải thích
nông cạn, đại lược, sẽ là có ý nói các Bồ Tát thâm tâm kính pháp, cho đến dùng
thân để gánh đội tòa sư tử của Phật. Vì thế nói: “Thân Bồ Tát làm tòa sư
tử”.
(Kinh)
Kỳ kim cang danh viết Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang, Hư Không Du Bộ Chấp Kim
Cang, Hư Không Sanh Chấp Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang, Thiện Hành Bộ
Chấp Kim Cang, Trụ Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Chấp Kim Cang, Ai Mẫn Vô Lượng Chúng
Sanh Giới Chấp Kim Cang, Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Đại Na La Diên Lực Chấp
Kim Cang, Diệu Chấp Kim Cang, Thắng Tấn Chấp Kim Cang, Vô Cấu Chấp Kim Cang,
Nhận Tấn Chấp Kim Cang, Như Lai Giáp Chấp Kim Cang, Như Lai Cú Sanh Chấp Kim
Cang, Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang, Như Lai Thập Lực Sanh Chấp Kim Cang, Vô Cấu
Nhãn Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ. Như thị thượng thủ, thập Phật sát
vi trần số đẳng Trì Kim Cang chúng câu, cập Phổ Hiền Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát,
Diệu Cát Tường Bồ Tát, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát đẳng, chư đại Bồ Tát
tiền hậu vi nhiễu, nhi diễn thuyết pháp.
(經)其金剛名曰:虛空無垢執金剛、虛空遊步執金剛、虛空生執金剛、被雜色衣執金剛、善行步執金剛、住一切法平等執金剛、哀愍無量眾生界執金剛、那羅延力執金剛、大那羅延力執金剛、妙執金剛、勝迅執金剛、無垢執金剛、刃迅執金剛、如來甲執金剛、如來句生執金剛、住無戲論執金剛、如來十力生執金剛、無垢眼執金剛、金剛手祕密主,如是上首,十佛剎微塵數等持金剛眾俱,及普賢菩薩、慈氏菩薩、妙吉祥菩薩、除一切蓋障菩薩等諸大菩薩,前後圍繞而演說法。
(Kinh:
Danh hiệu kim cang của các vị ấy là: Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang, Hư Không Du
Bộ Chấp Kim Cang, Hư Không Sanh Chấp Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang,
Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang, Trụ Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Chấp Kim Cang, Ai
Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp Kim Cang, Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Đại
Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Diệu Chấp Kim Cang, Thắng Tấn Chấp Kim Cang, Vô
Cấu Chấp Kim Cang, Nhận Tấn Chấp Kim Cang, Như Lai Giáp Chấp Kim Cang, Như Lai
Cú Sanh Chấp Kim Cang, Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang, Như Lai Thập Lực Sanh Chấp
Kim Cang, Vô Cấu Nhãn Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ. Các vị thượng thủ
như thế, các vị Trì Kim Cang nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật nhóm đến,
và Phổ Hiền Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Trừ Nhất Thiết Cái
Chướng Bồ Tát v.v… Các vị đại Bồ Tát trước sau vây quanh, diễn nói pháp).
Kế
đó, nói về đại chúng cùng nghe pháp.
Hỏi:
Đức Phật nói kinh, vì lẽ gì mà nói trụ xứ và quyến thuộc trước hết?
Đáp:
Ví như quốc vương, nếu có chánh lệnh, ắt trước hết công bố tới các khu vực quản
lý để chế định, quyết đoán hình phạt, và tưởng thưởng. Khi đó, sử quan sẽ chép: “Vào lúc
nào đó, vua ở chỗ nào đó, cùng với các đại thần nào đó tụ tập, bàn bạc, có mạng lệnh như thế này…” muốn khiến cho [toàn dân]
trong nước tin phục, thực hiện theo, chẳng còn nghi ngờ! Pháp vương cũng thế,
sắp nói đại pháp, ắt ngự trong đại quyến thuộc là các vị Bồ Tát để họ chứng
minh. Do bởi nhân duyên ấy, người nghe sẽ sanh lòng tin. Do tín tâm, sẽ có thể
từ trong pháp như thế mà tu hành, chứng đắc, tín tâm càng nẩy sanh gấp bội. Vì
thế, trước hết liệt kê đại chúng.
Hư
Không Vô Cấu Chấp Kim Cang (Vimalākāśa-vajradhāra) tức là tâm thể Bồ Đề
lìa hết thảy chấp trước, tranh cãi, hý luận, như hư không thanh tịnh chẳng có
chướng ngại, ngăn lấp. hý luận, vô cấu, vô nhiễm, mà cũng chẳng phân biệt. Cái
tâm như thế chính là Kim Cang trí ấn. Có thể nắm giữ cái ấn như thế, thì gọi là
Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang.
Kế
đó, Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang (Ākāśavicaraṇa-vajradhāra). “Du bộ” (Vicaraṇa)
có nghĩa là “chẳng trụ, tiến lên thù thắng, thần biến”. Do tâm
Bồ Đề thanh tịnh đối với hết thảy các pháp đều chẳng trụ, thường tấn tu vạn
hạnh, khởi đại thần thông. Vì thế, nói là Hư Không Du Bộ. Lại nữa, Hư Không Vô
Cấu Chấp Kim Cang, tức là chủng tử bình đẳng của môn chữ A[6],
tu vô trụ hạnh, ví như phương tiện gieo trồng thì rễ, mầm dần dần nẩy sanh. Vì thế, kế đó
nói tới chuyện phát hành kim cang ấn.
Vị
thứ ba là Hư Không Sanh Chấp Kim Cang (Ākāśasaṃbhava-vajradhāra). Như mầm
mộng đã nẩy sanh, Tứ Đại và thời tiết làm duyên, hư không vô ngại vun quén trong
mỗi niệm. Tâm Bồ Đề cũng giống như thế, dùng “vô sở đắc” làm
phương tiện, vạn hạnh làm duyên, đạt được sự sanh khởi chân thật. Đó gọi là Đại
Không Sanh; vì thế gọi là Hư Không Sanh.
Vị
thứ tư là Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang (Citravasadhṛk-vajradhāra), như mầm mộng
tăng trưởng, thân, lá, hoa, quả lần lượt trổ sum suê. Bồ Đề tâm thụ vương vạn đức nở xòe cũng giống như
thế. Vì thế nói là “đầy đủ các thứ sắc”. Lại dùng các thứ pháp
giới sắc để nhuộm tâm
Bồ Đề vô cấu này thành Đại Bi Mạn-đồ-la; nên gọi là Bị Tạp Sắc Y (mặc áo nhiều
màu).
Vị
thứ năm là Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang (Vicitracaraṇa-vajradhāra). Chữ Thiện
này trong tiếng Phạn là Tỳ Chất Đa La (Vicitra), có nghĩa là “đoan
nghiêm, chủng tử”. Ví
như đã có được quả, hạt, lại còn là chủng tử. Thiện Hành Bộ tức là oai nghi của
chư Phật, tức là khéo biết các thứ “thông, tắc” như “có thể
độ, không thể độ” v.v… Dùng phương tiện nơi thân miệng, ý ứng hợp các căn cơ,
khéo léo uốn nắn, khiến
cho họ đều thành tựu Phật sự. Vì thế, dùng đó để đặt tên.
Vị
thứ sáu là Trụ Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Chấp Kim Cang
(Sarva-dharma-samatasthita-vajradhāra), tức là trụ trong tánh bình đẳng của hết
thảy chư Phật, ý nói hết thảy các pháp như nhân, quả, tự, tha, hữu vi, vô vi
v.v… nhập trong Như Thật Trí ấy, rốt ráo bình đẳng, cùng là một Thật Tế. Do có
thể nắm giữ trí ấn ấy, nên dùng đó để đặt tên.
Nhưng
cả năm câu trên đây cũng đều là công đức chân thật của Như Lai, chẳng có cạn
hay sâu sai khác; chỉ vì muốn phân biệt cho dễ hiểu mà nói theo thứ tự vậy.
Vị
thứ bảy là Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp Kim Cang
(Apramana-sattvadhat-vonukampana-vajradhāra). Ai Mẫn (xót thương) ở đây còn gọi
là Cứu Độ, ý nói đã trụ trong pháp tánh bình đẳng, tự nhiên phát khởi cái tâm
đồng thể bi mẫn đối với hết thảy chúng sanh. Do các chúng sanh giới vô lượng,
đại bi như thế cũng chẳng có hạn lượng! Đấy là một công đức của Như Lai; vì
thế, người có thể trì [công đức ấy] bèn lấy đó làm tên.
Vị
thứ tám là Na La Diên Lực Chấp Kim Cang (Nārāyaṇabala-vajradhāra). Đã phát tâm
thương xót, nếu có oai thế lớn, sẽ có thể cứu vớt, che chở; do vậy, kế tiếp bèn
nói đến [điều này]. Trong kinh đã so lường, sức của sáu mươi con voi không bằng
sức của một hương tượng, cho đến cuối cùng, sức của Na La Diên là tối thắng.
Mỗi lỗ chân lông nơi sanh thân của đức Phật đều có sức bằng Na La Diên. Vì thế,
dùng sức Na La Diên để sánh ví pháp giới thân.
Vị
thứ chín là Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang (Mahānārāyaṇabala-vajradhāra), ý
nói vị này nắm giữ sức thần thông bí mật. Như Nhất Xiển Đề (Icchāntika)[7] là
căn bệnh
ắt phải chết, hàng Nhị Thừa dùng Thật Tế để xác chứng người ấy đã chết, chư
Phật y vương do thấy [kẻ đó có] Như Lai tánh, bèn có thể thực hiện sư tử hống
nhất định, đối với nhân duyên cứu chữa, tâm chẳng khiếp nhược. Các vị Bồ Tát
còn chẳng thể làm như thế, cho nên lại nói sức bất cộng của hết thảy Ma Ha Na
La Diên.
Vị
thứ mười là Diệu Chấp Kim Cang (Su-vajradhāra). Diệu nghĩa là “không có
gì sánh bằng, không có gì hơn được”, giống như đề hồ đã tinh luyện mầu
nhiệm tối cực, chẳng thể tăng thêm nữa, thường chẳng biến đổi, chẳng gián đoạn,
chẳng xen tạp. Như Lai cũng thế, hết thảy các công đức đều không sánh bằng, vô thượng, tất
cả các việc làm cũng đều chỉ vì một đại sự nhân duyên. Vì thế, gọi là Diệu Chấp
Kim Cang.
Vị
thứ mười một là Thắng Tấn Chấp Kim Cang (Paramavega-vajradhāra), Thắng là nói
tới Đại Không, Đại Không trọn khắp hết thảy mọi nơi. Vì thế, có thể khởi lên
thần thông nhanh chóng. Trụ trong thừa ấy, lúc mới phát tâm, liền thành Chánh Giác, bất động sanh tử mà
đạt tới Niết Bàn. Vì thế, gọi là Thắng Tấn.
Vị
thứ mười hai là Vô Cấu Chấp Kim Cang (Vimala-vajradhāra), tức là tâm Bồ Đề lìa
hết thảy các chướng. Ví như vàng ròng, thể tánh thuần tịnh, nếu nung
luyện đủ mọi cách,
dùng các thứ báu mài bóng, sẽ rạng ngời gấp bội, sẽ biết thoạt đầu thể chất của
vàng còn lẫn các chất nhơ nhỏ nhiệm. Do có thể trì kim cang ấn rốt ráo thanh
tịnh ấy, nên lấy đó làm tên.
Vị
thứ mười ba là Nhận Tấn Chấp Kim Cang (Balavega-vajradhāra). Chữ Nhận này, bản
tiếng Phạn ghi là Phẫn như trong phẫn nộ, hàm nghĩa “sắc bén nhất trong các thứ
sắc bén”, có nghĩa là giống như mũi đao bén. Trì Kim Cang lợi trí này, hết thảy
các chỗ khó đoạn đều đoạn, chỗ khó diệt đều diệt. Vì thế, lấy đó làm tên.
Vị
thứ mười bốn là Như Lai Giáp Chấp Kim Cang (Tathāgatakavaca-vajradhāra). Áo
giáp của Như Lai chính là đại từ. Do dùng đó để trang nghiêm thân, nhiếp thủ,
bảo vệ chúng sanh thực hiện Phật sự, chẳng bị hết thảy phiền não gây thương
tổn, chẳng thể bị chúng nó (các phiền não) hàng phục, ngăn trở, phá hoại, nên
dùng đó làm tên.
Vị
thứ mười lăm là Như Lai Cú Sanh Chấp Kim Cang (Tathāgatapādobhava-vajradhāra). “Cú” là
trụ xứ, tức Đại Không Sanh. Công đức tự chứng của chư Phật sanh từ Như Lai
tánh. Thân gia trì ấy sanh từ công đức tự chứng của Như Lai. Do chẳng lìa môn
chữ A, nên gọi là Như Lai Cú Sanh.
Vị
thứ mười sáu là Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang
(Niḥprapanca-pratiṣṭha-vajradhāra), tức là trụ trong Đại Không
huệ. Ý nói quán duyên khởi Thật Tướng, vô sanh, vô diệt, chẳng đoạn, chẳng
thường, cũng chẳng phải là “đến, đi, một, khác”, tức là ở trong sự dứt bặt các
hý luận, pháp như Niết Bàn. Trì trí ấn như thế, nên có thể lấy đó làm tên.
Vị
thứ mười bảy là Như Lai Thập Lực Sanh Chấp Kim Cang
(Tathāgata-daśabalodbhava-vajradhāra), tức là phương tiện trí của Phật. Sự
quyền xảo khéo léo như thế sanh từ chỗ nào? Chính là sanh từ mười trí lực của
Như Lai. Trì cái ấn như thế, cho nên có thể lấy đó làm tên.
Vị
thứ mười tám là Vô Cấu Nhãn Chấp Kim Cang (Vimalanetra-vajradhāra). Ngũ nhãn
của Như Lai do Bồ Tát tâm rốt ráo thanh tịnh, dùmg hết thảy các phép Quán để
quán hết thảy các pháp; thấy,
nghe, hay, biết rành rành, chẳng hề vướng mắc. Có thể trì kim cang ấn như thế,
cho nên lấy đó làm tên.
Vị
thứ mười chín là Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ (Vajrapāṇi Guhyanātha). Bá Ni (Pāṇi)
trong tiếng Phạn là bàn tay. “Chưởng trì kim cang” (bàn tay
nắm giữ chày kim cang) có nghĩa tương đồng với “thủ chấp” (tay
cầm). Vì thế, kinh dùng lẫn lộn hai danh xưng ấy. Phương Tây coi Dạ Xoa là bí
mật, do thân, miệng, ý của chúng nhanh chóng, bí ẩn, khó biết rõ! Dịch theo lối xưa, sẽ là Mật Tích (密迹). Nếu nói theo ý nghĩa nông cạn, sơ lược,
thì Bí Mật Chủ chính là Dạ Xoa vương. Vị này thường cầm chày kim cang, theo hầu
cận, bảo vệ đức Phật. Do
vậy, gọi là Kim Cang Thủ. Nhưng [xét theo] ý nghĩa sâu xa ở đây, nói Dạ Xoa tức
là thân ngữ ý mật của Như Lai, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết. Thậm chí
các vị như Di Lặc Bồ Tát v.v… đối với sức thần thông bí mật như thế, vẫn chẳng
thể biết. Bí mật nhất trong các điều bí mật, đó gọi là điều chủ yếu trong tâm
mật; vì thế nói là Bí Mật Chủ. Có thể trì cái ấn ấy, nên nói là Chấp Kim Cang.
“Như
thị thượng thủ, thập Phật sát vi trần số đẳng Trì Kim Cang chúng câu” (Các
vị thượng thủ như thế, các vị Kim Cang chúng nhiều như số lượng vi trần trong
mười cõi Phật cùng nhóm họp): Nếu xét theo bản tiếng Phạn đầy đủ, đối với mỗi danh xưng được liệt kê, đều
có chữ Đa (nhiều), phải nên nói “Hư Không Cấu đẳng, Hư Không Du Bộ
đẳng” (các vị Hư Không Vô Cấu, các vị Hư Không Du Bộ), cho đến “Bí
Mật Chủ đẳng”. Vì lẽ nào vậy? Các vị thượng thủ Chấp Kim Cang ấy, mỗi
mỗi đều có vô lượng quyến thuộc bộ loại, Đại Bổn thì ghi trọn vẹn, [bản này]
chỉ nêu ra những nét cương yếu, thì cành, nhánh đều thuận theo. Đối với tác
dụng đề xướng nói chung, chẳng đáng coi là thiếu khuyết. Nói “thập Phật
sát vi trần số”, tức là Như Lai trí ấn sai biệt, số nhiều vô lượng,
chẳng thể dùng toán, số, thí dụ mà hòng biết được. Lại do mười loại trí lực của Như Lai, mỗi
trí đều đối ứng với số lượng vi trần trong một cõi Phật để biểu thị số lượng
trong chúng hội, mang ý nghĩa thế giới hải, thế giới tánh và một Phật sát, như
trong Thích Luận đã nói cặn kẽ. Nhưng các đức nội chứng của Tỳ Lô Giá Na này,
do được gia trì, từ mỗi một trí ấn, đều hiện ra thân Chấp Kim Cang, hình sắc,
tánh loại đều có biểu tượng, mỗi vị đều thuận theo tánh bổn duyên, hòng dẫn dụ,
nhiếp thọ chúng sanh. Nếu các hành nhân ân cần tu tập, sẽ có thể khiến cho ba
nghiệp cùng quy vào Bổn Tôn, từ một môn mà nhập pháp giới, tức là nhập trọn
khắp hết thảy các pháp giới môn.
Kế
đó, liệt kê các vị Bồ Tát, lấy bốn vị thánh nhân làm thượng thủ. Các vị Chấp
Kim Cang được nói trước đó, nhất loạt là trí ấn của Như Lai. Nay các vị Bồ Tát
này có ý nghĩa vừa là Định, Huệ, lại vừa là từ bi. Vì thế, nhận lấy các danh
hiệu sai biệt, nhưng vẫn là công đức nội chứng của Tỳ Lô Giá Na. Như các vị
Chấp Kim Cang nhiều bằng
số lượng vi trần trong mười cõi Phật, hãy nên biết là đối ứng với các pháp môn
của các vị Bồ Tát, cũng có số lượng bằng số vi trần trong mười cõi Phật. Do
được gia trì, mỗi vị đều từ một môn pháp giới mà hiện ra thân một vị thiện tri
thức. Theo Bát Nhã Thích Luận, khi Sanh Thân Phật (tức thân Phật Thích Ca trong thế giới Sa Bà này) thành
đạo, A Nan, Mật Tích Lực Sĩ v.v… được gọi là “nội quyến thuộc”, còn
các vị thánh nhân như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v… và các vị A-tỳ-bạt-trí
(Bất Thoái Chuyển) Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát như Di Lặc, Văn Thù v.v… thì được gọi
là “đại quyến thuộc”. Nay nói thân gia trì của Phật cũng giống
như thế. Các vị Chấp Kim Cang ai nấy trì mật ấn của Như Lai thì được gọi
là “nội quyến thuộc”, các vị Bồ Tát dùng phương tiện đại bi
phổ môn nhiếp thọ vô lượng chúng sanh, phù tá đấng pháp vương hành Như Lai sự,
gọi là “đại quyến thuộc”. Vì thế, Đại Phẩm [Bát Nhã]
nói: “Dục vi chư Phật nội quyến thuộc, dục đắc đại quyến thuộc giả,
đương học Bát Nhã Ba La Mật dã” (Muốn làm nội quyến thuộc của chư
Phật, muốn có đại quyến thuộc, hãy nên học Bát Nhã Ba La Mật).
“Phổ
Hiền Bồ Tát”: Phổ có nghĩa là “trọn khắp hết thảy mọi nơi”;
Hiền nghĩa là “điều thiện mầu nhiệm nhất”, tức là do tâm Bồ Đề
khởi lên nguyện hạnh và thân, khẩu, ý, thảy đều bình đẳng trọn khắp hết thảy
mọi nơi, diệu thiện thuần nhất trọn đủ các đức. Do vậy, đặt tên như thế.
“Từ
Thị Bồ Tát”: Ý nói trong Tứ Vô Lượng Tâm của Phật, nay xưng tụng Từ làm đầu. Lòng Từ ấy
sanh từ chủng tánh Như Lai, có thể khiến cho hết thảy thế gian chẳng đoạn Phật
gia, nên nói là Từ Thị. Phổ Hiền được nói trong phần trước là đức tự chứng, bổn
nguyện đã mãn. Do muốn
giáo hóa chúng sanh khiến cho họ đắc đạo ấy, nên kế đó nói đến Từ.
“Diệu
Cát Tường Bồ Tát” (Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát): “Diệu” là
vô thượng huệ của Phật, giống như đề-hồ
thuần tịnh bậc nhất. Chữ Thất Lợi (Śrī) [trong tiếng Phạn] được dịch nghĩa thành Cát Tường, tức là ý
nghĩa “trọn đủ các đức “. Hoặc dịch là Diệu Đức, và cũng dịch
là Diệu Âm. Ý nói: Do sức đại từ bi, diễn nói pháp âm mầu nhiệm, khiến cho hết
thảy đều nghe. Cho nên Ngài được nêu ra kế tiếp Di Lặc Bồ Tát.
“Trừ
Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát” (Sarvanīvaraṇa-viṣkaṃbhin): Nói
Chướng là nói đến các thứ tâm cấu của chúng sanh, chúng có thể che lấp, khiến cho tịnh nhãn của Như Lai chẳng
thể mở sáng. Nếu dùng pháp vô phân biệt để diệt các hý luận, như mây mù tiêu
trừ, vầng mặt trời chiếu rạng. Vì thế nói là Trừ Cái Chướng. Tất cả việc làm
của Như Lai thảy đều vì một đại sự nhân duyên này. Do vậy, vị Bồ Tát này được kể tên sau ngài Diệu Âm.
Hơn nữa, hành nhân tuy học Bát Nhã Ba La Mật, nhưng nếu chẳng có Thiền Định, sẽ
giống như kẻ mù, tuy gặp ánh sáng mặt trời, chẳng thể làm được gì. Vì thế, sau
diệu huệ của ngài Văn Thù, bèn nói Trừ Cái Chướng tam-muội.
Bốn
vị Bồ Tát này chính là Tứ Đức nơi thân Phật, hễ thiếu khuyết đức nào, sẽ
chẳng thể thành Vô Thượng Bồ Đề. Do vậy, xếp các Ngài thành bậc thượng thủ, để
thống lãnh các đức nhiều như cát bụi. “Chư đại Bồ Tát”: Nói đầy đủ
theo tiếng Phạn thì phải là Ma Ha Bồ Đề Tát Đỏa (Mahabodhisattva). Thích Luận
nói: “Bồ Đề là đạo của chư Phật, Tát Đỏa là chúng sanh, hoặc là tâm
dũng mãnh. Người ấy muốn đắc trọn hết công đức của chư Phật, tâm người ấy chẳng
thể đoạn, chẳng thể phá, như núi kim cang, được gọi là Tát Đỏa. Lại nữa, tâm
người ấy có thể làm đại sự, chẳng lui sụt, chẳng chuyển, do tâm đại dũng mãnh. Trong
nhiều chúng sanh, [người ấy] khởi đại từ bi, thành lập Đại Thừa, có thể hành
đại đạo, đạt được chỗ lớn nhất. Vì thế, ắt có thể thuyết pháp, phá các thứ phiền não như tâm đại tà
kiến, đại ái, đại ngã v.v… của hết thảy chúng sanh. Vì thế gọi là Ma Ha Tát
Đỏa”.
[Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu
xét theo chánh nghĩa, phải nói là Bồ Đề Sách Đá. Sách Đá ở đây có nghĩa là nhẫn
lạc tu hành, giữ vững, chẳng
xả”. Nhưng
Thanh Minh[8] có
pháp tắc như
thế này, nếu luận theo văn tự, nghĩa ấy tuy đúng, nhưng nếu âm vận không trôi
chảy, liền sử dụng cách nói thuận tiện. Vì thế, các luận sư trong cõi đời nói
là Tát Đỏa, người lưu
truyền, tu tập cũng thuận
dùng từ
ngữ ấy. Theo Du Già Tông, Tát Đỏa đại lược có ba loại:
-
Một, ngu đồng Tát Đỏa (chúng sanh giống như trẻ thơ ngu muội), tức là lục đạo
phàm phu, chẳng biết nhân quả nơi Thật Đế, tâm hành tà đạo, tu tập khổ nhân
(cái nhân gây tạo nỗi khổ), luyến đắm tam giới, chấp trước chặt chẽ chẳng xả.
Vì thế gọi tên như thế.
-
Hai là hữu thức Tát Đỏa, tức Nhị Thừa, vừa mới nhận biết lỗi hại của sanh tử,
tự cầu xuất ly để đạt tới Niết Bàn, chấp trước “hóa thành”[9],
khởi lên ý tưởng diệt độ. Đối với công đức của Như Lai, chưa sanh tâm mong
muốn, ưa thích.
-
Ba là Bồ Đề Tát Đỏa. Vô Thượng Bồ Đề vượt khỏi hết thảy các thứ lỗi lầm như suy
đoán, hý luận, có ý nghĩa “một mực thuần thiện, trắng sạch, vi diệu”, chẳng
thể dùng thí dụ để sánh ví tương tự được! Đấy chính là cái tâm bổn tánh chẳng
thể nghĩ bàn của chúng sanh. Có thể nhẫn chuyện thành đạo như thế, mong cầu,
nguyện vui thích tu hành kiên cố bất động, cho nên gọi là Bồ Đề Sách Đá (Bồ
Tát). Người như thế công nghiệp lớn nhất, kham có thể chuyển giao [pháp vi diệu
của Phật] cho hết thảy chúng sanh, nên gọi là Ma Ha Tát Đỏa.
Các
đại chúng như thế trước sau vây quanh Đại Nhật Thế Tôn, tức là dùng vô lượng
thân, khẩu, ý để cúng dường, cung kính vì nghe pháp vậy!
(Kinh)
Sở vị việt tam thời Như Lai chi nhật gia trì cố, thân, ngữ, ý bình đẳng cú pháp
môn.
(經)所謂越三時如來之日加持故,身語意平等句法門。
(Kinh:
Tức là pháp môn “câu thân ngữ ý bình đẳng” do được mặt trời Như Lai vượt khỏi
ba thời gia trì).
Kế
đó, nói về các căn cơ cùng nghe pháp trong hội tốt đẹp ấy, tức là như kinh
nói “việt tam thời Như Lai chi nhật gia trì cố, thân, ngữ, ý tam cú
bình đẳng cú pháp môn” (pháp môn “câu thân, ngữ, ý
bình đẳng” do được mặt trời Như Lai vượt khỏi ba thời gia trì). Kinh này được
lưu truyền trong Diêm Phù Đề, đại lược có mười vạn kệ[10].
Nếu đại chúng nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật, ai nấy đều rộng diễn
pháp môn sai biệt nơi thân, khẩu, ý, sẽ là chẳng có hạn lượng, Khi thuyết pháp
ấy, lại nên như thế nào? Vì thế, người kết tập nói: “Nhĩ thời, trụ ư
Phật nhật, nhi
diễn thuyết pháp” (lúc bấy giờ, trụ nơi Phật nhật mà
diễn nói pháp). Như thời phần (từng phân đoạn thời gian) trong thế gian, ắt có quá
khứ, vị lai, hiện tại, số lượng kiếp dài, ngắn, các thứ bất đồng. Lại xét theo
mặt trời đi quanh tứ thiên hạ một vòng, trong một ngày đêm bèn có sơ phần,
trung phần, hậu phần, cho đến ba mươi thời v.v… Chẳng trụ trong sát-na nào, đắp
đổi, thúc đẩy nhau. Dùng
mắt thanh tịnh để xem, [sẽ thấy] tướng của ba đời trọn chẳng thể được! Không
khởi đầu, không kết thúc, mà cũng chẳng đến, chẳng đi. Tức vầng mặt trời Thật
Tướng ấy viên minh, thường trụ, tĩnh lặng như hư không, chẳng có thời phần dài,
ngắn sai khác! Nhưng do thần lực của Phật, khiến cho hành giả Du Già coi vô
lượng kiếp như trong khoảng một bữa ăn, hoặc kéo dài [thời gian] một bữa
ăn thành vô
lượng kiếp. Kéo dài hay rút gọn tự tại, đều phù hợp các căn cơ, chẳng có
tướng nhất định để có thể đạt được. Vì thế nói là “Như Lai nhật” (vầng
mặt trời Như Lai). Trong thời gian như thế, đức Phật nói pháp gì? Chính là pháp
môn câu “thân, ngữ, ý bình đẳng “. Nói tới các thứ ba nghiệp
của Như Lai thì đều là đạt tới cảnh Đệ Nhất Thật Tế mầu nhiệm tột bậc. Thân
bằng với ngữ, ngữ bằng với tâm, khác nào biển cả trọn hết thảy mọi nơi đều có
cùng một vị mặn. Vì thế nói là “bình
đẳng”.
“Cú” (câu) trong tiếng Phạn là Bát-đàm (Pāda),
dịch sát nghĩa là Túc (chân). Nếu luận định theo Thanh Minh, sẽ có nghĩa là “tiến hành,
trụ xứ”. Như người tiến bước, chỗ giở chân, hạ chân in dấu được gọi là
Bát-đàm. Mỗi câu trong ngôn từ cũng có ý nghĩa tương ứng như thế; vì thế, được
gọi bằng cùng một danh xưng. Nay xét theo điều được đề cao ở đây, sẽ có nghĩa
là tu theo “đạo tích” (dấu vết đạo, ý nói: Trình tự tu tập)
như thế, lần lượt tấn tu, sẽ trụ trong ba chỗ bình đẳng, nên gọi là Cú. Tức là
dùng thân khẩu ý gia trì bí mật bình đẳng để làm chỗ nhập môn, nghĩa là dùng mật ấn nơi
thân bình đẳng, chân ngôn nơi ngữ bình đẳng, và diệu quán nơi tâm bình đẳng làm
phương tiện hòng thấy được Gia Trì Thọ Dụng Thân. Gia Trì Thọ Dụng Thân như thế
chính là thân trọn khắp hết thảy của Tỳ Lô Giá Na Phật. Thân trọn khắp hết thảy
chính là trí thân bình đẳng của hành giả. Vì thế, người trụ trong thừa ấy, do
chẳng hành mà hành, do chẳng đến mà đến, nên gọi là “bình đẳng
cú” (câu bình đẳng). Hết thảy chúng sanh đều nhập vào trong ấy, nhưng
thật ra chẳng thể nhập, không có chỗ để nhập, nên gọi là “bình đẳng”. Pháp
môn bình đẳng chính là đại ý của kinh này vậy!
(Kinh)
Thời bỉ Bồ Tát, Phổ Hiền vi thượng thủ, chư Chấp Kim Cang, Bí Mật Chủ vi thượng
thủ. Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia trì cố, phấn tấn thị hiện thân vô tận trang
nghiêm tạng, như thị phấn tấn thị hiện ngữ ý bình đẳng vô tận trang nghiêm
tạng, phi tùng Tỳ Lô Giá Na Phật thân, hoặc ngữ, hoặc ý sanh, nhất thiết xứ
khởi diệt biên tế bất khả đắc, nhi Tỳ Lô Giá Na nhất thiết thân nghiệp, nhất
thiết ngữ nghiệp, nhất thiết ý nghiệp, nhất thiết xứ, nhất thiết thời, ư hữu
tình giới, tuyên thuyết chân ngôn đạo cú pháp. Hựu hiện Chấp Kim Cang, Phổ
Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát đẳng tượng mạo, phổ ư thập phương, tuyên thuyết chân
ngôn đạo thanh
tịnh cú pháp, sở vị sơ phát tâm, nãi chí Thập Địa, thứ đệ thử sanh mãn
túc, duyên nghiệp sanh tăng trưởng, hữu tình loại nghiệp thọ chủng trừ, phục
hữu nha chủng sanh khởi.
(經)時彼菩薩,普賢為上首;諸執金剛,祕密主為上首。毘盧遮那如來加持故,奮迅示現身無盡莊嚴藏,如是奮迅示現語意平等無盡莊嚴藏,非從毘盧遮那佛身或語或意生,一切處起滅邊際不可得。而毘盧遮那一切身業、一切語業、一切意業,一切處、一切時,於有情界宣說真言道句法。又現執金剛、普賢、蓮華手菩薩等像貌,普於十方宣說真言道清淨句法。所謂初發心乃至十地次第此生滿足,緣業生增長有情類業壽種除,復有牙種生起。
(Kinh:
Khi ấy, Phổ Hiền làm thượng thủ của các vị Bồ Tát ấy, Bí Mật Chủ làm thượng thủ
của các vị Chấp Kim Cang. Do Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia trì, bèn dũng mãnh thị
hiện tạng vô tận trang nghiêm nơi thân, dũng mãnh thị hiện tạng vô tận trang
nghiêm bình đẳng nơi ngữ và ý như thế, chẳng sanh từ thân, hoặc ngữ, hoặc ý của
Tỳ Lô Giá Na Phật, ngằn mé khởi diệt trong hết thảy các chỗ đều chẳng thể được,
nhưng hết thảy thân nghiệp, hết thảy ngữ nghiệp, hết thảy ý nghiệp của Tỳ Lô
Giá Na Phật, đều trong hết thảy chỗ, hết thảy thời, trong hữu tình giới, tuyên
nói cú pháp của đạo chân ngôn. Lại hiện các hình tướng như Chấp Kim Cang, Phổ
Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát v.v… để trọn khắp mười phương tuyên nói cú pháp chân
ngôn đạo thanh
tịnh, tức là từ sơ phát tâm cho đến Thập Địa, lần lượt được trọn đủ [các địa vị
ấy] trong đời này, đoạn trừ nghiệp và thọ mạng do nương theo nghiệp mà sanh
khởi và tăng trưởng nghiệp của các loài hữu tình, lại còn sanh khởi mầm mống
[giải thoát]).
Do
sắp nói pháp môn bình đẳng này, trước hết, dùng tự tại gia trì để cảm động đại chúng,
đều hiện cảnh giới Phổ Môn bí mật trang nghiêm, và chuyện chưa từng có, chẳng
thể nghĩ bàn. Do họ nghi vấn mà [đức Phật] diễn nói, khiến cho người nghe tin
ưa gấp bội, thâm nhập ý nghĩa nơi ngôn từ, như các nhân duyên trong Tự Phần và
phẩm Tùng Địa Dũng Xuất của kinh Pháp Hoa; ở đây sẽ nói rộng. Lại nữa, các vị
nhân giả thượng thủ như Phổ Hiền, Bí Mật Chủ v.v… chính là trí thân sai biệt
của đức Tỳ Lô Giá Na, đã thông đạt cảnh giới như thế từ lâu. Nhưng các vị thiện
tri thức hiển hiện trong các môn giải thoát ấy, mỗi vị đều dẫn dắt vô lượng
người đương cơ cùng nhập pháp giới Mạn-đồ-la. Vì tạo lợi ích cho các Bồ Tát bắt
đầu nhập pháp môn, thật sự tu hành, được Như Lai gia trì, mà dũng mãnh thị hiện
sức đại thần thông. Như sư tử chúa sắp rống vang, ắt trước hết sẽ vươn duỗi
thân mình, thể hiện năng lực, sau đó mới phát ra tiếng. Như Lai cũng thế, do
sắp nhất định sư tử hống để tuyên nói hết thảy trí môn, trước hết bèn dũng mãnh
thị hiện vô tận trang nghiêm tạng. Nói “trang nghiêm” chính là
nói từ một thân bình đẳng mà hiện trọn khắp hết thảy các oai nghi. Các oai nghi
như thế, không gì chẳng phải là mật ấn. Từ một bình đẳng ngữ, hiện trọn khắp
hết thảy các âm thanh. Các âm thanh như thế, không gì chẳng phải là chân ngôn.
Từ một tâm bình đẳng, hiện trọn khắp hết thảy Bổn Tôn. Các vị Bổn Tôn như thế, không gì chẳng phải là
tam-muội. Nhưng mỗi một tướng sai biệt trong ba nghiệp đều là không có ngằn mé,
chẳng thể đo lường, nên gọi là “vô tận trang nghiêm”.
Kinh
Như Lai Bí Mật Huệ chép: “Trừ Cái Chướng Bồ Tát ư pháp hội trung, dục
tri Phật thân lượng cố, lệnh Đại Mục Kiền Liên tầm chi. Mục Liên thượng chí
Phạm cung, do đổ Như Lai nhược đối mục tiền. Phật thân oai nghi, thuyết pháp âm
thanh, dữ
bổn vô dị, nãi chí tận kỳ thần lực, vãng nghệ tha phương Phật độ, diệc bất dị
Phạm cung. Nhĩ thời, Trừ Cái Chướng Bồ Tát cập dĩ Mục Liên bất năng trắc cố, tự
vãng quán sát, quá thập phương các như Hằng hà sa thế giới, giai kiến Như Lai
bất khởi vu tòa, nhi diễn thuyết pháp. Nãi chí châu cực thập phương, tận kỳ
thần thông thế lực, diệc phục như thị. Nhiên hậu hoàn quy, phương kiến Trừ Nghi
thiên nữ khứ Phật bất viễn, kiến nhập ư tam-muội, tiện tác thị niệm: ‘Ngã văn
thử thiên nữ, thông đạt vô lượng tam-muội môn. Ngã đương quán chi, kim trụ hà
định dã’. Hựu tận tâm lực quán chi, bất trắc kỳ tâm sở hành chi xứ, tụ tập vô lượng thiên cổ, nhất
nhất giai như Tu Di sơn vương, dĩ thần lực đồng thời phát thanh, dục linh xuất
định, nhi bất năng đắc, nãi chí Phật ngôn: - Ngã vị phát Bồ Đề tâm thời, thị
thiên nữ dĩ năng trụ thử tam-muội” (Trừ Cái Chướng Bồ Tát ở trong pháp
hội, muốn biết thân lượng của đức Phật, bèn sai Đại Mục Kiền Liên tìm kiếm.
Ngài Mục Liên lên tới cung điện của Phạm vương, vẫn thấy Như Lai như ở ngay
trước mắt. Oai nghi nơi thân Phật, âm thanh thuyết pháp chẳng khác gì ở ngay
nơi đây. Cho đến trọn hết thần lực, qua tới cõi Phật ở phương khác, cũng chẳng
khác gì nơi cung điện Phạm vương. Lúc bấy giờ, Trừ Cái Chướng Bồ Tát do thấy
Mục Liên chẳng thể đo lường, bèn tự đi quán sát, qua khỏi các thế giới nhiều
như cát sông Hằng trong mỗi phương thuộc mười phương, đều thấy Như Lai chẳng
rời khỏi tòa mà diễn nói pháp. Thậm chí trọn khắp cùng cực mười phương, trọn
hết thế lực thần thông của chính mình, cũng vẫn là như thế. Sau đó, Ngài trở
về, mới thấy thiên nữ Trừ Nghi ở cách đức Phật chẳng xa, thấy cô ta đang nhập
tam-muội, liền nghĩ thế này: ‘Ta nghe nói vị thiên nữ này thông đạt vô lượng
tam-muội, ta hãy nên quán xem cô ta đang trụ trong môn Định nào’. Lại tận hết
tâm lực để quán, chẳng thể dò lường chỗ tâm hạnh của cô ta, bèn tụ tập vô lượng
trống trời. Mỗi cái trống đều to như núi chúa Tu Di, dùng thần lực khiến trống
cùng lúc phát ra tiếng, toan ép cho cô ta xuất định, nhưng chẳng thể được. Cho
đến khi đức Phật nói: - Khi ta chưa phát Bồ Đề tâm, vị thiên nữ này đã có thể
trụ trong môn tam-muội ấy). Đấy chính là ý nghĩa “vô biên tế “ (không
có ngằn mé vậy).
Đức
Tỳ Lô Giá Na nhập trọn khắp hết thảy các thế giới trong mười phương như thế,
mỗi mỗi đều hiện thân gia trì của Phật. Mỗi thân ấy đều có đại chúng Bồ Tát và
Kim Cang nhiều bằng số vi trần trong mười cõi Phật. Các căn và tướng hảo của
đại chúng cũng lại vô biên, như dầu mè đầy khắp pháp giới. Trong ấy, chẳng có
khe hở nào! Lại như quốc vương có kho tàng lớn, nếu cần phô bày cho người khác
thấy, sẽ tự tại mở toang để phô bày. Vì thế nói là “trang nghiêm
tạng”.
Lại
nữa, các đại chúng ấy chỉ do sức oai thần của Phật mà được thấy cảnh giới chẳng
thể nghĩ bàn như thế. Nếu Như Lai chẳng gia trì, sẽ chẳng hiện tiền, [vì cảnh giới ấy] chẳng thuộc vào hạn lượng mà
tự tâm có thể biết được! Như hành giả trong thì tu tập Ban Châu tam-muội, ngoài
thì được thần lực hộ trì, sẽ có thể từ cái thân do cha mẹ sanh ra mà thấy mười
phương chư Phật, như đêm quang đãng, không mây, ngửa mặt lên, trông thấy các
ngôi sao, lắng nghe pháp âm, rành rẽ vô ngại. Nhưng cảnh giới ấy sanh từ tâm
thanh tịnh của hành giả ư? Hay do Phật gia hộ mà sanh ra ư? Nếu do nội tâm [của
hành giả], tức là sanh từ tự tánh. Nếu từ Phật lực, tức là sanh từ tha tánh.
[Nếu vậy] sẽ đều
chẳng khác luận nghĩa của ngoại đạo!
Do tự lẫn tha đều không có, hòa hợp cũng không có. Lại chẳng phải là không có
nhân duyên mà được thành tựu. Vì
lẽ nào? Hễ nội nhân và ngoại duyên có đằng nào thiếu khuyết, sẽ chẳng hiện
tiền. Hãy nên biết tướng trang nghiêm như thế, khi hiển hiện thì chẳng từ đâu
tới, lúc ẩn thì cũng chẳng đi về đâu, do rốt ráo bình đẳng chẳng ra ngoài Như!
Kinh dạy: “Phi tùng Tỳ Lô Giá Na Phật thân, hoặc ngữ, hoặc ý sanh, nhất
thiết xứ khởi diệt biên tế bất khả đắc. Nhi Tỳ Lô Giá Na nhất
thiết thân nghiệp, nhất thiết ngữ nghiệp, nhất thiết ý nghiệp, nhất thiết xứ,
nhất thiết thời, ư hữu tình giới, tuyên thuyết chân ngôn đạo cú pháp” (Chẳng
sanh từ thân, hoặc ngữ, hoặc ý của Tỳ Lô Giá Na Phật, ngằn mé khởi diệt trong
hết thảy các chỗ đều chẳng thể được, nhưng hết thảy thân nghiệp, hết thảy ngữ
nghiệp, hết thảy ý nghiệp của Tỳ Lô Giá Na Phật, đều trong hết thảy chỗ, hết
thảy thời, trong hữu tình giới, tuyên
nói cú pháp của đạo chân thật). Đấy là lần lượt giải thích vì sao tạng trang
nghiêm của Phật vô tận, chẳng có ngằn mé, do chẳng khác thân thường trụ bất
diệt, trọn khắp hết thảy mọi chỗ của Như Lai. Tuy thường chẳng khởi lên hay
diệt mất, nhưng có thể dùng hết thảy ba nghiệp để trong trọn khắp mười phương
ba đời, hết thảy thời, hết thảy xứ, nói đạo tối chân thật hòng giáo hóa
quần sanh, uốn nắm tâm họ cho tới khi đạt đến Phật đạo.
Kinh
lại nói “hựu hiện Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát đẳng
tượng mạo, phổ ư thập phương, tuyên thuyết chân ngôn đạo thanh tịnh
cú pháp, sở vị sơ phát tâm nãi chí Thập Địa, thứ đệ thử sanh mãn túc, duyên
nghiệp sanh tăng trưởng hữu tình loại nghiệp thọ chủng trừ, phục hữu nha chủng
sanh khởi” (lại hiện tướng mạo của Chấp Kim Cang Thủ,
Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát v.v… để trọn khắp mười phương tuyên nói pháp chân
ngôn đạo thanh tịnh cú, tức là từ sơ phát tâm cho đến Thập Địa, lần lượt viên
mãn [các địa vị ấy] ngay trong một đời này, đoạn trừ nghiệp, thọ mạng do duyên
theo nghiệp mà sanh khởi, tăng trưởng của các loài hữu tình, lại có mầm mống
sanh khởi [đạo giải thoát]) chính là nói rộng tướng trên đây. [Đoạn kinh văn
trên đây] ý nói không chỉ thị hiện thân Phật đầy khắp hết thảy các thế giới
trong mười phương, mà còn hiện thân Kim Cang, Bồ Tát v.v… cũng lại trọn
khắp hết thảy mọi nơi. Hơn nữa, các vị Chấp Kim Cang, Bồ Tát v.v… nhiều như số
vi trần trong mười cõi Phật, thân khẩu tâm ấn sai biệt bất đồng. Tướng loại,
quyến thuộc của các Bổn Tôn như thế, đều như đức Tỳ Lô Giá Na đầy khắp hết thảy
các thế giới trong mười phương, như lưới Nhân Đà La (lưới bảo châu của Đế
Thích, các viên châu soi bóng lẫn nhau) chẳng trở ngại nhau. Nay nêu đại lược
ba vị thánh (Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ), gọi là các vị cầm đầu. Chấp Kim Cang tương ứng
với Kim Cang trí huệ môn, là phương tiện hàng phục. Phổ Hiền tương ứng Pháp
Thân môn Như Như,
là phương tiện dứt trừ tai ương. Quán Âm (Liên Hoa Thủ) tương ứng với Liên Hoa
tam-muội môn, là phương tiện tăng ích. Nêu ra ba điểm ấy, vô lượng diệu dụng
chẳng thể nghĩ bàn đều được thâu nhiếp trong ấy. Vì thế, đặc biệt nhắc đến.
Nói
là “đẳng”, tức là cho đến chư thiên, tám bộ, ngũ thông thần
tiên, các điều được biểu thị bằng Mạn-đồ-la hiện ra bên ngoài, cũng chuẩn theo đó mà suy ra.
Các thứ nhân duyên, vô số phương tiện phổ môn ứng hiện nhằm giáo hóa quần sanh
như thế, tuy sâu hay cạn khác nhau, thô hay tế khác biệt, nhưng xét theo sự
thật, không gì chẳng phải là được bí mật gia trì, mỗi mỗi đều có thể khai thị
tri kiến thanh tịnh của Như Lai. Nếu lìa khỏi ấn Thật Tướng như thế, các thứ
khác đều do ái kiến sanh ra, là bè lũ của thiên ma ngoại đạo, há đáng gọi
là “câu nghĩa thanh tịnh” ư? Kế đó, lại giải thích rằng: Cái
gọi là “thanh tịnh cú” (câu thanh tịnh) chính là “đốn
giác thành Phật thần thông thừa”. Nếu Bồ Tát thuộc các thừa khác, chí
cầu Vô Thượng Bồ Đề, siêng khổ đủ mọi lẽ, chẳng tiếc thân mạng, trải qua vô số
A-tăng-kỳ kiếp, nhưng có vị thành Phật, có vị chẳng thành! Nay Bồ Tát thuộc
Chân Ngôn môn, nếu có thể tu hành chẳng thiếu khuyết pháp tắc, phương tiện,
thậm chí ngay trong một đời này, sẽ thấy cảnh giới gia trì vô tận trang nghiêm,
không chỉ là hiện tiền mà thôi! Nếu muốn siêu thăng lên địa vị Phật, giống như
Đại Nhật Như Lai, thì cũng có thể đạt đến.
Hơn
nữa, hành giả lúc sơ phát tâm, được nhập môn chữ A (अ), chính là từ kim cang
tánh của Như Lai mà nẩy mầm. Hãy nên biết khi cái mầm ấy vừa sanh, sẽ có ý
nghĩa “lần lượt tăng tấn, chẳng còn lui sụt”, cho đến khi
thành Bồ Đề, không có hạnh nào để tăng thêm. Sau đấy mới dừng nghỉ, nên nói
là “thứ đệ thử sanh mãn túc” (lần lượt viên mãn [các địa vị
ấy] trong một đời này). Chữ “thứ đệ” ở đây trong tiếng Phạn có
các ý nghĩa “chẳng trụ, tinh tấn, hành trọn khắp”. Tức
là nói sơ phát tâm do muốn nhập địa vị Bồ Tát, đối với pháp yếu và phương tiện
chân ngôn này bèn tu hành, đạt tới Sơ Địa. Lúc bấy giờ, dùng cái tâm vô sở trụ
tăng tấn chẳng ngưng nghỉ để viên mãn Đệ Nhị Địa. Lại nương vào pháp yếu và
phương tiện của chân ngôn để tu hành, đạt tới Đệ Tam Địa. Lúc bấy giờ, dùng cái
tâm vô sở trụ tăng tấn không ngừng để viên mãn Đệ Tứ Địa, lại nương vào pháp
yếu và phương tiện của chân ngôn, được nhập Ngũ Địa. Theo thứ tự như thế, cho
đến viên mãn Thập Địa, chỉ dùng một hạnh, một đạo để thành Chánh Giác. Nếu đối
với phương tiện môn khác mà khai hiển mật ý, cũng đều chẳng lìa thừa báu như
thế.
“Duyên
nghiệp sanh” tức là nói tới nhân duyên si ái của hữu tình, tạo
thành các thứ nghiệp chẳng thanh tịnh, hư vọng nơi thân, khẩu, ý. Nương vào các
nghiệp như thế mà
sanh làm các thân
trong sáu đường, tăng trưởng luân hồi, hứng chịu đủ mọi nỗi khổ! Nay tu tam
nghiệp thanh tịnh bình đẳng huệ môn, hết thảy các chủng tử của nghiệp và thọ
mạng trong Uẩn A Lại
Da Thức đều bị đốt sạch, trừ diệt, đạt được hư không vô cấu đại Bồ Đề tâm.
Chủng tử bình đẳng của hết thảy Như Lai từ trong bi tạng sẽ nẩy sanh mầm pháp
tánh, cho đến thân, lá, hoa, quả trọn khắp các pháp giới, trở thành Bồ Đề thụ
vương vạn đức nở xòe. Nhưng dùng nghĩa Tứ Bất Sanh để quán, sẽ đều là “chẳng có
gì khởi lên” mà cũng “chẳng có chỗ để khởi lên”. Hãy nên biết cái Sanh ấy chính là Đại Không Sanh.
Vì thế nói: Chủng
tử của nghiệp và thọ mạng của loài hữu tình đã trừ diệt, lại có mầm mộng [pháp
tánh giải thoát] sanh khởi.
Lại
nữa, các vị thiện tri thức và pháp giới môn nhiều như số vi trần trong mười cõi
Phật do Như Lai đã hiện, nếu theo thứ tự xem nghe, sẽ là vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ kiếp chẳng thể [thấy, nghe] trọn khắp được! Do Phật nhật gia trì,
trong khoảnh khắc ngồi nơi pháp hội mà thảy đều hiện tiền. Tức là khi sắp nói
kinh này, bèn phơi bày thụy tướng thần thông chẳng thể nghĩ bàn. Như ngài Văn
Thù Sư Lợi thấy [quang minh phát ra từ tướng] bạch hào [của đức Phật] chiếu
thấu các thứ nhân duyên của các vị Bồ Tát trong một vạn tám ngàn cõi đều là hành Bồ Tát đạo, liền
biết rõ chư Phật sắp khai Quyền hiển Thật, nói kinh Pháp Hoa. Hãy nên biết các
vị như Kim Cang Thủ v.v… cũng giống như thế, thấy thế giới được gia trì trọn
khắp, chỉ nói pháp môn bình đẳng, liền biết Như Lai sắp diễn nói giáo
pháp “tự
tâm thành Phật” trọn khắp hết thảy các thừa. Vì thế, lời
thưa hỏi trong phần kinh văn tiếp theo chính là dựa theo đấy mà sanh khởi vậy.
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, ư bỉ chúng hội trung tọa, bạch Phật ngôn: -
Thế Tôn! Vân hà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đắc Nhất Thiết Trí trí? Bỉ
đắc Nhất Thiết Trí trí, vị vô lượng chúng sanh, quảng diễn phân bố, tùy chủng
chủng thú, chủng chủng tánh dục, chủng chủng phương tiện đạo, tuyên thuyết Nhất
Thiết Trí trí, hoặc Thanh Văn thừa đạo, hoặc Duyên Giác thừa đạo, hoặc Đại Thừa
đạo, hoặc ngũ thông trí đạo, hoặc nguyện sanh thiên, hoặc sanh nhân trung, cập
long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, nãi chí thuyết sanh Ma Hầu La Già pháp. Nhược hữu
chúng sanh ưng Phật độ giả, tức hiện Phật thân, hoặc hiện Thanh Văn thân, hoặc
hiện Duyên Giác thân, hoặc Bồ Tát thân, hoặc Phạm thiên thân, hoặc Na La Diên,
Tỳ Sa Môn thân, nãi chí Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân đẳng thân, các các đồng
bỉ ngôn âm, trụ chủng chủng oai nghi, nhi thử Nhất Thiết Trí trí đạo nhất vị,
sở vị Như Lai giải thoát vị.
(經)爾時執金剛祕密主於彼眾會中坐,白佛言:世尊!云何如來、應供、正遍知得一切智智?彼得一切智智,為無量眾生廣演分布,隨種種趣、種種性欲、種種方便道宣說一切智智,或聲聞乘道、或緣覺乘道、或大乘道、或五通智道,或願生天、或生人中,及龍、夜叉、乾闥婆,乃至說生摩睺羅伽法。若有眾生應佛度者,即現佛身、或現聲聞身、或現緣覺身、或菩薩身、或梵天身、或那羅延毘沙門身,乃至摩睺羅伽人非人等身,各各同彼言音,住種種威儀。而此一切智智道一味,所謂如來解脫味。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngồi ở trong chúng hội ấy bạch cùng đức
Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đắc trí Nhất Thiết
Trí như thế nào? Đã đắc trí Nhất Thiết Trí, vì vô lượng chúng sanh rộng diễn,
lưu truyền, tùy theo các loại đường [thọ sanh], các loại tánh tình ưa thích,
các thứ phương tiện đạo mà tuyên nói trí Nhất Thiết Trí, hoặc đạo Thanh Văn
thừa, hoặc đạo Duyên Giác thừa, hoặc đạo Đại Thừa, hoặc đạo ngũ thông trí, hoặc
nguyện sanh lên trời, hoặc sanh trong loài người, và rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà,
cho đến nói pháp sanh làm Ma Hầu La Già. Nếu có chúng sanh đáng nên dùng [thân]
Phật để độ, liền hiện thân Phật, hoặc hiện thân Thanh Văn, hoặc hiện thân Duyên
Giác, hoặc thân Bồ Tát, hoặc thân Phạm Thiên, hoặc thân Na La Diên, Tỳ Sa Môn,
cho đến các thân Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân v.v… Mỗi thân đều giống với ngôn
âm của từng loài, trụ trong các thứ oai nghi, nhưng đạo trí Nhất Thiết Trí ấy
chỉ có một vị, tức là vị giải thoát của Như Lai).
Trí
do Như Lai tự chứng, dẫu dùng thần lực gia trì, vẫn chẳng thể chỉ bày cho kẻ
khác. Phần trước đã nói “dũng mãnh thị hiện vô tận trang nghiêm tạng” đều
là dấu tích thuộc tác dụng bên ngoài mà thôi! Người trí trông thấy các cành nhánh ấy, liền biết đó là để sánh ví điều cốt lõi. Như nhìn vào dấu chân
voi vượt trội các loài thú khác, [do thấy] vết giẫm đạp sâu rộng gấp bội, tuy chẳng
thấy hình vóc của nó, vẫn biết con voi ấy ắt có sức mạnh to lớn. Lại như sấm
rền, tuôn mưa, có thể khiến cho chim, thú bị chấn động mà chết, trăm sông ồ ạt
chảy, núi vỡ nghiêng sụp. Tuy chẳng dò lường cội gốc, vẫn biết oai thế
của con rồng [tuôn mưa] ấy ắt to lớn. Nay các đại
chúng cũng giống như thế, do quán thân, khẩu, ý vô tận của Như Lai có thể cùng
lúc ứng hiện trọn khắp các chúng sanh trong pháp giới, khéo phù hợp
căn tánh, cơ nghi, uyển chuyển thành tựu Phật sự, sẽ biết trí lực của Như Lai
ắt trong một niệm xét soi trọn khắp nhân duyên gốc ngọn của các căn cơ rốt ráo
vô ngại. Quyền xảo chiếu Tục Đế mà còn như thế, vậy thì cảnh giới khế Thật sẽ
là như thế nào? Nếu pháp chẳng vậy, ắt sẽ có dấu vết nhỏ nhiệm để dò tìm. Tôi đã nhìn trọn hết, nhưng chẳng biết pháp
ấy do đâu
mà đạt được! Vì thế, do chúng hội có lòng nghi, ngài Chấp Kim Cang Thủ bèn hỏi đức Phật
rằng: “Vân hà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đắc Nhất Thiết Trí
trí?” (Đấng
Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri đắc trí
Nhất Thiết Trí như thế nào?)
Bản
tiếng Phạn ghi [Như Lai] là Đát Tha Yết Đa (Tathāgata), Đát Tha (Tathā) nghĩa là Như, Yết Đa (Gata) nghĩa là Lai (đến), nghĩa
là “hiểu biết, nói, đi”. Như chư Phật nương vào đạo Như Thật
mà đến thành Chánh Giác, nay đức Phật cũng đến như thế, nên gọi là Như Lai.
Hết thảy chư Phật đều đã hiểu biết đúng như Thật Tướng của các pháp, lại cũng
đúng như Thật Tướng của các pháp mà nói cho chúng sanh. Nay đức Phật cũng như thế, nên
gọi là Như Thật Tri Giả (đấng
biết đúng như thật), cũng gọi là Như Thật Thuyết Giả (đấng nói đúng như sự
thật). Hết thảy chư Phật đạt được tánh an lạc như thế, mãi cho đến khi nhập Niết Bàn, nay đức Phật [Thích Ca] cũng đi như thế, cho nên
gọi là Như Khứ. Thích Luận nêu trọn đủ bốn nghĩa, nhưng các bản dịch theo lối
cổ phần nhiều nói là Như Lai. Giới bổn của Hữu Bộ (Nhất Thiết Hữu Bộ) thì ghi
là Như Khứ. Theo ý của A-xà-lê (ngài Thiện Vô Úy) thì giữ thêm các ý nghĩa Như
Khứ, Như Thuyết. Nay tôi vẫn thuận theo cách ghi của cổ nhân vậy.
Bản
tiếng Phạn ghi [Ứng Cúng] là A La Ha (Arhat), A La là phiền não, Ha nghĩa
là “làm hại, trừ bỏ”. Thích Luận giảng [A La Ha] là Sát Tặc (giết giặc). Phật dùng áo giáp Nhẫn,
Tấn (nhẫn nhục và tinh tấn), cưỡi ngựa Trì Giới, cầm cung Định, tên Huệ, ngoài là phá
quân ma vương, trong là diệt giặc phiền não. Do vậy, có tên như thế. Lại nữa, A
là Bất, La Ha là Sanh. Ý nói: Chủng tử trong Phật tâm chẳng sanh trong ruộng
đời sau[11],
do đã tróc vỏ trấu vô minh. Lại nữa, A La Ha có nghĩa là “đáng nhận
cúng dường” (do vậy, dịch là Ứng Cúng). Do có công đức như thế, đáng
nhận sự cúng dường tối thượng của trời, người. Vì vậy, có tên như thế.
Bản
tiếng Phạn ghi [Chánh Biến Tri] là Tam Miệu Tam Phật Đà (Samyak-saṃbuddha), Tam
Miệu (Samyak) là
Chánh, Tam (Saṃ) là Biến (trọn khắp), Phật Đà (Buddha) là Tri. Vì thế nói là
Chánh Biến Tri. Thích Luận nói: “Nếu có người nói vì cớ sao chỉ có Phật
là như thật nói như lai, như khứ, đáng nhận cúng dường tối thượng? Do Phật đắc
chánh biến trí huệ. Chánh tức là tướng bất hoại, bất động của các pháp. Biến là
do chẳng là một hoặc hai pháp, mà là đều biết trọn khắp hết thảy các pháp chẳng
sót, nên gọi là Tam Miệu Tam Phật Đà”. Nhưng điều được đề cao ở đây, Phật
Đà là giác, có nghĩa là “khai phu” (nở xòe), ý nói: Do trí huệ
tự nhiên mà giác ngộ trọn khắp hết thảy các pháp, như hoa sen nở rộ, chẳng có
chút nhuốm bẩn nào, và cũng có thể khiến cho [hoa giác ngộ của] hết thảy chúng
sanh xòe nở. Vì thế, gọi là Phật.
Tiếng
Phạn là Tát Bà Nhã Na (Sarvajña), tức là
trí Nhất Thiết Trí. Thích Luận giảng: “Tát Bà Nhã Na tức là Nhất Thiết
Trí. Nhất Thiết tức là nói vô lượng pháp môn như danh, sắc v.v… Mỗi môn đều thâu nhiếp hết thảy các pháp.
Như thế vô lượng ba, bốn, năm, sáu v.v… cho đến A-tăng-kỳ pháp môn đều thâu
nhiếp hết thảy các pháp. Trong hết thảy các pháp ấy, đối với nhất tướng, dị
tướng, lậu tướng, phi lậu tướng, tác tướng, phi tác tướng v.v… mỗi một tướng, mỗi một lực, mỗi một nhân duyên, mỗi một quả báo, mỗi mỗi tánh, mỗi mỗi ưu
khuyết của từng pháp,
do sức của Nhất Thiết Trí Huệ, đều hiểu biết cùng tận trọn khắp hết thảy các đời, hết thảy các loại. Đó gọi là Tát Bà
Nhã”. Nay
nói “trí Nhất Thiết Trí”, tức là trí cao tột nhất trong các
trí. Không chỉ do hết thảy các loại mà biết trọn khắp hết thảy các pháp, mà còn là biết tướng thường, rốt ráo bất hoại Thật Tế
của các pháp ấy, chẳng tăng, chẳng giảm, giống như kim cang. Đối với cảnh tự chứng như thế,
người nói sẽ không có ngôn từ [nào để diễn tả được], người quán chẳng thấy,
chẳng giống như quả Am Ma Lặc (Āmalakī)[12] trong
tay có thể chuyển giao cho người khác được! Nếu có thể dùng ngôn ngữ để trao
truyền cho người khác, khi Thích Ca Bồ Tát được Phật Định Quang (Nhiên Đăng
Phật) thọ ký, phải nên lập tức thành Phật. Vì sao phải tu đủ mọi phương tiện,
phải đợi tới khi “không thầy mà tự giác ngộ” mới gọi là Phật
ư? Lại như mắt thấy người đời bị đao, gậy gây thương tổn, tuy vẫn tin họ chịu
khổ chẳng còn ngờ vực, nhưng dẫu nói đủ mọi cách, [tự thân người nghe nói hay chứng
kiến] trọn chẳng chứng biết [nỗi đau khổ ấy]! Nếu tự thân tiếp xúc, hứng chịu,
sẽ hiểu rõ ngay!
Ý
của lời hỏi là: Làm thế nào để chúng con cũng sẽ đạt được trí huệ tự giác như
thế? Làm thế nào để đắc huệ ấy rồi, sẽ có thể vì vô lượng chúng sanh rộng diễn
nói, lưu truyền, tùy thuộc các thứ căn tánh và ý thích của [chúng sanh trong] các đường, mà dùng đủ loại phương tiện để tuyên nói
trí Nhất Thiết Trí. Đó gọi là “an lập vô lượng thừa, thị hiện vô lượng
thân”, mỗi thân có cùng ngôn âm với họ (chúng sanh được hóa độ), trụ
trong oai nghi của họ, nhưng đạo Nhất Thiết Trí ấy vẫn có cùng một vị, tức là
vị giải thoát của Như Lai. Phương tiện mầu nhiệm ấy lại làm như thế nào để có
thể đạt được? Các loại đường trong ấy, tiếng Phạn là Na Diễn, cũng gọi là Hành,
hoặc gọi là Đạo. Kế đó nói Đại Thừa đạo v.v… có ý nghĩa tương đồng. Luận Tỳ Bà Sa nói có năm đạo,
người theo Ma Ha Diễn (Đại Thừa) phần nhiều nói là “lục đạo”.
Rộng diễn nói như thế, cho đến trong thế giới này, đã có ba mươi sáu câu-chi
các đường chúng sanh, huống hồ mười phương thế giới ư?
“Tánh
dục”: “Dục” là tin ưa, yêu thích. Như Tôn Đà La
Nan Đà yêu thích ngũ dục, Đề Bà Đạt Đa chuộng tiếng tăm v.v… Cho đến những
người đắc đạo, ai
nấy cũng đều có ưa thích riêng: Ngài Đại Ca Diếp chuộng hạnh Đầu Đà, ngài Xá
Lợi Phất ưa thích trí huệ, ngài Ly Ba Đa chuộng tọa Thiền, ngài Ưu Bà Ly thích
Tỳ Ni (giới luật), A Nan chuộng đa văn v.v… hãy nên nói rộng. Tánh là “tích
tập”. Tướng sanh từ tánh, Dục là thuận theo tánh mà thực hiện hạnh.
Hoặc có lúc thuận theo dục là tánh, hoặc do thói quen ưa chuộng mà thành tánh.
Tánh [ở đây] là
tâm ô nhiễm. Cái tâm ô nhiễm vì sự ưa chuộng nơi mặt Sự thì gọi là “tùy
duyên khởi” (thuận theo duyên mà dấy lên). Trong Thích Luận đã nói cặn
kẽ chuyện này.
“Chủng
chủng phương tiện đạo” (Các thứ đạo phương tiện): Ngài Long Thọ
nói: “Bát Nhã và phương tiện có cùng một bản thể, nhưng tác dụng sai
khác. Ví như thợ kim hoàn do phương tiện khéo, dùng vàng chế thành đủ mọi vật
khác nhau, tuy đều là vàng mà mỗi món có tên gọi khác biệt”. Nay đức
Tỳ Lô Giá Na cũng lại như thế, có thể trong hết thảy mọi nơi, dùng vàng “trí thể” để tạo đủ mọi thừa.
Lại
nữa, trong ý hỏi ở đây chính là nhằm phát khởi Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la.
Trong tâm địa Tát Bà Nhã bình đẳng, vẽ thành bốn loại pháp giới viên đàn của
chư Phật, Bồ Tát, cho tới Nhị Thừa, tám bộ v.v… Thân, ngữ, tâm ấn của mỗi vị
Bổn Tôn ấy đều là một loại thừa sai biệt. Lại như có người chí cầu ngũ thông
trí đạo, liền từ Đại Bi Thai Tạng mà hiện hình tướng Vi Đà phạm chí[13],
vì người đó nói chân ngôn và hành pháp của các vị như Cù Đàm Tiên[14] v.v…
Hành giả siêng ròng chẳng lâu bèn thành thân vị tiên ấy, lại chuyển phương tiện,
liền thành thân Tỳ Lô Giá Na. Như thế thì hoặc là hiện thân Phật để nói các thứ
thừa, cho đến hiện thân phi nhân để nói các thứ thừa. Tùy từng loại mà hình
tướng và âm thanh đều là chân ngôn, mật ấn, hoặc đã lâu, hoặc gần đây, không gì
chẳng phải là “nhân duyên cái trống bôi thuốc độc”[15].
Vì thế, kinh dạy: “Giai đồng nhất vị, sở vị Như Lai giải thoát vị” (đều
cùng một vị, chính là vị giải thoát của Như Lai). Vì lẽ nào vậy? Sắc, tâm, Thật
Tướng của hết thảy chúng sanh từ Bổn Tế đến nay, thường luôn là trí thân bình
đẳng của Tỳ Lô Giá Na Phật, chẳng phải là khi đắc Bồ Đề sẽ cưỡng ép các pháp
đều là Không mà thành pháp giới! Phật từ tâm địa bình đẳng để khai phát vô tận
trang nghiêm tạng đại Mạn-đồ-la rồi, lại còn dùng đó để khai phát sự diệu cảm,
diệu ứng trong vô tận trang nghiêm tạng đại Mạn-đồ-la nơi tâm địa bình đẳng của
chúng sanh, đều không ra ngoài môn chữ A. Hãy nên biết phương tiện được sanh
khởi bởi nhân duyên cảm ứng cũng chẳng vượt ngoài môn chữ A. Ví như trong biển
cả, sóng mòi va đụng lẫn nhau, lần lượt làm năng và sở, nhưng vẫn là cùng một
vị, tức là vị mặn vậy!
(Kinh) Thế Tôn! Thí như hư không
giới, ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt. Như thị Nhất
Thiết Trí trí ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt. Thế Tôn!
Thí như đại địa, nhất thiết chúng sanh y. Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiên,
nhân, A Tu La y. Thế Tôn! Thí như hỏa giới, thiêu nhất thiết tân vô yếm túc.
Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiêu nhất thiết vô trí tân vô yếm túc. Thế Tôn!
Thí như phong giới, trừ nhất thiết trần. Như thị Nhất Thiết Trí trí, trừ khử
nhất thiết chư phiền não trần. Thế Tôn! Dụ như thủy giới, nhất thiết chúng sanh
y chi hoan lạc. Như thị Nhất Thiết Trí trí, vi chư thiên, thế nhân lợi lạc. Thế
Tôn! Như thị trí huệ, dĩ hà vi nhân? Vân hà vi căn? Vân hà cứu cánh?
(經)世尊!譬如虛空界,離一切分別,無分別、無無分別。如是一切智智,離一切分別,無分別、無無分別。世尊!譬如大地,一切眾生依。如是一切智智,天、人、阿脩羅依。世尊!譬如火界,燒一切薪無厭足。如是一切智智,燒一切無智薪無厭足。世尊!譬如風界,除一切塵。如是一切智智,除去一切諸煩惱塵。世尊!喻如水界,一切眾生依之歡樂。如是一切智智,為諸天世人利樂。世尊!如是智慧,以何為因?云何為根?云何究竟?
(Kinh: Bạch
Thế Tôn! Ví như hư không giới, lìa hết thảy phân biệt, vô phân biệt, chẳng
không phân biệt. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, lìa hết thảy phân biệt, không phân
biệt, chẳng không phân biệt. Bạch Thế Tôn! Ví như đại địa, hết thảy chúng sanh
nương vào. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, được trời, người, A Tu La nương
vào. Bạch Thế Tôn! Ví như hỏa giới, đốt hết thảy củi không chán đủ. Trí Nhất
Thiết Trí giống như
thế, đốt hết thảy củi vô trí chẳng chán đủ. Bạch Thế Tôn! Ví như phong giới trừ
hết thảy bụi. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, trừ khử hết thảy các bụi phiền não.
Bạch Thế Tôn! Ví như thủy giới, hết thảy chúng sanh nương vào đó mà vui sướng.
Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, lợi lạc chư thiên và người đời. Bạch
Thế Tôn! Trí huệ như thế lấy gì làm nhân? Gì là căn? Gì là rốt ráo?)
Lại
nữa, ngài Chấp Kim Cang nương vào thần lực của Phật, vì muốn phát khởi phương
tiện bí mật trong Đại Bi Thai Tạng, lại nói năm loại thí dụ, tức là hư không,
đất, nước, lửa, và gió. Câu thứ nhất nói “thí như hư không giới, ly
nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt. Như thị Nhất Thiết Trí
trí, ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt” (ví như
hư không giới lìa hết thảy phân biệt, vô phân biệt, chẳng không phân biệt. Trí
Nhất Thiết Trí giống như
thế, lìa
hết thảy phân biệt, vô phân biệt, chẳng không phân biệt). Như thế chính là
nghĩa lý theo Tỳ Bà Sa, hư không chẳng có lầm lỗi, chẳng có đức. Nay trí thân
của Như Lai lìa hết thảy lỗi, thành tựu vạn đức, sao lại dùng hư không để sánh
ví? Chỉ là lấy chút phần tương tự để mường tượng Đại Không đó thôi! Trong sự
sánh ví tương tự ấy, có ba nghĩa:
-
Một, do hư không rốt ráo thanh tịnh.
-
Hai, do hư không chẳng có ngằn mé.
-
Ba, do [hư không] vô phân biệt.
Tâm
tánh Nhất Thiết Trí cũng giống như thế; vì thế, dùng hư không mà thế gian dễ
hiểu để sánh ví cái Không
khó hiểu. Trước hết, nói “lìa hết thảy phân biệt”, tiếng Phạn là Kiếp-bả (Vikalpa). Kế
đó là “vô phân biệt”, tiếng Phạn là Kiếp-bả-dạ-đế (Kalpa-kapayati). Sở dĩ nói lặp lại, là vì trên
phân biệt lại nẩy sanh ý nghĩa phân biệt. Chẳng hạn như Tầm Tứ, khi nhìn đại
lược thì là Tầm, khi suy xét kỹ càng thì là Tứ. Lại như khi nhãn thức sanh khởi
bèn có thô phân biệt. Kế đó, ý thức sanh khởi thì là tế phân biệt. Dịch theo
lối cũ, có khi dịch Kiếp-bả là “vọng chấp” (chấp trước hư
vọng). Thí dụ ấy mang ý nghĩa: Giống như hư không chẳng hư vọng
chấp trước, phân biệt, cho nên vô phân biệt mà cũng chẳng có vô phân biệt. Lại
như hư không lìa các thứ sắc tướng, hình dạng hiển hiện, chẳng có tạo tác, mà
có thể chứa đựng muôn vàn hình tượng, hết thảy thảo mộc nhờ đó mà sanh trưởng,
sự nghiệp của hữu tình nương vào đó mà được hoàn thành. Hư không Phật trí cũng
lại như thế, tuy lìa hết thảy các tướng, thường vô phân biệt khởi tác dụng,
nhưng vô lượng Độ môn, các thứ diệu nghiệp đều được hoàn thành. Vì thế, dùng đó
để thí dụ.
Câu
thứ hai là “thí như đại địa, nhất thiết chúng sanh y. Như thị Nhất
Thiết Trí trí, thiên, nhân, A Tu La y” (ví như đại địa, hết thảy chúng
sanh nương vào đó. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, được trời, người, A Tu La nương vào). Như
trăm loại hạt lương thực, các thứ cỏ thuốc, thảo mộc, rừng lùm trong thế gian, tùy theo tánh chất vô
lượng sai biệt, đều từ đại địa mà trổ mầm, đâm rễ, cho đến thân, lá, hoa, quả, lần lượt thành tựu. [Đại địa] làm chỗ
nương cậy cho hết thảy chúng sanh, nuôi nấng họ, nhưng vẫn chẳng nghĩ thế
này: “Ta nay gánh vác hết thảy thế gian”. Chẳng nghĩ tới ân đức, chẳng hề mệt
nhọc, tăng cũng chẳng mừng, giảm cũng chẳng sầu, sâu rộng khó lường, chẳng thể
khuynh động. Đất Nhất Thiết Trí cũng lại như thế. Đại Bi Mạn-đồ-la là nơi hết
thảy chủng tử xuất sanh, tức là chỗ y chỉ của vô lượng sự nghiệp trong các
thừa, ở trong sanh tử và Niết Bàn, cái tâm bình đẳng. Tám gió thế gian chẳng
thể dao động. Do có chút phần tương tự như thế, dùng đất làm thí dụ.
Câu
thứ ba nói: “Thí như hỏa giới, thiêu nhất thiết tân, vô hữu yếm túc.
Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiêu nhất thiết vô trí tân, vô yếm túc” (ví
như hỏa giới, đốt hết thảy củi chẳng hề chán đủ. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, đốt hết thảy củi
vô trí chẳng chán đủ). Ví như hỏa chủng, giả sử tích tụ củi đầy khắp thế giới,
đều to như núi chúa Tu Di, lửa sẽ lần lượt đốt sạch, chẳng hề khiếp nhược,
chẳng khởi lên ý niệm này: “Ta đốt củi như thế này, chẳng đốt củi như thế kia”.
Hừng hực chẳng ngừng, mạnh mẽ tiến cao hơn chẳng chán nhàm, phải là thứ bị đốt
đã hết sạch rồi thì sau đó lửa mới diệt theo. Trí hỏa của Như Lai cũng giống
như thế, đốt hết sạch củi hý luận, phiền não, cho tới khi các duyên đối đãi đều tận, tức là huệ quang
ấy cũng không có chỗ nương. Lại như lửa trong thế gian, sang hèn đều cùng sử
dụng, có thể chiếu sáng trong đêm tối, kẻ rơi vào mê hoặc điên đảo đều tìm được đường ngay,
lại đều có thể thành tựu hết thảy các vật. Lửa Nhất Thiết Trí như thế, bậc
thánh và dị sanh (phàm phu) đều
bình đẳng cùng có, từ trong đêm sâu vô thỉ khiến cho các hành nhân thấy đạo như
thật, lần lượt thành tựu hết thảy Phật pháp. Vì thế, dùng nó làm thí dụ.
Câu
thứ tư là nói: “Thí như phong giới, trừ nhất thiết trần. Như thị Nhất
Thiết Trí trí, trừ khử nhất thiết chư phiền não trần” (Ví như phong
giới, trừ hết thảy bụi. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, trừ khử hết thảy các bụi phiền
não). Như lúc gió to bốc lên, khói, mây, bụi mù, hết thảy đều tiêu trừ. Thái hư
tĩnh lặng, mênh mông, tam thần (mặt trời, mặt trăng, tinh tú) hiện ra rạng rỡ,
chúng sanh bị bứt rứt vì nóng bức đều được mát mẻ, có thể khiến cho thảo mộc,
rừng lùm đều tăng trưởng sum suê, và cũng có thể phá tan hết thảy muôn vật. Lại
như tánh của gió là trọn khắp, không chỗ nương, tự tại xoay vần, chẳng bị vướng
mắc. Huệ phong của Như Lai cũng lại như thế, quét sạch hết thảy vẩn bụi phiền
não ngăn che, khiến cho [chúng sanh] chứng
pháp tánh Niết Bàn mát mẻ. Lại có thể khiến cho hết thảy thiện pháp thế gian và
xuất thế gian tăng trưởng, đập tan cây to vô minh, nhổ bật gốc rễ của nó; nhưng
sức vô chướng ngại ấy chẳng nương vào đâu. Vì thế, dùng nó để sánh ví.
Câu
thứ năm là nói “thí như thủy giới, nhất thiết chúng sanh y chi hoan
lạc. Như thị Nhất Thiết Trí trí, vi chư thiên thế nhân lợi lạc” (ví
như thủy giới, hết thảy chúng sanh nương vào đó mà vui sướng. Trí Nhất Thiết
Trí giống như
thế, lợi lạc chư thiên và người đời). Như Thủy Đại từ trên cao chảy xuống thấp,
tạo nhiều lợi ích, có thể tươi nhuận thảo mộc, sanh ra hoa quả. Lại nữa, bản
tánh của nước là thanh khiết, không chất nhơ, không vẩn đục, đều có thể khiến
cho chúng sanh đói khát được no đủ, gột bỏ các cặn nhơ, trừ sạch nhiệt não,
lặng trong, sâu thẳm khó nhập, chẳng thể dò lường. Nơi chỗ hầm hố, tánh nước đều bình đẳng. Trí thủy
của Như Lai cũng lại giống như thế, từ chân pháp giới tuôn nhập thế gian, tươi
nhuận các Đẳng Trì, sanh khởi các pháp trợ đạo, thành tựu quả hạt to lớn lợi ích quần
sanh. Do bản thể của nó chẳng có phiền não, nên thanh khiết. Do có thể lìa các
Hoặc, nên vô cấu. Do là
một tướng, chẳng khác, nên không nhơ bẩn. Hễ ai đạt được [trí thủy ấy], thì các tư duy đều dứt sạch, đạt được thanh
lương định, gột trừ trần lao, lặng trong khó nghĩ tưởng, chứng tánh bình đẳng.
Vì thế, dùng nước để thí dụ.
Lại
nữa, ngài Kim Cang Thủ nói năm thí dụ, nhằm phát khởi năm tự nghĩa (năm ý nghĩa
của các chữ thường dùng trong chân ngôn) trong phần sau:
-
Môn chữ A (अ)
là đất.
-
Môn chữ Phược (व,
Va) là nước.
-
Môn chữ La (र,
Ra) là lửa.
-
Môn chữ Ha (ह,
Ha) là gió.
-
Môn chữ Khư (ख,
Kha)[16] là
hư không.
Lại
như chủng tử trong thế gian, đất, nước, lửa, gió làm duyên, hư không vô ngại,
sau đấy mới được sanh trưởng. Hễ thiếu một duyên, trọn chẳng thể tăng trưởng.
Chủng tử Như Lai trong hết thảy trí tánh cũng giống như thế, sử dụng năm nghĩa
trong hết thảy trí môn để làm các duyên, sẽ có thể đạt tới diệu quả Bồ Đề
thường trụ. Đó gọi là “nhân duyên bất sanh, bất diệt chẳng thể
nghĩ bàn”. Ngài
Kim Cang Thủ quán biết tướng gia trì pháp giới độc nhất của Như Lai, tâm suy
nghĩ, ắt biết [đức Phật] sẽ nói pháp môn như thế. Vì thế,
trước đó, Ngài sánh ví công đức ấy để phát khởi cơ duyên sanh giải cho chúng
hội, sau đấy mới hỏi đức Phật: “Như thị trí huệ dĩ hà vi nhân? Vân hà vi
căn? Vân hà vi cứu cánh?” (Trí huệ như thế, lấy gì làm nhân? Lấy gì
làm căn? Lấy gì làm rốt ráo?) Từ đấy trở đi, Như Lai trí ấn khiến cái tâm đã định, sẽ rộng nói phân biệt.
Chẳng hạn như Di Lặc Bồ Tát trông thấy các tướng lành do thần thông của đức
Phật, tâm liền bồi hồi suy tưởng: “Đấy là đức Phật sẽ vì đại chúng nói pháp đạt được nơi
đạo tràng, hay là thọ ký Bồ Đề?” Ngài
Văn Thù nêu rõ danh thể (bản thể của danh xưng), chỉ ra [đức Thế Tôn] sẽ nói
kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau đấy, Như Lai mới dùng Thật Tướng để ấn khả, thừa
dịp diễn nói, khiến cho các đồ đệ vì chấp trước mà dấy lên nghi hoặc sẽ lìa
khỏi lưới nghi. Ví như khởi đầu tiết Xuân, hạt giống nứt mầm, do sấm, gió thôi thúc, mưa đúng thời tưới
đẫm, mầm cây sẽ được thoát khỏi vỏ bọc mà nẩy sanh. Nếu chẳng có căn cơ phù
hợp, dẫu được gặp gỡ, chẳng thể phát khởi lợi ích sâu thẳm được!
(Kinh)
Như thị thuyết dĩ, Tỳ Lô Giá Na Phật tức cáo Trì Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn:
“Thiện tai! Thiện tai! Chấp Kim Cang! Thiện tai, Kim Cang Thủ! Nhữ vấn ngô như
thị nghĩa. Nhữ đương đế thính, cực thiện tác ý, ngô kim thuyết chi”. Kim Cang
Thủ ngôn: “Như thị, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”. Phật ngôn: - Bồ Đề tâm vi
nhân, Bi vi căn bản, phương tiện vi cứu cánh. Bí Mật Chủ! Vân hà Bồ Đề? Vị như
thật tri tự tâm. Bí Mật Chủ! Thị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nãi chí bỉ
pháp thiểu phần, vô hữu khả đắc. Hà dĩ cố? Hư không tướng thị Bồ Đề, vô tri
giải giả diệc vô khai hiểu. Hà dĩ cố? Bồ Đề vô tướng cố. Bí Mật Chủ! Chư pháp
vô tướng, vị hư không tướng!
(經)如是說已,毘盧遮那佛即告持金剛祕密主言:善哉善哉!執金剛!善哉金剛手!汝問吾如是義。汝當諦聽,極善作意,吾今說之。金剛手言:如是,世尊!願樂欲聞。佛言:菩提心為因,悲為根本,方便為究竟。祕密主!云何菩提?謂如實知自心。祕密主!是阿耨多羅三藐三菩提乃至彼法少分,無有可得。何以故?虛空相是菩提,無知解者亦無開曉。何以故?菩提無相故。祕密主!諸法無相,謂虛空相。
(Kinh:
Nói như thế xong, Tỳ Lô Giá Na Phật liền bảo Trì Kim Cang Bí Mật Chủ rằng:
“Lành thay! Lành thay! Chấp Kim Cang! Lành thay Kim Cang Thủ! Ông hỏi ta nghĩa
như thế, ông hãy nên lắng nghe, cực khéo tác ý, nay ta sẽ nói”. Kim Cang Thủ
nói: “Đúng như thế, bạch Thế Tôn! Con nguyện vui thích mong được nghe”. Đức
Phật dạy: - Bồ Đề tâm làm nhân, Bi là căn bản, phương tiện là rốt ráo. Bí Mật
Chủ! Thế nào là Bồ Đề? Chính là nói như thật biết tự tâm. Bí Mật Chủ! Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, cho đến chút phần của pháp ấy, chẳng có gì để có thể đạt
được. Vì cớ sao? Tướng của hư không là Bồ Đề, kẻ chẳng hiểu biết cũng chẳng
khai hiểu, vì cớ sao? Do Bồ Đề vô tướng. Bí Mật Chủ! Các pháp vô tướng, tức là
tướng hư không).
Do
ngài Chấp Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ đoán biết thâm ý gia trì của Như Lai, lại có
thể phát khởi làm nhân duyên tạo sự thấu hiểu cho đại chúng thuở ấy, đoán biết
thánh tâm [mà kịp thời thưa hỏi], chẳng bỏ lỡ cơ hội. Vì thế, [đức Phật] lặp
lại “thiện tai, thiện tai!”, [hàm ý] ta quán trời, người,
sa-môn, bà-la-môn, cho đến các vị Bồ Tát hạnh cạn, không ai có thể đối trước đức Thế Tôn nêu câu hỏi như
thế. Vì cớ sao vậy? Do ba cú nghĩa ấy đều thâu nhiếp hết thảy các sự rất sâu
trong thần lực bí mật của Phật pháp. Vì thế, [đức Phật] lại tán thán
rằng: “Thiện tai Kim Cang Thủ! Nhữ năng vấn ngô như thị nghĩa dã” (Lành
thay Kim Cang Thủ! Ông có thể hỏi ta nghĩa như thế). Do âm thanh [tán
thán] “lành thay” của Như Lai gia trì, lúc bấy giờ, vô lượng
công đức của Kim Cang Thủ tăng lên gấp bội, lại hiểu rõ pháp được trao truyền,
trọn chẳng để sơ sót, mất đi.
Kế
đó, đức Phật răn bảo: “Nhữ đương đế thính, cực thiện tác ý, ngô kim
thuyết chi” (Ông nên lắng nghe, cực khéo tác ý, ta nay sẽ nói). Đấy
cũng là vì
hàng đệ tử vị lai mà nêu rõ lời căn dặn như thế, tức là nghi thức thâm tâm thọ
pháp vậy. Do đó, Thích Luận viết: “Nếu ai thiện tâm, lòng tin chất
trực, người ấy có thể nghe pháp. Nếu chẳng có tướng ấy, sẽ chẳng thể hiểu!” Như
nói kệ rằng: “Thính giả đoan thân như khát ẩm, nhất tâm nhập ư ngữ
nghĩa trung, dũng dược văn pháp tâm bi hỷ, như thị chi nhân ưng vị thuyết” (Người
nghe đoan chánh cái thân như khát bèn uống nước, nhất tâm nhập vào trong ý
nghĩa của lời nói. Hớn hở nghe pháp tâm buồn vui xen lẫn, người như thế mới nên
vì họ thuyết pháp), và như kinh Vô Tận Ý có hai mươi ba câu nói cặn kẽ về công
đức do dụng tâm nghe pháp.
Kinh
dạy: “Phật cáo Kim Cang Thủ: - Bồ Đề tâm vi nhân, bi vi căn, phương
tiện vi cứu cánh” (Đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ: - Bồ Đề tâm là
nhân, bi là căn, phương tiện là rốt ráo). Giống như chủng tử trong thế gian, nhờ
vào các duyên Tứ Đại, cho nên theo thứ tự như thế ấy mà mọc rễ, cho đến khi quả
hạt chín muồi thì gọi là “rốt
ráo”. Nhưng dùng Trung Trí để
quán, [sẽ thấy là] rốt ráo bất sanh, bất diệt. Do đó, nghĩa nhân quả được
thành. Nếu pháp chẳng phải vậy, sẽ có tướng “sanh, diệt, đoạn, thường”, sẽ
đọa vào hý luận, đều có thể phá, nghĩa nhân quả sẽ chẳng thành! Nay hành giả
quán Thật Tướng của cái tâm cũng lại như thế, vượt ngoài hết thảy các hý
luận, như
hư không thanh tịnh. Trong việc hành nội chứng, đạt được tín lực sâu đậm, tâm Tát Bà Nhã
kiên cố, bất động, lìa nghiệp thọ sanh, thành tựu chân tánh sanh. Từ đấy trở
đi, vạn hạnh công đức tăng trưởng. Vì thế nói: “Bồ Đề tâm làm nhân”. Cái
tâm Bồ Đề ấy làm nhân cho hai câu sau đó. Nếu đối ứng với thiện căn được gieo
trong sanh tử thì gọi là quả, do thấy tiền tướng trong Phật pháp. Ví như có
người nghe thiện tri thức nói: “Nay trong nhà ông có kho báu vô tận, hãy nên tự
siêng tu phương tiện để khai quật, sẽ có thể châu cấp cho cả một nước mà thường
chẳng thiếu hụt”. Người đó nghe xong, sanh lòng tin chắc chắn, hành đúng như
lời dạy, cho đến dốc sức không ngừng, sẽ dần dần thấy tiền tướng. Lúc bấy giờ,
đối với công đức của kho báu, lìa tâm nghi hoặc, có thể kham phát khởi gia hạnh
thù thắng. Vì thế, Bồ Đề tâm có nghĩa là “tín tâm trắng sạch”. Thích
Luận cũng nói: “Biển cả Phật pháp, do tín có thể nhập”. Như
khi Phạm thiên vương thỉnh chuyển pháp luân, đức Phật đã nói kệ rằng: “Ngã
kim khai cam lộ vị môn, nhược hữu sanh tín giả đắc hoan hỷ” (Ta nay mở cửa cam lộ vị, nếu ai tin tưởng, sẽ hoan
hỷ). Trong lời kệ ấy, chẳng nói người hành Thí, Giới, Đa Văn, Nhẫn, Tấn, Thiền,
Huệ có thể đạt được hoan hỷ, chỉ nói riêng người tin tưởng. Ý Phật là như thế
này: Pháp của ta vi diệu, rất sâu bậc nhất, vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn,
là pháp bất động, không dựa dẫm, chẳng dính mắc, vô sở đắc, chẳng phải là người
Nhất Thiết Trí, sẽ
chẳng thể hiểu. Vì thế, lấy tín lực làm đầu, chẳng do các môn như Huệ v.v… mà
thoạt đầu có thể tiến nhập Phật pháp, vì khiến cho tín tâm thanh tịnh như thế
được kiên cố, tăng trưởng.
Tiếp
đó, kinh nói “đại
bi làm căn”. “Căn” có
nghĩa là “có thể chấp trì”. Giống như rễ cây duy trì thân, lá,
hoa, quả, khiến cho cây chẳng bị nghiêng đổ, trốc gốc. Bi trong tiếng Phạn là
Ca Lô Noa (Karuṇā), Ca có nghĩa là Khổ, Lô Noa nghĩa là “cắt
bỏ”. Từ như gieo trồng mạ tốt rộng khắp, Bi như cuốc bỏ cỏ dại. Vì
thế, Bi được nói ở đây có kèm theo ý nghĩa “đại từ”. Lại như khi hành giả tu cúng dường,
nếu dâng một đóa hoa, hoặc hương bôi v.v… tức là trọn khắp hết thảy mọi nơi đều
dùng Bồ Đề tâm thanh tịnh để dấy mây cúng dường, thực hiện Phật sự trọn khắp,
phát khởi bi nguyện hồi hướng quần sanh, dẹp trừ hết thảy khổ, thí vô lượng
lạc. Do thiện căn của chính mình và sức gia trì pháp giới của Như Lai,
các diệu nghiệp thực hiện đều được thành tựu. Tức là trong trọn khắp hết thảy
các trí địa, cho đến vô dư hữu tình giới, thảy đều “mọc rễ”. Tùy
thuộc hành giả dùng cái tâm vô trụ để tu vạn hạnh; tức là do được đại bi địa
giới chấp trì, đại bi hỏa giới ủ ấm, đại bi thủy giới nhuần thấm, đại bi phong
giới khai phát sanh trưởng, đại bi hư không chẳng chướng ngại. Lúc bấy giờ, vô
lượng Độ môn tùy ý khai phát, giống như rễ, cành, lá theo thứ tự trang nghiêm,
tức là ý nghĩa “trọn đủ nhân duyên” trong hết thảy các tâm pháp.
“Phương
tiện là rốt ráo” tức
vạn hạnh viên mãn cùng cực,
chẳng thể tăng thêm. Quyền xảo ứng hợp chúng sanh xét đến tận cùng chuyện có
thể thực hiện chính là nguồn cội của diệu quả Tam Mật đề-hồ. Lại nữa, Bồ Đề tâm
thanh tịnh giống như vàng ròng, bản tánh sáng sạch, lìa các lầm lỗi. Đại bi như
học tập nghề khéo, dùng các thứ thuốc, các thứ nung luyện, cho đến [vàng được
tinh luyện] thấu triệt như gương, mềm mại, co duỗi tự tại. Phương tiện như nghề
khéo đã thành tựu, tất cả các tạo tác đều tùy ý mà thành, từ trong quy
chế mà quyền biến lưu xuất các tài khéo. Sự hay khéo đắc ý ấy khó thể truyền
cho người khác được. Như Ma Ha Bát Nhã giảng về Lục Độ, mười tám môn Không, các
môn tam-muội, đạo phẩm, tổng trì v.v… đều thuộc vào câu “đại bi”, tức
là cái quả của trí Nhất Thiết Trí do vạn hạnh tạo thành, được gọi là “phương tiện”, vì
trong đó có đủ các phương tiện. Nghiệp của phương tiện là lợi tha, do Ổ-ba-da (Upāya, phương tiện) trong
tiếng Phạn cũng là “phát khởi”. Như từ chủng tử sanh ra quả,
quả lại trở thành hạt giống; vì thế, dùng đó để đặt tên.
Kinh
dạy “Bí Mật Chủ! Vân hà Bồ Đề? Vị như thật tri tự tâm” (Bí Mật
Chủ! Thế nào là Bồ Đề? Tức là như thật biết tự tâm), tức là khai thị chỗ có
chất báu công đức của Như Lai. Như người tuy nghe nói kho báu, khởi ý niệm
siêng năng mong cầu, nếu chẳng biết nó ở đâu, sẽ không có cách nào đến được. Vì thế, lại chỉ rõ pháp
vi diệu rất sâu bậc nhất như đã nói trên đây, cho đến nói “chẳng phải
là bậc Nhất Thiết Trí, sẽ chẳng thể hiểu”. Pháp ấy từ nơi nào mà đắc? Chính là
từ tự tâm của hành giả. Nếu có thể như thật quán sát, chứng biết rành rành, thì
gọi là “thành Bồ Đề”; thật ra, chẳng do người khác mà ngộ, chẳng
từ điều gì
khác mà đạt được!
Hỏi
rằng: Nếu ngay nơi cái tâm chính là đạo, vì sao chúng sanh luân hồi sanh tử,
chẳng được thành Phật?
Đáp:
Do chẳng biết đúng như thật! Đó gọi là “ngu đồng phàm phu” (愚童凡夫, phàm
phu như trẻ nhỏ ngu muội). Nếu nghe pháp này, ít kẻ có thể tin tưởng. Thức tánh Nhị Thừa tuy tự quán sát,
nhưng chưa biết đúng như thật. Nếu tự biết đúng như thật, tức là lúc sơ phát
tâm liền thành Chánh Giác. Ví như đứa con nghèo túng của ông trưởng giả [được nói trong phẩm Tín Giải của kinh
Pháp Hoa],
nếu khi đã nhận biết cha, há có còn là người khách nghèo hèn nữa chăng? Lúc ấy,
hành giả do thật sự biết Thật Tướng của cái tâm, thấy hết thảy các pháp đều là
rất sâu, vi diệu, vô lượng, vô số chẳng thể nghĩ bàn, bất động,
chẳng dựa dẫm, chẳng chấp trước, đều là vô sở đắc, rốt ráo như tướng Bồ Đề.
Kinh
lại nói “Bí Mật Chủ! Thị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nãi chí bỉ
pháp thiểu phần, vô
hữu khả đắc” (Bí
Mật Chủ! Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, dẫu chỉ chút phần của pháp ấy cũng
chẳng có thể đạt được). Ý nghĩa của Vô Thượng Chánh Biến Tri đã được nói trong
phần trước. Ở đây nói chút phần. A Nậu (Anu, cực vi trần) trong tiếng Phạn
chính là do bảy vi trần hợp thành, là phần nhỏ nhất của Sắc sanh từ các duyên,
cho nên dùng nó làm thí dụ. Nói “bỉ pháp” (pháp đó) tức là lìa
ngoài vô tướng Bồ Đề tâm ấy ra, chẳng có một pháp nào nữa!
Kế
đó, trong kinh nói đến nhân duyên: “Hà dĩ cố? Hư không tướng thị Bồ Đề,
vô tri giải giả diệc vô khai hiểu. Hà dĩ cố? Bồ Đề vô tướng cố” (Vì
sao vậy? Tướng hư không là Bồ Đề, kẻ chẳng hiểu biết cũng chẳng thấu hiểu. Vì
sao vậy? Do Bồ Đề vô tướng). Thí như hư không trọn khắp hết thảy mọi nơi, rốt
ráo thanh tịnh, lìa hết thảy các tướng, bất động, vô phân biệt, chẳng thể
thay đổi, chẳng thể phá hoại. Do có chút phần tương tự như thế, bèn dùng nó để sánh ví Bồ Đề
tâm. Nhưng trong ấy lại có vô lượng vô biên chuyện bí mật rất sâu, thật sự
chẳng thể dùng hư không trong thế gian để thí dụ trọn khắp được, chỉ mong người
học lãnh hội được ý mà quên lời vậy! Lại như hư không xa lìa hý luận, phân
biệt, nên chẳng có tướng hiểu biết, chẳng có tướng vỡ lẽ. Chư Phật tự chứng Tam
Bồ Đề (Chánh Giác), hãy nên biết cũng thế, chỉ là tâm tự chứng tâm, tâm tự giác
tâm. Trong ấy, không có pháp để hiểu biết, mà cũng chẳng có người hiểu biết,
chẳng phải là mới thấu hiểu, mà
cũng chẳng phải là không thấu hiểu. Nếu phân biệt chút phần năng sở chừng bằng
vi trần, tức là chấp lấy tướng “pháp, phi pháp”, chẳng
lìa “ta, người, chúng sanh, thọ mạng”, há có thể đáng gọi là
Kim Cang Huệ ư?
Kinh
lại còn tự giải thích rằng: “Hà dĩ cố? Bồ Đề vô tướng cố” (Vì
sao vậy? Do Bồ Đề vô tướng). Như Thích Luận nói: “Do trí huệ của Phật
thanh tịnh, vượt ngoài các phép Quán, chẳng quán tướng thường, tướng vô thường
của các pháp, tướng hữu biên, tướng vô biên, tướng có đi, tướng chẳng đi, hữu
tướng, vô tướng, tướng hữu lậu, tướng vô lậu, tướng hữu vi, tướng vô vi, tướng
sanh diệt, tướng chẳng sanh diệt, tướng không, tướng bất không, thường thanh
tịnh, vô lượng như hư không. Do vậy, Phật trí vô ngại”. Nếu quán sanh
diệt, sẽ chẳng thể quán không sanh diệt. Quán không sanh diệt, sẽ chẳng thể quán
sanh diệt. Nếu sanh diệt là thật, thì “chẳng sanh diệt” sẽ không thật. Nếu
“chẳng sanh diệt” là thật, sanh diệt sẽ chẳng thật! Các phép Quán như vậy đều
như thế đó. Dùng cái tâm Bồ Đề thanh tịnh như thế, do vượt khỏi các cách Quán,
lìa các tướng, sẽ được chẳng vướng mắc nơi hết thảy các pháp. Ví như do tướng
của hư không cũng là vô tướng, muôn hình tượng đều nương vào hư không, nhưng hư
không chẳng nương tựa vào đâu! Vạn pháp như thế đều nương vào tịnh tâm, nhưng
tịnh tâm trọn chẳng nương tựa. Đấy chính là các pháp ấy cũng như tướng Bồ Đề,
tức là tướng hư không thanh tịnh. Vì thế, kinh lại nói: “Bí Mật Chủ!
Chư pháp vô tướng, vị hư không tướng” (Bí Mật Chủ! Các pháp vô tướng,
tức là tướng hư không).
(Kinh)
Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thùy tầm cầu Nhất Thiết
Trí? Thùy vị Bồ Đề thành Chánh Giác giả? Thùy phát khởi bỉ Nhất Thiết Trí trí?
Phật ngôn: - Bí Mật Chủ! Tự tâm tầm cầu Bồ Đề cập Nhất Thiết Trí. Hà dĩ cố? Bổn
tánh thanh tịnh cố, tâm bất tại nội, bất tại ngoại, cập lưỡng trung gian, tâm
bất khả đắc. Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác, phi thanh, phi hoàng,
phi xích, phi bạch, phi hồng tử, phi thủy tinh sắc, phi trường, phi đoản, phi
viên, phi phương, phi minh, phi ám, phi nam, phi nữ, phi bất nam nữ.
(經)爾時金剛手復白佛言:世尊!誰尋求一切智?誰為菩提成正覺者?誰發起彼一切智智?佛言:祕密主!自心尋求菩提及一切智。何以故?本性清淨故。心不在內、不在外及兩中間,心不可得。祕密主!如來、應、正等覺,非青非黃、非赤非白、非紅紫非水精色、非長非短、非圓非方、非明非暗、非男非女非不男女。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Kim Cang Thủ lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Ai tìm
cầu Nhất Thiết Trí? Ai vì Bồ Đề mà thành Chánh Giác? Ai phát khởi trí Nhất
Thiết Trí ấy?” Đức Phật nói: - Bí Mật Chủ! Tự tâm tìm cầu Bồ Đề và Nhất Thiết
Trí. Vì sao vậy? Do bổn tánh thanh tịnh, tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài,
và chẳng ở
giữa hai chỗ đó, tâm đều chẳng thể được. Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng
Giác chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải hồng hay
tím, chẳng phải là màu thủy tinh, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tròn, chẳng
vuông, chẳng sáng, chẳng tối, chẳng nam, chẳng nữ, chẳng phải không nam nữ).
Khi đó, ngài Chấp Kim Cang nghe nghĩa lý do đức Phật
nói, “trí huệ Tát Bà Nhã chỉ là tự tâm”, cho đến “chẳng có chút
pháp nào ra ngoài cái tâm ấy”, vì đoạn nghi hoặc cho chúng sanh trong
vị lai, nên Ngài hỏi
đức Phật rằng: “Bồ Đề tâm gọi là một mực dốc chí để cầu trí Nhất Thiết Trí. Nếu
trí Nhất Thiết Trí chính là Bồ Đề tâm thì trong ấy, ai là người cầu? Gì là pháp
được cầu? Ai có thể giác? Ai là người được giác? Lại nữa, lìa ngoài tâm, đều
chẳng có một pháp nào; ai có thể phát khởi cái tâm ấy để đạt tới diệu quả? Nếu
pháp chẳng có nhân duyên mà được thành tựu, hết thảy chúng sanh đáng lẽ cũng
chẳng cần nhờ vào phương tiện mà tự nhiên thành Phật”.
Vì
thế, đức Phật trả lời: “Bí Mật Chủ! Tự tâm tầm cầu Bồ Đề cập Nhất Thiết
Trí. Hà dĩ cố? Bổn tánh thanh tịnh cố” (Bí Mật Chủ! Tự tâm tìm cầu Bồ
Đề và Nhất Thiết Trí. Vì sao vậy? Do
bổn tánh thanh tịnh). Tuy Thật Tướng nơi tự tâm của chúng sanh chính là Bồ Đề,
dẫu có Phật hay không có Phật, nó vẫn thường nghiêm tịnh, nhưng chẳng tự biết
đúng như thật. Do vậy, nó chính là vô minh. Do vô minh điên đảo chấp tướng, bèn
sanh ra các phiền não như Ái v.v… Do phiền não mà dấy đủ loại nghiệp, nhập đủ loại đạo, đạt được đủ loại thân, thọ đủ loại khổ, lạc. Như tằm nhả tơ chẳng có
nguyên nhân, do chính mình đã nhả tơ ra mà bị quấn bó, hứng chịu nỗi khổ bị đốt nấu! Ví như nước sạch trong nhân gian,
tùy thuộc cái tâm của chư thiên hay quỷ mà thấy là của báu, hoặc coi là lửa, tự
tâm tự thấy khổ hay lạc! Do vậy, biết rằng: “Lìa ngoài tâm, sẽ chẳng có pháp!” Nếu hành nhân Du Già chánh quán Thật Tướng
của ba pháp, tức là thấy Thật Tướng của tâm. Thật Tướng của tâm chính là Vô Tướng
Bồ Đề, cũng gọi là trí Nhất Thiết Trí. Tuy lại lìa các nhân duyên, cũng chẳng
phải là không có nhân mà được thành tựu. Lại nữa, đức Thế Tôn muốn khiến cho
chúng sanh như thật biết tự tâm, lại dùng phương tiện để phân biệt, diễn nói.
Do nguyên do nào? Nếu chỉ nói “tự tâm bất sanh, bất diệt”, do
chẳng có nhân, [chúng sanh] sẽ khó hiểu ý nghĩa đó. Vì thế, trước hết, Ngài chỉ bày chỗ căn cứ [để nói như thế].
Kinh
dạy: “Tâm bất tại nội, bất tại ngoại, cập lưỡng trung gian, tâm bất khả đắc “ (Tâm
chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, và giữa hai chỗ đó, tâm chẳng thể được). Như Ma
Ha Bát Nhã dùng vô lượng môn để nhập Thật Tướng của các pháp. Nay muốn nêu ra
điều tông yếu, chỉ quán mười hai xứ trong và ngoài, là đã thâu tóm hết thảy các
pháp. Từ vô thỉ tới nay,
tâm hành giả phần nhiều chấp trước tâm tướng của nội pháp. Vì thế, trước hết
đối với sáu chỗ bên trong, liền dùng các phương tiện như ly tướng v.v… để mỗi
mỗi quán kỹ “tâm chẳng thể được, vô sanh, vô tướng, chẳng có xứ sở”, mà
nghĩ như thế này: “Có lẽ tâm này ở ngoài đấy chăng?” [Do vậy], lại đối với sáu
chỗ bên ngoài, bèn quán như thật: Tâm cũng chẳng có sanh tướng, chẳng có xứ sở.
Do sợ lầm lạc, bèn gộp lại để quán, đối với chặng giữa của hai thứ đó (trong và
ngoài) cũng chẳng thể được, tức là ngộ thật tánh của cái tâm này vốn tự vô
sanh, vô diệt, rốt ráo thường tịnh, nhưng bị mây hý luận phủ lấp. Ví như do sức của [thủy thanh] châu
khiến cho nước trong; do nước trong nên châu hiện ra. Chắc chắn chẳng do từ nơi nào khác mà có!
Kinh
dạy: “Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác, phi thanh, phi hoàng,
phi xích, phi bạch, phi hồng tử, phi thủy tinh sắc, phi trường, phi đoản, phi
viên, phi phương, phi minh, phi ám, phi nam, phi nữ, phi bất nam nữ” (Bí
Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng
phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải hồng hay tía, chẳng phải là màu thủy tinh,
chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tròn, chẳng vuông, chẳng sáng, chẳng tối, chẳng
nam, chẳng nữ, chẳng phải là không nam nữ). Trong phần trước, đã dựa theo hết
thảy các pháp để nói rõ Thật Tướng của cái tâm. Nay lại xét theo chân ngã để
nêu tỏ Thật Tướng của cái tâm. Ý nghĩa được đề cao biện định ở đây chính là coi
tâm là Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác; đó gọi là “đại ngã” trong
nội tâm. Như có một loại ngoại đạo, do chẳng liễu giải tự tâm, bèn nói như thế
này: “Ta quán chân ngã có màu xanh biếc, người khác chẳng thể thấy!” Hoặc nói
là màu vàng tươi, màu đỏ tươi, hoặc nói như màu yên chi[17],
nay nói theo ý nghĩa [trong kinh này] là như màu hồng tía. Hoặc nói “ta thấy
chân ngã có tướng cực dài hay cực ngắn”, cho đến “như tướng nam tử v.v... Chỉ có đấy là thật, những thứ khác đều là
nói dối”. Nhưng các tướng ấy đều từ duyên sanh, chẳng có tự tánh, sao có thể
gọi là cái Ngã chân thật cho được? Đối với các thứ chấp trước ấy, đức Phật
nói “Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác chẳng phải là màu xanh” v.v…
Vì cớ sao vậy? Do tướng xanh ấy rốt ráo chẳng sanh, cho nên chẳng phải là xanh.
Do Thật Tướng của màu xanh bất hoại, nên cũng chẳng phải không là xanh. Hãy nên
biết Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác không có tướng nhất định để có thể nói, và
cũng chẳng lìa các tướng như thế. Như có ngoại đạo A-xà-lê trong ban đêm của
hắc nguyệt[18],
dẫn các đệ tử tới trước con voi to mà bảo như thế này: “Ta nay chỉ chân ngã
cho các ngươi”. Khi ấy, bọn họ hoặc dùng mắt nhìn, hoặc dùng thân chạm. Người
thấy hình dáng [con voi] bèn nói: “Ta nay đã biết chân ngã, sắc nó rất trắng,
to lớn cồng kềnh”. Người sờ ngà nói: “Chân ngã như cây giáo”. Người sờ tai nói
giống như cái ky, người sờ chân nói giống như cây cột, người sờ đuôi nói giống
như sợi thừng. Ai nấy đều dựa theo tình kiến chấp trước do tiếp xúc bất đồng.
Dẫu tranh cãi đúng sai với nhau, trọn chẳng thể biết chân thể của voi! Nếu lúc
hành giả Du Già khai phát cái tâm, hiểu rõ đạo, chiếu kiến Như Lai trong tâm
vương, như trong chỗ sáng bừng, mắt thấy các sắc, sẽ chẳng nẩy sanh tranh luận
như thế.
(Kinh) Bí
Mật Chủ! Tâm phi Dục Giới đồng tánh, phi Sắc Giới đồng tánh, phi Vô Sắc Giới
đồng tánh, phi thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na
La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân thú đồng tánh.
(經)祕密主!心非欲界同性、非色界同性、非無色界同性,非天龍、夜叉、乾闥婆、阿脩羅、迦樓羅、緊那羅、摩睺羅伽、人非人趣同性。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Tâm chẳng
cùng một tánh với Dục Giới, chẳng cùng một tánh với Sắc Giới, chẳng cùng một
tánh với Vô Sắc Giới, chẳng phải cùng một tánh với các đường trời, rồng, Dạ
Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân).
Kế
đó nói: “Bí Mật Chủ! Tâm phi Dục Giới đồng tánh, phi Sắc Giới đồng
tánh, phi Vô Sắc Giới đồng tánh, phi thiên, long, Dạ Xoa, nãi chí nhân phi nhân
thú đồng tánh” (Bí Mật Chủ! Tâm chẳng cùng một tánh với Dục Giới,
chẳng cùng một tánh với Sắc Giới, chẳng cùng một tánh với Vô Sắc Giới, chẳng
cùng tánh với đường trời, rồng, Dạ Xoa, cho đến nhân phi nhân) cũng nhằm đối
trị các chấp trước hư vọng, hiển thị tự tâm không thay đổi. Vì thế nói cái tâm
chẳng có cùng
một tánh với tam giới. Có các ngoại đạo chấp ngã có cùng một tánh với Dục Giới,
hoặc cùng một tánh với Sắc Giới và Vô Sắc Giới, cho đến cho rằng Phi Tưởng Phi
Tưởng Xứ là Niết Bàn. Hoặc nói Phạm Vương, Tỳ Nữu Thiên (Viṣṇu) v.v… sanh ra hết thảy các pháp. Nhưng
tam giới này thảy
đều từ các duyên mà sanh, cầu tự tánh của chúng chẳng thể được, huống hồ khiến
cho tâm tánh có cùng một tánh với các tánh ấy ư? Kế đó, rộng phân biệt vô lượng
các đường chúng sanh, mỗi mỗi đều chỉ ra, [tánh của mỗi đường ấy] đều chẳng
giống với tâm tánh. Ví như hư không mưa nước tám công đức, một vị thuần tịnh,
tùy thuộc vào đồ đựng đủ mọi sai biệt mà hoặc cay, hoặc chua, hoặc ấm, hoặc
đục, nhưng tánh tám công đức chẳng giống như chúng nó. Khi hết nóng, hết đục,
thì trong mát như cũ, chưa từng đổi khác!
Lại
như Chân Đà Ma Ni (Như Ý Bảo Châu) vốn chẳng có tướng nhất định, gặp vật nào
liền có cùng màu với vật ấy, nhưng tánh của báu ấy chẳng giống như các vật đó.
Nếu cùng một tánh, do khi sắc ấy thuận theo duyên mà sanh diệt, tánh
của chất báu cũng phải nên sanh diệt. Lại nữa, do đức Thế Tôn sắp khai thị Đại
Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la, trước hết bèn khai thị môn Thật Tướng của tâm. Vì
sao vậy? Như trong Bổn Tôn tam-muội của hành giả nói có hiển hiện hình tướng
nam, nữ v.v… và phổ môn thị hiện thân trong sáu đường, sợ các hành nhân chẳng
liễu giải “tâm do duyên mà sanh”, đối với chân tánh của bảo
vương sẽ nẩy sanh hý luận. Vì thế, đức Phật nói Như Lai chẳng phải là xanh,
vàng, cho đến tâm chẳng có cùng một tánh với sáu đường trong tam giới. Nếu có
thể quan sát như thế, sẽ chẳng ngăn chướng Bồ Đề tâm.
(Kinh) Bí
Mật Chủ! Tâm bất trụ nhãn giới, bất trụ nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý giới, phi kiến,
phi hiển hiện. Hà dĩ cố? Hư không tướng tâm ly chư phân biệt, vô phân biệt. Sở
dĩ giả hà? Tánh đồng hư không tức đồng ư tâm. Tánh đồng ư tâm, tức đồng Bồ Đề.
Như thị Bí Mật Chủ! Tâm, hư không giới, Bồ Đề, tam chủng vô nhị. Thử đẳng Bi vi căn bản, phương tiện
Ba La Mật mãn túc.
(經)祕密主!心不住眼界、不住耳鼻舌身意界,非見非顯現。何以故?虛空相心離諸分別,無分別。所以者何?性同虛空即同於心,性同於心即同菩提。如是祕密主!心、虛空界、菩提,三種無二。此等悲為根本,方便波羅蜜滿足。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Tâm chẳng trụ
trong nhãn giới, chẳng trụ trong nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý giới, chẳng thấy,
chẳng hiển hiện. Vì sao vậy? Tâm có tướng như hư không lìa các phân biệt, chẳng
phân biệt. Vì lẽ nào vậy? Tánh giống như hư không, tức là giống tâm. Tánh giống
tâm tức là giống Bồ Đề. Như thế đó, Bí Mật Chủ! Ba thứ tâm, hư không giới, và
Bồ Đề chẳng hai. Bi là căn bản của các thứ ấy, phương tiện Ba La Mật trọn đủ).
Trong
phần trên đã nói không trụ trong ba chỗ (trong, ngoài, chặng giữa), đã gồm thâu hết thảy
các pháp; vì người chưa ngộ mà lại phân biệt rành rẽ từng pháp. [Do có kẻ đã
nghe các nghĩa trên đây, cho rằng]: Nếu tâm chẳng có cùng một tánh với các
đường, nó sẽ trụ trong nhãn giới ư? Cho đến trụ trong ý giới ư? [Phá chấp trước
ấy như sau]: Nếu tâm trụ trong nhãn giới, do mắt sanh từ các duyên, tánh tướng
tự không, chẳng có trụ xứ, há Thật Tướng của tâm lại ở trong mắt ư? Giống như
nhãn giới, [từ nhĩ giới, tỵ giới v.v…] cho tới các pháp Ấm, Nhập, đều nên rộng
nói như thế.
Lại
nữa, trong phần trên đã phá các loại ngoại đạo, nay nói chẳng trụ vào các pháp,
nhằm phá Biên Kiến của Thanh Văn. Như trong Độc Tử A Tỳ Đàm (A Tỳ Đàm Luận của
Độc Tử Bộ) nói: “Ví như Tứ Đại hòa hợp mà có nhãn pháp, cũng như thế, ngũ tượng do hòa hợp mà có nhân và
pháp, tức là nhân và pháp thuộc vào bất khả thuyết tạng”.
Người tu theo Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ nói: “Thần và người trong hết
thảy các pháp môn đều chẳng thể cầu được! Như sừng thỏ, lông rùa vô thường, mà
Ấm, Giới, Nhập thật sự có tự tánh”. Do các pháp hý luận như thế, chẳng biết
cái tâm. Nếu có thể quán tâm chẳng trụ trong các pháp, tâm sẽ chẳng có hành xứ,
hý luận đều hết sạch.
“Phi
kiến, phi hiển hiện” (chẳng thấy, chẳng hiển hiện): Như có người nói:
“Hết thảy chúng sanh vốn có tánh tri kiến của Phật, nhưng khi màng mộng vô
minh trừ khử, sẽ tự có thể thấy Lý”. Hoặc có người nói: “Thường lý như thế
chẳng thể tạo tác, nhưng khi trừ khử mây mù triền cái, vầng mặt trời sẽ tự
hiện”. Đấy đều là lời lẽ của Thế Đế. Nếu Bồ Đề tâm thanh tịnh là pháp có thể
thấy, có thể hiện, thì tức là có
tướng. Phàm những gì có tướng, đều là hư vọng! Sao có thể thấy Vô Thượng Bồ Đề?
Hơn nữa, trong kinh tự nói nhân duyên: “Hà dĩ cố? Hư không tướng tâm ly
chư vọng chấp, diệc vô phân biệt, do như hư không tất cánh tịnh pháp. Nhất
thiết sắc tượng vô năng nhiễm ô chi giả, tâm tánh diệc nhĩ, nhất thiết phân
biệt vô năng nhiễm ô chi giả” (Vì lẽ nào? Tâm có tướng như hư không
lìa các vọng chấp, cũng chẳng phân biệt, giống như hư không là pháp rốt ráo
thanh tịnh, hết thảy hình sắc chẳng thể nhiễm ô. Tâm tánh cũng thế, hết thảy
phân biệt chẳng thể nhiễm ô [tâm tánh]). Nếu vô phân biệt, tức là lìa hết thảy các tướng.
Kinh
dạy: “Sở dĩ giả hà? Tánh đồng hư không tức đồng ư tâm, tánh đồng ư tâm
tức đồng Bồ Đề. Như thị Bí Mật Chủ! Tâm, hư không giới, Bồ Đề, tam chủng vô
nhị. Thử đẳng Bi vi căn bản, Phương Tiện Ba La Mật mãn túc” (Vì
sao vậy? Tánh giống như hư không tức là giống như tâm, tánh giống như tâm tức
giống như Bồ Đề. Như thế đó, Bí Mật Chủ! Ba thứ tâm, hư không giới, và Bồ Đề
chẳng hai. Bi là căn bản của các thứ ấy, Phương Tiện Ba La Mật trang nghiêm trọn đủ): Nhập
các môn thanh tịnh như trên đều vì nêu tỏ ý nghĩa “tự tâm cầu Bồ Đề”. Nay
lại kết luận rằng hư không vô cấu chính là tâm, tâm tức là Bồ Đề, tướng vốn
là cùng một tướng, mà có ba tên gọi. Từ ngay nơi cái tâm pháp giới này, tuy
nhân duyên rốt ráo chẳng sanh, nhưng chẳng hoại nhân duyên Thật Tướng. Do bất
sanh, cho nên
chẳng có năng và sở sai khác. Do bất hoại, nên cũng lấy Bi làm căn bản, Phương Tiện
Ba La Mật trọn đủ, tức là ý nghĩa Trung Đạo rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh) Thị
cố Bí Mật Chủ! Ngã thuyết chư pháp như thị, linh bỉ chư Bồ Tát chúng Bồ Đề tâm
thanh tịnh, tri thức kỳ tâm. Bí Mật Chủ! Nhược tộc tánh nam, tộc tánh nữ dục
thức tri Bồ Đề, đương như thị thức tri tự tâm.
(經)是故祕密主!我說諸法如是,令彼諸菩薩眾菩提心清淨,知識其心。祕密主!若族姓男族姓女欲識知菩提,當如是識知自心。
(Kinh: Vì thế,
Bí Mật Chủ! Ta nói các pháp như thế, khiến cho Bồ Đề tâm của các Bồ Tát đó
thanh tịnh, hiểu biết cái tâm. Bí Mật Chủ! Nếu tộc tánh nam, tộc tánh nữ muốn
hiểu biết Bồ Đề, hãy nên hiểu biết tự tâm như thế).
Đức
Phật đã khai thị Bồ Đề thanh tịnh, nêu ra cốt lõi chánh yếu của ba câu xong, liền kết lại: Toàn bộ vô lượng phương tiện từ đầu đến cuối
đều nhằm khiến cho Bồ Đề tâm của các vị Bồ Tát thanh tịnh, nhận biết cái tâm
ấy. Giống như trong kinh này, hãy nên biết hết thảy Tu Đa La đều có cùng ý nghĩa này. Như
pháp do Thích Ca Như Lai đã nói, hãy nên biết các thứ pháp do mười phương ba
đời hết thảy Như Lai tùy thuận cơ nghi và nhân duyên đã nói, không gì chẳng
là ba câu pháp môn ấy, rốt ráo đồng quy về gốc, chẳng có đường lối nào khác! Vì
thế nói “ngã thuyết chư pháp như thị, nãi chí tri thức kỳ tâm” (ta
nói các pháp như thế… hiểu biết cái tâm).
(Kinh) Bí
Mật Chủ! Vân hà tự tri tâm? Vị nhược phần đoạn, hoặc hiển sắc, hoặc hình sắc,
hoặc cảnh giới, nhược sắc, nhược thọ, tưởng, hành, thức, nhược ngã, nhược ngã
sở, nhược năng chấp, nhược sở chấp, nhược thanh tịnh, nhược giới, nhược xứ, nãi
chí nhất thiết phần đoạn trung, cầu bất khả đắc.
(經)祕密主!云何自知心?謂若分段,或顯色、或形色、或境界,若色若受想行識,若我若我所,若能執若所執,若清淨若界若處,乃至一切分段中求不可得。
(Kinh: Này Bí Mật Chủ! Tự biết
cái tâm như thế nào? Tức là dù phần đoạn, hoặc hiển sắc, hoặc hình sắc, hoặc
cảnh giới, hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc ngã, hoặc ngã sở, hoặc
chủ thể chấp trước, hoặc đối tượng bị chấp trước, hoặc thanh tịnh, hoặc giới,
hoặc xứ, cho đến trong hết thảy các phần đoạn, đều chẳng thể cầu được).
Trong
phần trên, đức Thế Tôn đã rộng nói tướng như thật của Bồ Đề tâm thanh tịnh. Do chúng sanh chưa thể thấu hiểu ý, lãnh
ngộ, Ngài lại phương tiện nói môn đốn giác nhập Thật Tướng của Phật tâm này,
cũng vì quyết liễu[19] pháp
của mười phương ba đời hết thảy chư Phật. Như trong hết thảy các kinh, hoặc
nói “trong các Uẩn hòa hợp, ngã chẳng thể được”, hoặc
nói “các pháp sanh từ duyên đều không có tự tánh”, đều là các
môn lần lượt khơi mở Thật Tướng. Thật Tướng của các pháp được nói trong các
kinh ấy chính là Thật Tướng của cái tâm trong kinh này. “Thật Tướng của tâm” tức là Bồ Đề, trọn chẳng
có lý nào khác. Chỉ vì chúng sanh phước mỏng, chẳng thể tin chính mình sẽ thành
Phật, cho rằng “chính mình thành Phật” là chuyện rất khó đạt được. Vì thế, đức
Thế Tôn dạy họ lìa các cấu chướng, thủ hộ cái tâm, phải giữ sao cho thời và nghĩa khế hợp, sau
đấy mới nói ấn “tức tâm”. Nay kinh này chẳng phải vậy, thẳng
thừng dựa trên các pháp khiến cho họ biết cái tâm. Do vậy là tạng bí yếu! Câu
thứ nhất nói “dù là phần đoạn” tức là nêu chung “pháp sanh
từ nhân duyên”. Do pháp phải nhờ vào nhân duyên mới thành, ắt có tướng
sai biệt. Hành giả hãy nên biết quán sát như thế! Nay trong sự phần đoạn ấy, cái gì là tâm? Cho
đến phân tích, suy cầu, đều chẳng thể được! Tức là biết tâm này vượt ngoài các
tướng, lìa các nhân duyên. Do biết tâm tánh thường như thế, lúc bấy giờ, hết
thảy các pháp tự nhiên chẳng khác với tâm!
“Hiển
sắc” là xanh, vàng v.v… “Hình sắc” là như vuông, tròn
v.v… Cảnh giới, tức là cái đối ứng với sáu tình (sáu căn), tức sáu trần. Vì để
cho kẻ khác dễ hiểu, lại lần lượt quan sát các pháp. Nay trong các thứ hiển sắc
và hình sắc đó, gì là tâm? Sắc vốn chẳng phải là tình, chẳng có tướng hay biết,
huống là có tâm trong ấy để có thể đạt được ư? Giống như hiển sắc và hình sắc,
hãy nên biết hết thảy các sắc trần cũng như thế. Giống như sắc trần, cho đến
thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng đều như thế. Hành giả chẳng thể tìm được tâm
trong ngoại trần, lại quán Ngũ Uẩn trong nội thân cũng như bọt nước, bong bóng, ngọn lửa, cây chuối huyễn hóa, tự
cầu tánh thật [trong
ấy] còn chẳng thể được, huống hồ có được tâm trong đó ư? Như thế từ thô tới tế,
bỏ rộng theo lược, cho đến khi một niệm thức trong hiện tại cũng chẳng trụ. Lại
do từ các duyên mà sanh, tức Không, tức Giả, tức Trung, xa lìa hết thảy hý
luận, cho tới ngằn
mé vốn chẳng sanh. “Ngằn mé vốn chẳng sanh” chính là tự tánh
thanh tịnh tâm, tự tánh thanh tịnh tâm tức là môn chữ A. Do dùng tâm để nhập
môn chữ A, hãy nên biết hết thảy các pháp đều vào trong môn chữ A.
Đã
nói quán Thật Tướng của các pháp; kế
đó, nói về quán ngã
tướng, cho nên nói “nhược ngã, nhược ngã sở, nhược năng chấp, nhược sở
chấp, nhược thanh tịnh” (hoặc là ngã, hoặc là cái của ta, hoặc là chủ
thể chấp trước, hoặc là đối tượng bị chấp trước, hoặc thanh tịnh). Như trong
các Ấm thuộc phần trước, các thứ phương tiện quán tâm đều chẳng thể được, huống hồ
các pháp “ta, người, thọ giả” v.v… vốn chỉ có giả danh, trong ấy há có tâm để đạt được hay chăng? “Thanh
tịnh” tức là chỗ tối cực thanh tịnh mà ngoại đạo chấp trước, ngỡ đó là
Niết Bàn. Như Trường Trảo Phạm Chí chẳng thọ hết thảy các pháp, mà lại chấp nhận cách nhìn ấy. Nay
cũng giống như thế, do chấp trước trí huệ quán Không, mà sanh khởi ý tưởng ngỡ
là thanh tịnh ấy, liền từ trong tâm tưởng như thế để chánh quán tự tâm “chẳng
có chỗ sanh”, liền được nhập Bồ Đề tâm chân tịnh.
Trên
đây đã rộng đối ứng với Ngũ Ấm [để phá các chấp trước đối với ngã]; kế đó, lại nói mười tám giới, mười hai xứ,
cho đến trong hết thảy các phần đoạn đều chẳng thể cầu được. Ý nghĩa của Ấm, Giới, Nhập thì như trong A
Tỳ Đàm đã giảng cặn kẽ. Ba pháp ấy (Ấm, Giới, Xứ) đã thâu nhiếp hết thảy các pháp. Lại nói “nãi
chí nhất thiết phần đoạn trung, cầu bất khả đắc” (cho
đến trong hết thảy phần đoạn đều chẳng thể cầu được), tức là như trong kinh Ma Ha Bát Nhã đã lần lượt nói rộng các pháp. Như đối với Ấm,
Giới, Nhập mà phân tích, tìm cầu cái tâm, sẽ chẳng thể tìm được tâm. Hãy nên biết từ lục độ vạn hạnh, cho tới
trong hết thảy các môn tổng trì tam-muội, dùng đủ mọi cách cầu tâm, đều chẳng thể được. Do tâm chẳng thể được,
tướng thường, lạc, ngã, tịnh, hoặc tướng chẳng phải thường, lạc, ngã, tịnh
v.v… của cái tâm ấy cũng
giống như thế, đều là chẳng thể được!
Lại
nữa, như hàng Thanh Văn khi mới quán Ấm, Nhập, Giới, liền từ Ấm mà cầu ngã,
hoặc lìa Ấm để cầu ngã, đều chẳng thể được. Dùng cả hai cách, cũng đều chẳng thể được. Lúc ấy, từ
trong Bát Trực Đạo (Bát Chánh Đạo), viễn trần ly cấu, chánh pháp nhãn sanh khởi. Bồ
Tát trong Chân Ngôn Môn cũng giống như thế, khi mới quán Ấm, Giới, Nhập, do từ
Ấm mà cầu tâm, và lìa Ấm để cầu tâm đều không thể được, [vận dụng cả] đôi bên
cũng chẳng được, cho nên ngay lập tức liễu ngộ “ngằn mé bất sanh” của tự tâm, từ trong đại Bồ Đề đạo
thuộc tri kiến của Như Lai, viễn trần ly cấu, đắc pháp nhãn tịnh. Nếu chẳng tạo
phương tiện như thế, trước hết từ chấp vào nơi chốn để quán, chỉ nói là “tâm
trọn hết thảy mọi nơi, rốt ráo vô tướng”, chúng sanh sẽ chẳng thể do đâu mà
ngộ nhập. Hãy nên biết cách Quán này là một pháp môn bí yếu nhất. Như các Bồ Tát vận dụng
các phương tiện viễn ly khác, lần lượt tu tập Giới, Định, trí huệ trong vô
lượng kiếp, dùng đủ mọi môn để quán Nhân Không và Pháp Không, vẫn chưa thể xa
lìa hình bóng [của nhân pháp và ngã pháp] trong tâm. Nay hành giả Chân Ngôn
khi sơ phát tâm, quán thẳng vào Thật Tướng của tự tâm, biết rõ nó vốn bất sanh,
ngay lập tức các hý luận về nhân và pháp đều trừ sạch như hư không, thành tựu tự nhiên giác,
chẳng do điều gì khác mà giác ngộ. Hãy nên biết pháp quán này lại là đạo pháp
minh (hiểu rõ đạo, giác ngộ pháp), là pháp môn đốn ngộ vậy!
(Kinh) Bí
Mật Chủ! Thử Bồ Tát tịnh Bồ Đề tâm môn, danh sơ pháp minh đạo. Bồ Tát trụ thử
tu học, bất cửu cần khổ, tiện đắc Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội. Nhược đắc
thử giả, tắc dữ chư Phật, Bồ Tát đồng đẳng trụ, đương phát ngũ thần thông,
hoạch vô lượng ngữ ngôn âm đà-la-ni, tri chúng sanh tâm hạnh, chư Phật hộ trì,
tuy xử sanh tử, nhi vô nhiễm trước, vị pháp giới chúng sanh bất từ lao quyện,
thành tựu trụ vô vi giới, ly ư tà kiến, thông đạt chánh kiến.
(經)祕密主!此菩薩淨菩提心門,名初法明道。菩薩住此修學,不久勤苦,便得除一切蓋障三昧。若得此者,則與諸佛菩薩同等住,當發五神通,獲無量語言音陀羅尼,知眾生心行,諸佛護持。雖處生死而無染著,為法界眾生不辭勞倦,成就住無為戒,離於邪見通達正見。
(Kinh: Bí
Mật Chủ! Môn Bồ Đề tâm thanh tịnh của Bồ Tát này gọi là sơ pháp minh đạo. Bồ
Tát trụ vào đấy tu học, siêng khổ chẳng bao lâu, sẽ đắc Trừ Nhất Thiết Cái
Chướng tam-muội. Nếu đắc môn ấy, sẽ cùng trụ giống như chư Phật, Bồ Tát, sẽ
phát sanh năm món thần thông, đạt được vô lượng ngữ ngôn âm đà-la-ni, biết tâm
hạnh của chúng sanh, được chư Phật hộ trì, tuy ở trong sanh tử mà chẳng nhiễm
đắm, vì pháp giới chúng sanh chẳng nề hà mệt nhọc, thành tựu trụ trong vô vi
giới, lìa tà kiến, thông đạt chánh kiến).
Để
nhập trí huệ của Phật, có vô lượng môn
phương tiện; nay tông này dùng
ngay Bồ Đề tâm thanh tịnh làm môn. Nếu nhập môn này, tức là sơ nhập cảnh giới của hết thảy
Như Lai. Ví như [trong phẩm Nhập
Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm], ngài Di Lặc mở cửa lâu các, từ trong
đó, Thiện Tài thấy trọn vô lượng chuyện chẳng nghĩ bàn, khó thể diễn nói được,
chỉ có người nhập tự biết mà thôi!
“Pháp
minh”: Do giác ngộ “ngằn
mé bất sanh” của cái tâm, tâm ấy
tịnh trụ, sanh ra đại huệ quang minh, chiếu khắp vô lượng pháp tánh, thấy đạo
do chư Phật hành. Vì thế nói là “pháp minh đạo”. Khi Bồ Tát trụ
trong đạo ấy, tất cả phiền não nghiệp khổ sanh từ nhân duyên vọng tưởng thảy
đều trừ diệt thanh tịnh. Ví như có người ở trong chỗ tối, bị chất báu sắc bén
gây thương tổn, cho là rắn độc. Do nghĩ là độc, nên cái tâm chấp trước ấy liền
trở thành khí độc lan khắp chi thể. Khi người ấy sắp mạng chung, có lương y
chẩn đoán, hiểu rõ đầu đuôi, lập tức dẫn [kẻ đó] đến chỗ bị thương, dùng đèn
sáng để soi, vẫn thấy chất báu gây nên thương tổn hãy còn vết máu hoen ố. Người
ấy biết rõ chẳng phải là độc, độc khí cũng trừ, phân biệt vật đẹp đẽ đáng ưa chuộng mà sanh lòng vui sướng. Hành nhân
cũng lại giống như thế, do Bồ Đề tâm thanh tịnh chiếu sáng các pháp, tốn ít
công sức mà đạt được Trừ Cái Chướng tam-muội, thấy Thật Tướng của tám vạn bốn
ngàn phiền não thành tám vạn bốn ngàn môn khối báu. Vì thế, kế đó, kinh nói: “Bồ Tát trụ thử tu
học, bất cửu cần khổ, tiện đắc Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội” (Bồ
Tát trụ trong ấy tu học, siêng khổ chẳng bao lâu, liền đạt được Trừ Nhất Thiết
Cái Chướng tam-muội). Nếu đắc môn ấy, sẽ bình đẳng trụ cùng chư Phật Bồ Tát.
Trong ấy, có năm loại chướng:
-
Một là phiền não chướng, tức từ căn bản phiền não cho đến tám vạn bốn ngàn
thượng, trung, hạ phẩm chướng che lấp tịnh tâm, và do tập khí đã quen từ đời
trước, gây trở ngại đạo cơ (cơ duyên chứng đạo), chẳng nhập Phật pháp.
-
Hai là nghiệp chướng, tức là do trong đời quá khứ và hiện tại đã tạo các tội
nặng, cho đến báng bổ kinh Phương Đẳng, người ấy tuy có nhân duyên đắc đạo,
nhưng do nghiệp chướng cũ chưa trừ, bị các thứ gây chướng nạn, chẳng nhập Phật
pháp.
-
Ba là sanh chướng, tức là người đã được sanh vào chỗ thắng thượng, không hoạn
nạn, ắt sẽ ngộ đạo, nhưng do nghiệp trước mà thọ thân không rảnh rỗi, coi báo
sanh là chướng, chẳng nhập Phật pháp.
-
Bốn là pháp chướng, tức là người đã được sanh vào chỗ không chướng ngại, lại có
cơ duyên ngộ đạo, do đời trước đã từng có duyên gây chướng ngại pháp, bèn chẳng
gặp thiện hữu, chẳng nghe chánh pháp.
-
Năm là sở tri chướng, tức là người ấy đã gặp thiện tri thức, được nghe chánh
pháp, nhưng có các thứ nhân duyên khiến cho đôi bên chẳng hòa hợp, trở ngại tu
Bát Nhã Ba La Mật, như kinh Đại Phẩm [Bát Nhã] đã nói cặn kẽ về ma sự,
chắc là cũng
do đời trước đã từng cố ý khiến cho đạo cơ của người khác bị sai lệch, cho nên sanh ra món chướng này.
Hành
giả đã trừ sạch năm món gây chướng ngại cho tam-muội, lúc bấy giờ, trong tự tâm thường thấy diệu
tướng tĩnh lặng của mười phương hết thảy chư Phật như nhìn vào gương sáng, cho
đến đối với các oai nghi đi, lại, ngủ, thức, đều chẳng lìa nhân duyên [trông thấy] chúng
hội của chư Phật như thế. Khi đó, các vị
thánh thường dùng phương tiện thù thắng nhiệm mầu để khơi gợi tâm giác ngộ của
người ấy, dùng Phạm âm an ủi, khuyên dụ, khiến cho [người ấy] dứt trừ lưới
nghi. Hành giả vừa nghe liền tùy hỷ, ngộ nhập, lưới chướng liền trừ, chẳng lâu
sau sẽ thành tựu hết thảy Phật pháp. Vì thế nói: “Nếu đạt được môn
tam-muội này, sẽ bình đẳng trụ với Phật, Bồ Tát”. Hãy nên biết hành
nhân có địa vị giống như bậc Đại Giác. Do cái tâm tự giác mà được gọi là Phật,
nhưng chẳng phải là địa vị Đại
Mâu Ni diệu giác rốt ráo. Ví như mặt trăng thanh tịnh, bản thể tuy chẳng tăng,
giảm, nhưng cũng rõ ràng là dần dần tăng, cho tới ngày Rằm thì mới có thể ảnh
hưởng đến thủy triều nơi biển cả.
Lại
nữa, hành giả do cùng trụ bình đẳng với Như Lai, tức là có thể dùng sức phương tiện khởi
năm món thần thông, chẳng động bổn tâm mà dạo các cõi Phật, hiện các thứ thân,
ngữ, ý, dấy lên các thứ mây cúng dường, dùng vô tận đại nguyện để rộng tu
các Độ (Ba La Mật). Lại do ý căn thanh tịnh; kế đó, đắc
Giải Vô Lượng Ngữ Ngôn Âm Thanh Đà-la-ni, như ba mươi sáu câu-chi đường [thọ
sanh] trong thế gian, tùy theo chủng loại, căn tánh của họ là thượng, trung, hạ, đối
với bao nhiêu phong tục, ngôn ngữ địa phương, mỗi mỗi đều sai biệt, đều hiểu rõ
chỉ thú, đáng nên dùng âm thanh theo từng loại [để thuyết pháp giáo hóa họ]. Như trong một thế giới, hết thảy các thế
giới cũng đều là như thế. Trong bản tiếng Phạn, Rô Đa (Ruta) là tiếng lớn, La Vĩ Đa (Ravita) là tiếng nhỏ, Niết
Cù Sam (Dīrghāghoṣa) là “âm dài”,
lại còn có nghĩa là “nhiều âm”. Do vậy, nói đầy đủ, muốn hiển thị cảnh
giới tổng trì, không gì chẳng hiểu rõ, đối với ngôn ngữ của phương này (Trung
Hoa), khó thể phiên dịch trọn hết. Do đắc đà-la-ni, nên có thể biết tâm hạnh
của hết thảy chúng sanh, tức là chúng sanh như thế này sân hạnh đặc biệt nhiều,
nhưng tánh tham mỏng ít, hoặc chúng sanh như thế kia tánh tham đặc biệt nhiều,
mà tánh sân mỏng ít. Cho đến tướng “thông, tắc” vô lượng sai
biệt, như phần Đạo Chủng Trí trong Thích Luận đã nói cặn kẽ. Vị Bồ Tát ấy không
chỉ là biết bằng ý căn, mà thậm chí [các giác quan để] thấy, nghe, ngửi, chạm, cũng đều có thể dùng lẫn nhau vô ngại. Lại
có thể quán căn duyên của họ để trừ cái chướng cho họ, dùng đủ mọi phương tiện
để thành thục chúng sanh, trang nghiêm cõi Phật, hành Như Lai sự. Hãy nên biết
hành giả Chân Ngôn thậm chí có thể hoàn thành ngay trong một đời.
Lại
nữa, các công đức như đã nói trên, hết thảy chúng sanh thảy đều đúng như bổn
tánh mà bình đẳng cùng có. Chỉ vì vô minh chướng lấp nên chẳng tự biết rõ, chưa
thể khởi phát sức thần thông bí mật như thế. Nay các Bồ Tát tu hành Chân Ngôn
môn này, do thấy pháp, hiểu rõ đạo,
ngay trong đời này đạt được Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội. Do đắc môn
tam-muội ấy, có thể cùng ở với chư Phật, Bồ Tát, phát khởi năm món thần thông.
Do năm thần thông, nên
đắc Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn đà-la-ni. Do đạt được môn đà-la-ni ấy, có thể biết
tâm hạnh của hết thảy chúng sanh để làm Phật sự. Do có thể rộng làm Phật sự,
chẳng đoạn dòng giống Như Lai, cho nên trong hết thảy thời, hết thảy chỗ,
thường được mười phương chư Phật hộ trì. Giống như trẻ thơ vừa mới sanh ra, cha
mẹ cưng chiều, thường chẳng lìa bỏ. Hãy nên biết các câu như thế, đều theo thứ
tự mà giải thích lẫn nhau.
Lại
nữa, hành giả do bên trong có đủ công đức như trên, ngoài thì được chư Phật hộ
trì. Vì thế, ở trong sanh tử mà chẳng đắm nhiễm, giống như hoa sen nổi vượt
khỏi mặt nước, chẳng bị bùn lầy nhuốm bẩn. Thường dùng phương tiện Tứ Nhiếp để
dẹp khổ cho chúng sanh, cho đến trong vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp thường ở
trong địa ngục Vô Gián, thân tâm tinh tấn, hừng
hực chẳng ngơi, chẳng lui sụt, chẳng nài mệt nhọc. Vì cớ sao? Tánh của Bồ Đề
tâm thanh tịnh vốn sẵn như kim cang. Tánh cực kiên cố như thế chẳng do thầy mà
đạt được! Trụ trong vô vi giới, vô cấu, vô trược, chẳng thể phá hoại, tổn
thương. Giới trong tiếng Phạn là Thi La (Śīla), có nghĩa là “trong
trẻo, mát lạnh”. Ví như tánh nước thường lạnh, dẫu gặp nhân duyên củi
lửa bèn có thể nấu nát nhừ các vật, nhưng tự tánh của nó trọn chẳng thể đổi
dời. Nếu rút củi, dập lửa, tự nhiên nước sẽ trong mát như cũ. Hành giả Chân
Ngôn cũng giống như thế, khi đạt được Trừ Cái Chướng tam-muội, bổn tánh của cái
tâm chính là Thi La, chẳng phải
là pháp tạo tác, chẳng do gì khác mà đạt được. Vì thế nói là “trụ vô vi
giới”. Như tịnh giới của Thanh Văn phải do bạch tứ yết-ma[20] và
các duyên trọn đủ thì mới sanh khởi, lại cần phải phương tiện thủ hộ như ngăn
ngừa gai nhọn, tới khi tuổi thọ của một đời người đã hết, giới ấy cũng mất theo. Còn giới ở đây chẳng phải là như thế, đời đời
kiếp kiếp thường cùng sanh theo, chẳng cần phải thọ trì, thường chẳng bị mất
mát, vi phạm. Lại do trụ trong giới ấy, thật trí sáng thêm, được thấy duyên
khởi Trung Đạo rất sâu chẳng thể nghĩ bàn, ngăn chặn tám món điên đảo, xa lìa
nhị biên. Vì thế, tiếp đó, kinh nói: “Viễn ly tà kiến, thông đạt chánh
kiến” (xa lìa tà kiến, thông đạt chánh kiến). [Trong kinh Pháp Hoa],
ngài Ca Diếp cũng nói: “Tự thử dĩ tiền, ngã đẳng giai danh tà kiến nhân
“ (từ trước đến nay, chúng con đều đáng gọi là kẻ tà kiến). Do huệ
trong ấy bất chánh, nên nói là “tà kiến”.
(Kinh) Phục thứ Bí Mật Chủ! Trụ
thử Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát, tín giải lực cố, bất cửu cần tu, mãn túc
nhất thiết Phật pháp. Bí Mật Chủ! Dĩ yếu ngôn chi, thị thiện nam tử, thiện nữ
nhân vô lượng công đức giai đắc thành tựu.
(經)復次祕密主!住此除一切蓋障菩薩,信解力故,不久勤修,滿足一切佛法。祕密主!以要言之,是善男子善女人,無量功德皆得成就。
(Kinh: Lại
nữa, Bí Mật Chủ! Vị Bồ Tát trụ trong Trừ Nhất Thiết Cái Chướng này, do sức tín
giải, siêng tu chẳng bao lâu, sẽ viên mãn hết thảy Phật pháp. Bí Mật Chủ! Nói
tóm lại, thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy vô lượng công đức đều được thành tựu).
Do
phàm phu và Nhị Thừa chẳng thể quyết trạch, biết chánh đáng Thật Tướng của tự
tâm, đối với lý đế thật, thậm chí đối với Không mà nói là chẳng Không, đối với
chẳng Không mà nói là Không, chẳng thấy con đường đại Bồ Đề do chư Phật đã hành. Nay các vị Bồ Tát này,
do chiếu kiến cái tâm, hiểu rõ đạo, ngay lập tức vô ngại trí phát sanh. Trong hết thảy các pháp, thảy đều hiện tiền thông đạt, chẳng
sai lệch, giống như người sáng mắt do ánh sáng mặt trời mà thấy các thứ sắc.
Tuy vô lượng thiên ma đều hóa thành thân Phật, đều nói tương tự Ba La Mật, trọn
chẳng thể lay động chút phần lưới nghi trong tâm họ. Vì thế, kinh nói: “Phục
thứ Bí Mật Chủ! Trụ thử Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát tín giải lực cố, bất
cửu cần tu, mãn túc nhất thiết Phật pháp” (Lại này Bí Mật Chủ! Bồ Tát
trụ trong tam-muội Trừ Nhất Thiết Cái Chướng ấy, do sức tín giải, siêng tu
chẳng bao lâu, sẽ trọn đủ hết thảy Phật pháp). Do chánh kiến như thế ví như Kim
Cang, tức là sức tín giải kiên trì tối thượng, nương theo đó mà tấn tu Như Thật
Xảo Độ, cho nên đạt được Chư Phật Lực Vô Sở Úy Giải Thoát tam-muội, và vô lượng
Phật pháp khác thảy đều thành tựu. Ngài Long Thọ bảo: Ví như người nung luyện, dùng các thứ phương
tiện để làm tan chảy khoáng thạch, sau đó thành vàng. Giống như người có thần
thông, có thể khiến cho các loài đất, gỗ đều thành chất vàng. Vì thế nói “siêng
tu chẳng bao lâu, liền được viên mãn hết thảy Phật pháp”. Do vậy, Bồ
Tát khi mới phát tâm, liền được gọi là Phật. Công đức chân thật không thể đo
lường, giả sử Như Lai trong vô lượng vô biên A-tăng-kỳ phân biệt diễn nói, vẫn
chẳng thể cùng tận!
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ phục dĩ kệ vấn Phật: - Vân hà Thế Tôn thuyết,
thử tâm Bồ Đề sanh? Phục dĩ vân hà tướng, tri phát Bồ Đề tâm? Nguyện thức tâm,
tâm thắng, tự nhiên trí sanh thuyết, Đại Cần Dũng kỷ hà, thứ đệ tâm tục sanh.
Tâm chư tướng dữ thời, nguyện Phật quảng khai diễn. Công đức tụ diệc nhiên, cập
bỉ hành tu hạnh, tâm tâm hữu thù dị, duy Đại Mâu Ni thuyết.
(經)爾時執金剛祕密主復以偈問佛:云何世尊說,此心菩提生?復以云何相知發菩提心?願識心心勝,自然智生說,大勤勇幾何,次第心續生,心諸相與時,願佛廣開演。功德聚亦然,及彼行修行,心心有殊異,惟大牟尼說。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ lại dùng kệ hỏi đức Phật: - Cớ sao Thế Tôn nói, tâm
này Bồ Đề sanh? Lại do tướng thế nào, biết phát Bồ Đề tâm? Nguyện nói về thức
tâm, tâm Thật Tướng thù thắng, tự nhiên trí sanh khởi. Thưa đấng Đại Cần Dũng,
tâm tiếp nối sanh khởi, theo thứ tự thế nào? Các tâm tướng và thời, nguyện Phật
rộng khai diễn. Khối công đức cũng thế, và hành hạnh tu hành, mỗi tâm đều mỗi
khác, mong Đại Mâu Ni nói).
Như
trong phần trên, đức Phật đã nói ý chỉ đại cương của bộ kinh này, môn Thật
Tướng của cái tâm đã được [nêu bày] đại lược trọn vẹn. Khi đó, ngài Kim Cang
Thủ vì khiến cho chúng sanh trong vị lai sẽ được trọn đủ phương tiện, chẳng còn nghi
nữa, nên dùng kệ để hỏi đức Phật, thỉnh cầu đức Thế Tôn rộng diễn nghĩa ấy.
Trong ấy, đại lược có chín câu hỏi. “Vân hà Thế Tôn thuyết, thử tâm Bồ
Đề sanh?” (Vì sao đức Thế Tôn nói, Bồ Đề sanh từ cái tâm này?) tức là
[thắc mắc chuyện làm thế nào để] sanh khởi Bồ Đề tâm. Trong các kinh như Hoa
Nghiêm [chẳng hạn],
đã tán thán cặn kẽ công đức phát Bồ Đề tâm; nay
ở đây, hỏi thẳng về mật ấn của tâm. Làm thế nào để biết rõ chủng tử Bồ Đề phát
sanh từ tâm này? Nếu đã phát sanh thì tánh của nó là như thế nào?
Câu
thứ hai: “Phục dĩ vân hà tướng, tri phát Bồ Đề tâm?” (lại do
tướng như thế nào mà biết là phát Bồ Đề tâm): “Tướng” là do
tánh đã thành tựu bên trong, ắt sẽ có tướng biểu lộ ra ngoài, như trong Bát Nhã
đã nói cặn kẽ tướng mạo của A-tỳ-bạt-trí (Avaivarti, bất thoái chuyển), nay ở
đây cũng hỏi “tâm Bồ Đề đã sanh thì có tướng mạo gì?”
Kinh
nói “nguyện thức tâm, tâm thắng, tự nhiên trí sanh thuyết” (Nguyện
nói về thức tâm, tâm Thật Tướng thù thắng, tự nhiên trí sanh khởi): Đúng như
thật tán thán công đức của Phật, xin Ngài hãy phô diễn ý nghĩa của hai câu
trước đó. Đầu tiên nói đến “thức tâm” tức là cái trí tự giác
trong tâm. Kế đó lại nói “tâm” tức là Thật Tướng của cái tâm.
Ý nói: Cảnh và trí đều diệu, chẳng hai, chẳng khác, cho nên lặp lại. “Tự
nhiên trí” là thường trí của Như Lai, chỉ là tâm tự chứng tâm, chẳng
do ai khác mà ngộ! Ý nói: Phật đã là người hiểu cái tâm bậc nhất, ắt có thể biết
Bồ Đề tâm phát sanh và tướng vi tế của nó, kính mong đức Phật hãy
nói.
Câu
thứ ba “Đại Cần Dũng kỷ hà, thứ đệ tâm tục sanh” (Thưa đấng
Đại Cần Dũng, tâm tiếp nối sanh khởi, theo thứ tự thế nào?): Đại Cần Dũng (bậc
siêng năng mạnh mẽ to lớn) chính là tên gọi khác của đức Phật. Tán thán phẩm
đức rồi lại thưa hỏi: “Do có mấy tâm theo thứ tự mà đạt được cái tâm ấy?”
Câu
thứ tư và câu thứ năm là “tâm chư tướng dữ thời, nguyện Phật quảng khai
diễn “ (các tướng tâm và thời, nguyện Phật rộng khai diễn), nhằm hỏi
về các tướng sai biệt của tâm và sự thắng tấn (tiến cao hơn) liên tục, phải
trải qua bao lâu thì mới
rốt ráo đạt được Bồ Đề tâm thanh tịnh?
Câu
thứ sáu “công đức tụ diệc nhiên” (khối công đức cũng thế), nói
về công đức vi diệu của cái tâm này, cũng mong đức Thế Tôn sẽ rộng khai diễn.
Vì thế nói “diệc nhiên” (cũng thế).
Câu
thứ bảy là “cập bỉ hành tu hạnh” (và hành hạnh tu đó), tức là
kế đó, hỏi nên dùng hạnh nào? Tu hành như thế nào để có đạt được Vô Thượng Tất
Địa (thành tựu vô thượng)? Cũng có thể chia đoạn này thành hai câu.
Câu
thứ tám và câu thứ chín “tâm tâm hữu thù dị, duy Đại Mâu Ni
thuyết” (mỗi tâm mỗi khác biệt, mong Đại Mâu Ni nói), tức là cũng mong
đức Thế Tôn nói cặn kẽ về tâm thức dị thục của chúng sanh và tâm thức đặc biệt
khác lạ của hành giả Du Già. Mâu Ni có nghĩa là Tịch Mặc, ý nói: Thân, ngữ, tâm
của đức Phật đều rốt ráo tịch diệt, vượt ngoài khả năng diễn tả của ngôn ngữ.
Do sự tịch diệt nhỏ nhoi của Tiểu Thừa chẳng thể sánh ví, cho nên nói là Đại Mâu
Ni.
[Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Chín
câu như thế hoặc có thể chia thành mười câu. Từ đây trở đi cho đến hết kinh,
đều mang ý nghĩa Như Lai đối ứng chín câu hỏi ấy mà nói phân biệt cặn kẽ. Nhưng
đức Phật quán chúng hội thuở ấy, chú trọng khiến cho họ lãnh hội ý, tìm cầu
điều cốt lõi, cho nên có thể là đáp trước, hỏi sau, kinh văn không có tiêu
chuẩn nhất định. Kế đó, hoặc chuyển thành sanh khởi nghi vấn để [giải đáp] cùng
tận các chi tiết. Như kinh văn trong phần sau nói về nhập Đại Bi Tạng Mạn-đồ-la
v.v… tức là trả lời câu hỏi về tu hành. Phần nói về cái quả gồm một trăm chữ
v.v… chính là giải đáp câu hỏi về tâm đặc biệt khác lạ và công đức. Các đoạn
khác đều có chỗ tương ứng (tức là nhằm giải đáp các nghi vấn), đều có thể theo từng loại
mà xét, ý nghĩa dễ thấy”.
(Kinh) Như
thị thuyết dĩ, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Kim Cang Thủ ngôn: - Thiện tai
Phật chân tử, quảng đại tâm lợi ích, thắng thượng Đại Thừa cú, tâm tục sanh chi
tướng, chư Phật đại bí mật, ngoại đạo bất năng thức. Ngã kim tất khai thị, nhất
tâm ưng đế thính.
(經)如是說已,摩訶毘盧遮那世尊告金剛手言:善哉佛真子,廣大心利益。勝上大乘句,心續生之相,諸佛大祕密, 外道不能識;我今悉開示,一心應諦聽。
(Kinh: Nói như thế xong, đức Ma
Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ rằng: - Lành thay, Phật chân tử! Tâm
lợi ích rộng lớn, câu Đại Thừa thắng thượng, tướng tâm liên tục sanh, chư Phật
bí mật lớn, ngoại đạo chẳng thể biết. Ta nay đều chỉ bày, nên nhất tâm lắng
nghe).
Kế
đó, trong phần kệ giải đáp cho Kim Cang Thủ của Như Lai, “thiện tai
Phật chân tử, quảng đại tâm lợi ích” (lành thay, Phật chân tử! Tâm lợi
ích rộng lớn): Do sanh từ chủng tánh của Như Lai, do sanh từ thân, ngữ, tâm của
Phật, nên gọi là “chân tử” (con thật sự). Như trong phần
trước, Đại Nhật Thế Tôn hiện cảnh giới gia trì rộng lớn, nay Bí Mật Chủ cũng
muốn vì trọn khắp vô lượng chúng sanh đáng độ như thế, khiến cho họ nhanh chóng
thành tựu đại hạnh, xé rách lưới nghi to lớn, cùng đạt được ba câu bình đẳng vô
tận trang nghiêm, cho nên đức Phật tán thán rằng: “Lành thay Phật tử!
Nay ông có thể dùng cái tâm rộng lớn để tạo lợi ích cho vô lượng chúng sanh, mà
thốt ra lời hỏi như thế”.
Tiếp
đó, Ngài nói: “Thắng thượng Đại Thừa cú, tâm tục sanh chi tướng, chư
Phật đại bí mật, ngoại đạo bất năng thức “ (Câu Đại Thừa thắng thượng,
tướng liên tục sanh của tâm, là bí mật to lớn của chư Phật, ngoại đạo chẳng thể
biết). Nói đại lược thì do có bảy nghĩa nên gọi là Đại Thừa:
-
Một, do pháp to lớn, tức là tạng bí mật rộng lớn rất sâu của chư Phật được bậc đại nhân là Tỳ Lô Giá
Na trọn khắp hết thảy mọi nơi vận dụng.
-
Hai, do phát tâm to lớn, tức là một mực dốc
chí mong cầu đại huệ bình đẳng, khởi bi nguyện vô tận, thề sẽ truyền trao trọn
khắp pháp giới chúng sanh.
-
Ba, do tín giải to lớn, tức là khi mới thấy tâm, hiểu đạo, trọn đủ vô lượng
công đức, có thể tới trọn khắp các cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, dùng đại
sự nhân duyên thành tựu chúng sanh.
-
Bốn, do tánh to lớn, tức là tự tánh thanh tịnh tâm kim cang bảo tạng chẳng hề
khuyết giảm, hết thảy chúng sanh đều bình đẳng cùng có.
-
Năm, do y chỉ to lớn, tức là diệu thừa như thế chính là chỗ y chỉ to lớn của
pháp giới chúng sanh, giống như trăm sông đổ vào biển, cỏ cây nương vào đất mà
sanh.
-
Sáu, do thời to lớn, tức là thọ lượng dài lâu vượt ngoài ba thời (quá khứ, hiện
tại, vị lai), tác dụng sư tử phấn tấn bí mật thần thông chưa từng ngưng nghỉ.
-
Bảy, do trí to lớn, tức là do các pháp vô biên, tự tâm giống như hư không, tự
nhiên diệu huệ cũng lại là vô biên, cùng tột nguồn cội Thật Tướng, ví như nắp
khít với hộp.
Do
bảy nhân duyên như thế, trong các pháp môn, Đại Thừa giống như đề hồ thuần vị
bậc nhất. Vì thế gọi là “Đại
Thừa tối thắng”. Thừa là “tiến nhập”, Cú là “chỗ ngưng nghỉ”. Vì thế nói là “Đại
Thừa cú” (câu Đại Thừa). “Tâm tục sanh chi tướng” (tướng
sanh liên tục nơi tâm): Tuy tâm ấy rốt ráo thường tịnh, ví như hư không lìa hết
thảy các tướng, cũng từ nhân duyên dấy lên mà có tâm tướng sanh ra. Ví như sóng
mòi trong biển cả, chẳng phải là thường có, mà cũng chẳng phải là thường không.
Nếu là thường có, chẳng nên khi gió lặng, sóng bèn ngưng lặng, yên tĩnh. Nếu là
thường không, chẳng nên gió mạnh vừa thổi, biển sẽ liên tục sóng trào. Hãy nên biết tâm thuận
theo duyên mà khởi, tức là chẳng sanh mà sanh,
sanh mà chẳng sanh, là tướng vô tướng, tướng thường vô tướng, rất sâu vi diệu,
khó thể biết rõ. Ấn bí mật của chư Phật chẳng thể tuyên bày bừa bãi; vì thế,
hai loại phàm phu và ngoại đạo không chỉ chẳng biết “tâm vô sanh diệt”, mà cũng chẳng biết tâm sanh diệt. Vì
thế nói: “Chư Phật đại bí mật, ngoại đạo bất năng thức. Ngã kim tất
khai thị, nhất tâm ưng đế thính” (Đại bí mật của chư Phật, ngoại đạo
chẳng thể biết, ta nay đều chỉ bày, hãy nhất tâm lắng nghe).
(Kinh) Việt
bách lục thập tâm, sanh quảng đại công đức. Kỳ tánh thường kiên cố, tri bỉ Bồ
Đề sanh, vô lượng như hư không, bất nhiễm ô thường trụ. Chư pháp bất năng động,
bổn lai tịch vô tướng, vô lượng trí thành tựu, Chánh Đẳng Giác hiển hiện, cúng
dường hành tu hạnh, tùng thị sơ phát tâm.
(經)越百六十心,生廣大功德,其性常堅固,知彼菩提生。無量如虛空,不染污常住,諸法不能動,本來寂無相。無量智成就,正等覺顯現,供養行修行,從是初發心。
(Kinh: Vượt trăm sáu mươi tâm,
sanh công đức rộng lớn. Tánh luôn thường kiên cố, nhận biết Bồ Đề sanh, vô lượng
như hư không, chẳng nhiễm ô thường trụ. Các pháp chẳng thể động, vốn sẵn tịch,
vô tướng, vô lượng trí thành tựu, Chánh Đẳng Giác hiển hiện, cúng dường tu hành
hạnh, từ đấy sơ phát tâm).
Bài
kệ kế tiếp nói: “Việt bách lục thập tâm, sanh quảng đại công đức, kỳ
tánh thường kiên cố, tri bỉ Bồ Đề sanh” (Vượt trăm sáu mươi tâm, sanh
công đức rộng lớn, tánh nó thường kiên cố, biết là Bồ Đề sanh) nhằm giải đáp
câu hỏi thứ nhất: “Vì sao biết là Bồ Đề tâm đã sanh?” Nay đức
Phật bảo rằng: “Vượt ngoài một trăm sáu mươi cái tâm liên tục thì chính là Bồ
Đề tâm thanh tịnh”. Như có người hỏi: “Vì
sao biết là đề hồ sanh từ sữa này?” Đáp rằng: Nếu các tướng thô trược, đổi khác
của sữa, lạc, sanh tô, và thục tô đều đã thuần nhất, chẳng còn cặn nhơ, sẽ biết
là đề hồ đã sanh. Hành giả thoạt đầu khi khai phát tạng báu kim cang, thấy tâm
tánh thanh tịnh như hư không, vượt ngoài số lượng; khi đó, lìa nghiệp sanh bởi
cái nhân, cây Phật nẩy mầm. Khi cái mầm ấy đã sanh, sẽ trọn khắp pháp giới,
huống hồ lá, hoa, quả? Vì thế nói là “sanh quảng đại công đức” (sanh
công đức rộng lớn). Do vượt ngoài hý luận nơi tâm hạnh, sẽ chẳng thể phá, chẳng
thể chuyển, giống như vàng Diêm Phù Đàn, chẳng thể nói lỗi ác (khuyết điểm) của
nó được! Vì thế nói “kỳ tánh thường kiên cố” (tánh nó thường
kiên cố). Nếu biết tự tâm có ấn như thế, hãy nên biết đó là Bồ Đề sanh.
Kế
đó là một bài kệ rưỡi, giải đáp đại lược tướng mạo của Bồ Đề tâm. Do thế gian
trọn chẳng có pháp nào để có thể biểu thị tướng của Bồ Đề tâm thanh tịnh, chỉ
trừ đại hư không có chút phần tương tự, nên nói “vô lượng như hư không”. Thí
như hư không chẳng bị khói, mây, bụi bặm, sương mù ô nhiễm, tánh nó thường trụ,
lìa các nhân duyên. Giả sử gió to từ tám phương thổi cùng tận thế giới, vẫn chẳng thể lay động [hư không]
được! Từ bổn sơ cho tới nay, nó thường tự tịch diệt, vô tướng, chẳng phải đến
nay mới vậy! Tâm tướng cũng thế, từ vô thỉ tới nay vốn tự bất sanh. Do vốn bất
sanh, chẳng có một pháp nào có thể ô nhiễm, dao động. Nó thường trụ, bất biến, vĩnh viễn tịch
tĩnh, vô tướng. Vì thế nói: “Chẳng ô nhiễm, thường trụ, các pháp chẳng
thể động, vốn tịch tĩnh, vô tướng”. Lúc bấy giờ, hành nhân do được
tịch quang ấy chiếu soi, vô lượng tri kiến tự nhiên khai phát, như hoa sen nở
xòe. Vì thế nói “vô lượng trí thành tựu”. Trí ấy thành tựu
chính là Tỳ Lô Giá Na tâm Phật hiện tiền. Do vậy nói “Chánh Đẳng Giác
hiển hiện”. Bản tiếng Phạn ghi là “Tam Miệu Tam Phật Đà Bồ Đề
hiện”. Đức Phật đã nói đại lược ấn Thật Tướng của cái tâm như thế, nếu
hành giả tương ứng với nó, hãy nên biết là đã trọn đủ tín lực kiên cố. Nhưng
tín lực ấy, vốn do đúng như lời dạy mà tu hành nghi quỹ hành pháp cúng dường
trong Chân Ngôn môn, đạt được Bồ Đề tâm thanh tịnh, cho nên nói: “Cúng
dường hành tu hạnh,
tùng thị sơ phát tâm “ (cúng dường, hành hạnh tu hành, từ đấy sơ phát
tâm). Nhưng sự cúng dường ấy có hai thứ: Một là ngoại cúng dường, hai là nội
cúng dường, trong kinh văn
thuộc phần
sau sẽ nói [chi tiết hơn].
Có
lẽ sẽ có người nói rằng: “Chỉ quán tâm tánh vô tướng, vô vi, chẳng nên dùng các
thứ hành động lăng xăng để hành Bồ Tát đạo!” Cách nói ấy không đúng! Như dùng
bốn loại bất sanh để quán tánh của vàng trong quặng. Tuy dù là nhân hay quả,
[tánh của vàng] đều là thường tự “chẳng giảm, chẳng tăng”, nhưng nếu chẳng dùng
phương tiện để tiêu trừ chất cặn nhơ, sẽ chẳng có cách nào đạt được chất vàng
bất sanh ấy! Hành nhân cũng giống như thế, nếu chẳng dùng ba loại phương tiện
hạnh môn bí mật cúng dường để tiêu trừ chất nhơ “một trăm sáu mươi
tâm” nơi khoáng thạch, sẽ do gì mà đạt được Bồ Đề tâm thanh tịnh?
Trong Trung Đạo Chánh Quán của
Long Thọ A-xà-lê, [Ngài đã
nói] chính
là do từ duyên khởi mà nghĩa Vô Sanh được thành, nhưng quý vị cho rằng “lông
rùa, sừng thỏ là Vô Sanh” sẽ phạm lỗi! Lại như người đời thấy vàng
ròng tinh luyện trăm lần chẳng thay đổi, ngỡ đó là diệu tánh cùng cực. Nhưng
ngũ thông tiên nhân dùng các thứ dược vật, đủ cách nung luyện, sẽ có thể hóa
các thứ như đất, đá v.v… đều thành chất vàng báu. Nếu có ai ăn vào, sẽ thọ dài
lâu, thần thông biến hóa không ngằn mé! Hãy nên biết trong tánh chân thật của
vàng, luôn có lực dụng như thế, nhưng người đời do chẳng có phương tiện bí mật,
chẳng thể đạt được như thế! Bồ Đề tâm thanh tịnh cũng lại như thế: Nếu dùng đại
bi vạn hạnh nung luyện đủ mọi cách, sẽ thành tựu nghiệp thần biến gia trì chẳng
thể nghĩ bàn! Vì thế, chớ nên chưa đắc mà nói là đã đắc, giữ khư khư sơ tâm,
ngỡ đó là cực quả!
(Kinh) Bí
Mật Chủ! Vô thỉ sanh tử ngu đồng phàm phu chấp trước ngã danh, ngã hữu, phân
biệt vô lượng ngã phần. Bí Mật Chủ! Nhược bỉ bất quán ngã chi tự tánh, tắc ngã,
ngã sở sanh. Dư phục kế hữu thời, địa đẳng biến hóa. Du Già ngã kiến lập tịnh,
bất kiến lập vô tịnh, nhược Tự Tại Thiên, nhược lưu xuất cập thời, nhược tôn
quý, nhược tự nhiên, nhược nội ngã, nhược nhân lượng, nhược biến nghiêm, nhược
thọ giả, nhược Bổ Đặc Già La, nhược thức, nhược A Lại Da, tri giả, kiến giả,
năng chấp, sở chấp, nội tri, ngoại tri, Xã Đát Phạm, Ma Nô Xà, Ma Nạp Bà,
Thường Định Sanh, thanh, phi thanh.
(經)祕密主!無始生死愚童凡夫執著我名我有,分別無量我分。祕密主!若彼不觀我之自性,則我我所生。餘復計有時地等變化,瑜伽我建立淨、不建立無淨,若自在天、若流出及時、若尊貴、若自然、若內我、若人量、若遍嚴、若壽者、若補特伽羅、若識、若阿賴耶、知者見者、能執所執、內知外知、社怛梵、摩奴闍、摩納婆、常定生、聲非聲。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Phàm phu ngu muội như trẻ nhỏ sanh tử từ vô
thỉ chấp trước danh xưng Ta, ta có, phân biệt vô lượng
điều thuộc về ngã. Bí Mật Chủ! Nếu họ chẳng quán tự tánh của ngã, thì ngã và
ngã sở (cái thuộc về ta) sẽ sanh ra. Ngoài ra còn chấp trước có thời, địa v.v…
biến hóa, Du Già ngã, kiến lập tịnh, chẳng kiến lập vô tịnh, hoặc [chấp trước
ngã là] Tự Tại Thiên, hoặc ngã là lưu xuất và thời, hoặc là tôn quý, hoặc
[cho rằng các
pháp là] tự nhiên, hoặc là chấp nội ngã, chấp [ngã có] phân lượng tùy thuộc
thân người, hoặc chấp ngã trang nghiêm trọn khắp, hoặc chấp ngã là thọ giả, chấp ngã là Bổ Đặc Già La, hoặc chấp ngã là
thức, hoặc chấp ngã là A Lại Da, hoặc là cái có thể biết, có thể thấy, là cái
có thể chấp trước, hoặc là cái bị chấp trước, nội tri (nhận biết các pháp trong
thân tâm), ngoại tri (nhận biết ngoại cảnh), là Xã Đát Phạm, Ma Nô Xà, Ma Nạp
Bà, Thường Định Sanh, là âm thanh, hoặc chẳng phải âm thanh).
Kế
đó, giải đáp ý nghĩa “tâm tương tục”. Muốn giảng rõ nguyên do sanh khởi tối sơ
của tịnh tâm, trước hết bèn nói về cái tâm trái nghịch lý của phàm phu giống
như trẻ nít ngu muội! Đối với “vô thỉ sanh tử”, Trí Độ Luận
nói: “Thế gian dù chúng sanh hay pháp, đều chẳng có khởi đầu”. Trong
kinh, đức Phật dạy: - Vô minh phú ái sở hệ, vãng lai sanh tử, thỉ
bất khả đắc, nãi chí Bồ Tát quán vô thỉ diệc Không, nhi bất đọa hữu thỉ kiến trung” (Vô minh che lấp, ái ràng buộc, qua
lại sanh tử, chẳng thể tìm được chỗ khởi đầu, cho đến Bồ Tát quán vô thỉ cũng
là Không, chẳng đọa trong
kiến chấp có khởi đầu). Từ ngữ “ngu đồng” (trẻ nít ngu muội)
như trong phần trên đã nói. Từ ngữ “phàm phu” dịch sát nghĩa
thì phải là “dị sanh”, ý nói: Do vô minh bèn theo nghiệp thọ
báo, chẳng được tự tại, đọa trong đủ mọi đường, hình dạng, sắc tâm mỗi mỗi đều
sai khác. Vì thế nói là “dị sanh”. Cái Ngã được chấp trước ấy
chỉ là ngôn ngữ, chẳng có sự thật; vì thế nói là “chấp trước ngã
danh”. Nói “ngã hữu” (ta có) tức là “ngã sở” (cái
thuộc về ta). Đối với cái Ngã như thế, các điều chấp trước bởi ngã, như mười
sáu món tri kiến v.v… theo từng sự mà sai biệt vô lượng bất đồng; do vậy, gọi
là “phần”.
Kế
đó, giải thích nguyên do của phân biệt hư vọng, cho nên nói: “Bí Mật
Chủ! Nhược bỉ bất quán ngã chi tự tánh, tắc ngã, ngã sở sanh” (Bí Mật
Chủ! Nếu họ chẳng quán tự tánh của ngã, thì ngã và ngã sở sẽ nẩy sanh). Nếu
họ quan sát các Uẩn thảy đều từ các duyên mà sanh, trong ấy gì là ngã? Ngã trụ
ở chỗ nào? Chính là ở nơi uẩn khác với uẩn tướng ư? Nếu có thể tìm cầu kỹ
càng, cặn kẽ như thế, sẽ đắc chánh nhãn. Nhưng họ chẳng tự quan sát, chỉ lần
lượt truyền bảo nhau, từ lâu xa đến nay đã quen vâng theo cách nhìn ấy, cho
rằng Ngã ở trong thân, có thể tạo tác và trưởng dưỡng, thành tựu các căn, [chấp
chặt rằng]: “Chỉ có như thế mới
là đạo rốt
ráo, những điều khác đều là vọng ngữ!” Do
bởi lẽ này, họ được gọi là “ngu đồng” (trẻ nít ngu muội).
Kinh
nói “phục kế hữu thời” (lại chấp trước có thời gian), ý nói: Hết thảy các thứ tốt
xấu trong trời đất đều lấy thời làm nhân. Như có bài kệ rằng: “Thời lai
chúng sanh thục, thời chí tắc thôi xúc, thời năng giác ngộ nhân, thị cố thời vi
nhân” (thời đến [căn cơ của] chúng sanh sẽ chín muồi, thời tới liền thúc giục,
thời có thể giác ngộ con người, vì thế thời làm nhân). Cũng có kẻ nói: “Tuy hết
thảy người và vật chẳng phải do thời tạo ra, nhưng thời là cái nhân bất biến,
là pháp thật sự có, do vi tế nên chẳng thể thấy. Do có cái quả như hoa, trái
v.v… mà có thể biết là có thời. Vì lẽ nào? Do thấy quả, liền biết là có nhân. Do thời pháp
bất hoại, nên nó là thường”.
Đó cũng là do chẳng quán tự tánh của Thời mà sanh chấp trước hư vọng như thế.
Kinh
nói “địa đẳng biến hóa” (các thứ như đất, nước v.v… biến hóa),
tức là đối với đất, nước, lửa, gió, hư không, mỗi mỗi đều chấp là chân thật.
Hoặc nói đất là cái nhân của vạn vật, do hết thảy chúng sanh và vạn vật nương
vào đất mà sanh thành. Do chẳng quán tự tánh của đất chỉ từ các duyên hòa hợp
mà có, nên sanh ra kiến chấp ấy,
tưởng rằng “cúng dường đất, sẽ được giải thoát”. Kế đó, có người chấp nước có thể sanh ra
vạn vật, đối với gió và lửa cũng thế. Hoặc chấp “vạn vật sanh từ hư không”, cho rằng hư không là nhân của sự giải
thoát thật sự, phải nên cúng dường, thừa sự. [Đối với mỗi loại kiến chấp như
thế], đều
phải nên nói rộng [như trong phần biện định về kiến chấp đối với đất].
Kinh
nói “Du Già ngã” tức là nói về người học Định chấp trước “lý
tương ứng với nội tâm là chân ngã. Chân tánh lặng trong, thường trụ bất động. Chỉ có điều này mới là
đạo rốt ráo lìa khỏi nhân quả”. Do chẳng quán tự tánh của tự tâm, mới sanh kiến
chấp như thế, ngỡ đó là chân ngã, [khăng khăng cho rằng] chỉ trụ trong lý ấy
thì gọi là giải thoát!
Kinh
nói “kiến lập tịnh, bất kiến lập vô tịnh” (kiến lập tịnh, chẳng kiến lập vô tịnh) tức
là trong ấy có hai thứ so đo:
-
Câu trước có ý nói kiến lập hết thảy các pháp, nương vào đó tu hành thì gọi
là “tịnh”.
-
Câu sau ý nói “kiến lập pháp chẳng rốt
ráo”. Nếu chẳng kiến
lập cái được gọi là “vô
vi” thì gọi là chân
ngã, cũng tức lìa khỏi cái “tịnh” được tu tập trong câu trước, cho nên nói
là “bất tịnh”.
Đó
cũng là do chẳng quán tự tánh của ngã, mà sanh kiến giải như thế, nói rộng thì
như trong phần trên.
Kinh
nói “nhược Tự Tại Thiên, nhược lưu xuất cập thời” (hoặc chấp
Tự Tại Thiên là chân ngã, hoặc chấp lưu xuất và thời [là chân ngã]), ý nói: Có
một loại ngoại đạo chấp
trước Tự Tại Thiên là thường, là đấng tự tại có thể sanh ra vạn vật. Như trong
Thập Nhị Môn Luận gạn
rằng: “Nếu chúng sanh là con của Tự Tại Thiên, [Tự Tại Thiên] sẽ
chỉ nên dùng lạc để ngăn chặn khổ [cho chúng sanh], chẳng nên ban cho khổ,
và cũng phải là chỉ cần cúng dường Tự Tại Thiên thì sẽ diệt khổ, được vui.
Nhưng thật ra chẳng phải vậy, chỉ do chính mình tự tạo nhân duyên khổ lạc mà tự
thọ báo, chẳng phải do Tự Tại Thiên tạo ra. Lại nữa, nếu Tự Tại Thiên tạo ra
chúng sanh, ai sẽ lại tạo ra Tự Tại Thiên? Nếu Tự Tại Thiên tự tạo thì chẳng
đúng, như các vật chẳng thể tự tạo. Nếu lại có người tạo ra [Tự Tại Thiên] thì [vị trời ấy] chẳng phải là Tự Tại
nữa!” Như
luận ấy đã nói cặn kẽ [để đả phá kiến chấp ấy]. Chấp trước “lưu xuất” đại
lược giống như [chấp trước] kiến lập. “Kiến lập” là do tâm mà tạo thành hết thảy các pháp,
còn “lưu xuất” ở đây thì giống như do sức thực hiện mà xuất hiện
hết thảy các pháp. Ví như thợ gốm nặn đắp không ngừng mà sanh ra đủ loại hình tướng sai biệt. Kế đó nói
về “thời”, sai khác chút ít với “thời” được ngoại
đạo đề cao, chấp trước trong phần trên. [Để đả [phá các kiến chấp này, đều có
thể luận định] giống như [phần bác bỏ kiến chấp về] Đại Tự Tại Thiên.
Kinh
nói “tôn quý”, đó là nói về Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa, tức thần Viṣṇu). Ngoại đạo chấp
trước vị trời này tĩnh lặng, thường trụ, bất động, nhưng có kẻ phù tá, tạo
thành muôn vật, ví như vị quốc vương “vô vi nhi trị”, quan lại
vâng mạng mà hành xử. Do [ngoại đạo tin vị trời này] là vị chủ tể có thể tạo
tác, không ai tôn quý hơn được, nên gọi là “tôn quý”. Lại nữa,
trong loại kiến chấp đề cao này, “tôn quý” bao gồm trọn khắp
đất, nước, gió, lửa, hư không. Xưa kia, có vị luận sư muốn khuất phục kẻ chấp
trước, đề cao kiểu
này, bèn đến
miếu thờ vị trời ấy, ngồi trên thân của tượng vị trời ấy mà ăn uống. Phương Tây (Ấn
Độ) coi thức ăn còn sót lại là thứ bất tịnh nhất, [các tín đồ] đều cùng phẫn nộ. Luận sư nói: “Đấng được các vị tôn sùng
há chẳng phải là trọn
khắp các tướng
đất, nước, gió, lửa, hư không ư?” Họ đáp: “Đúng như vậy”. Luận sư nói: “Ngài
chính là đất, nước, gió, lửa, tôi cũng như thế. Nhập vào lẫn nhau, có gì chẳng
thể mà lại phẫn nộ vậy?” Bọn họ nín lặng, chẳng thể đáp gì được nữa! [Kiến chấp
ấy] cũng do chẳng quán tự tánh của ngã, cho nên sanh ra chấp trước hư vọng như
thế.
Kinh
nói “tự nhiên”, tức là có một loại ngoại đạo chấp trước “hết
thảy các pháp đều tự nhiên mà có, chẳng có người tạo tác”. Như hoa sen sanh ra
màu sắc tươi sạch là do ai nhuộm màu? Gai góc nhọn đầu, do ai vạt đẽo? Vì thế
biết các pháp đều tự như thế. Có vị thầy vặn rằng: “Nay mắt thấy người
đời tạo tác các thứ tàu, thuyền, nhà cửa v.v… đều từ các duyên mà có, chẳng do
tự nhiên mà thành, sao lại nói tự sẵn như thế? Nếu bảo là ‘tuy có, nhưng chưa
rõ ràng, cho nên cần phải có sức người phát khởi’ thì cũng chẳng
đúng! Đã cần sức người phát khởi, tức là [được tạo thành] bởi các duyên, chẳng
phải là tự nhiên mà có!”
Kinh
nói “nội ngã” tức là có kẻ chấp trong thân, ngoài tâm ra, còn
có riêng một ngã tánh, có thể vận động cái thân này, tạo tác các sự nghiệp. Vặn rằng: “Nếu là như thế, ngã tức
là vô thường. Vì sao vậy?
Nếu pháp là nhân và từ nhân mà sanh, thì đều là vô thường. Nếu ngã vô thường,
thì tội phước, quả báo thảy đều đoạn diệt”. Các luận nghĩa như thế tới phần So
Lường sẽ nói cặn kẽ!
Kinh
nói “nhân lượng” tức là nói về kẻ chấp trước lượng của thần
ngã to bằng thân người. Thân nhỏ thì [thần ngã] cũng nhỏ, thân lớn thì thần ngã
cũng lớn. Trí Độ Luận nói: “Có kẻ chấp trước thần ngã lớn hay nhỏ tùy
theo thân người, lúc chết đi thì thần ngã cũng xuất ra trước”, tức là
tương đồng với chấp trước ở đây. Nhưng bọn họ đề cao ngã là pháp tự tại thường
trụ, nay đã tùy theo cái thân mà lớn hay nhỏ, tức [ngã kiểu đó] là vô thường.
Vì thế biết chẳng đúng!
Kinh
nói “biến nghiêm” (trang nghiêm trọn khắp) tức là nói về kẻ chấp trước “thần ngã có thể tạo các pháp, nhưng các sự trong thế gian được trang
nghiêm tôn quý, thù thắng trọn khắp là do ngã tạo ra”, cũng chỉ hơi khác đôi chút với kiến
chấp về Tự
Tại Thiên! Như trong luận đã phá [chấp trước về] Tự Tại Thiên rằng: “Vì
sao Tự Tại Thiên chẳng khiến cho con người đều vui hết, hoặc đều khổ hết, mà có
kẻ khổ, người vui? Hãy nên biết đó là do yêu ghét mà sanh, nên chẳng tự tại”. Nay [chấp rằng] “trang nghiêm trọn khắp”, [vậy thì thần ngã] đã có thể tạo ra
các phước lạc, nhưng chẳng thể dùng lạc để ngăn khổ, sao có thể gọi là “tự
tại trọn khắp” cho được?
Kinh
nói “nhược thọ” (hoặc chấp vào thọ mạng) tức là có ngoại đạo
chấp trước: “Hết
thảy các pháp cho đến Tứ Đại, cỏ cây v.v… đều có thọ mạng. Như cỏ cây chặt rồi
lại mọc, hãy nên biết là có mạng. Lại nữa, cỏ cây ban đêm bèn khép cuộn [lá],
cũng nên biết chúng cũng có tình thức, do chúng ngủ nghê vậy”. Vặn rằng: “Nếu thấy đẵn chặt rồi lại mọc, cho là
[thảo mộc] có mạng. Con người hễ bị chặt một chi, sẽ chẳng mọc lại nữa, há có phải là
vô mạng ư? Như [cho rằng] cây xếp lá ban tối là có ngủ nghê, vậy thì nước chảy
suốt đêm há là thường thức giấc ư?” Đều do chẳng quán tự tánh của ngã,
cho nên nẩy sanh đủ mọi kiến chấp hư vọng!
Kinh
nói Bổ Đặc Già La (Pudgala), tức là có kẻ chấp trước cho rằng “hễ có Sổ Thủ Thú
Giả[21] thì
đều là một ngã, chỉ là tùy theo sự việc mà tên gọi khác nhau. Nếu có từ
kiếp này sanh sang đời sau, tức thức thần là thường”. [Vặn rằng]: Nếu thức thần
là thường, sao lại có
tử sanh? Tử là từ chỗ này diệt, sanh là xuất hiện tại chỗ kia, cho nên chẳng
thể nói thần thức là thường được! Nếu là vô thường thì sẽ chẳng có ngã. Như người
theo bộ phái Độc Tử[22] và
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ trong Phật pháp, hai bộ phái ấy chấp có pháp tam thế.
Nếu chắc chắn có quá khứ, vị lai và hiện tại, thì sẽ giống như kẻ [chấp trước]
Sổ Thủ Thú Giả [là thường hằng], đánh mất ba loại pháp ấn của Phật. Các vị Bồ Tát ở phương
Tây đã lập ra các thứ lượng luận để phá các chấp trước ấy!
Kinh
nói “nhược thức” là nói có kẻ chấp trước “thức trọn khắp hết
thảy mọi nơi, cho đến đất, nước, lửa, gió, hư không giới, thức đều trọn khắp
trong đó”. Điều này cũng chẳng đúng. Nếu thức thần thường hằng, trọn khắp,
nó có thể tự mình thấy, nghe, hay, biết; nhưng nay cần phải do căn và trần hòa
hợp thì mới có thức sanh, tức là thần thức của ông vô dụng! Lại nữa, nếu thức
thần trọn khắp trong năm đường, sao lại có sống chết vậy? Vì thế, biết chẳng
phải là như thế!
Kinh
nói “A Lại Da” tức là có nghĩa “chấp trì, chứa đựng”, mà
cũng có nghĩa là “phòng ở”. Có kẻ đề xướng “A Lại Da có thể duy trì cái thân
này, có thể tạo tác, chứa đựng muôn vàn hình tượng, thâu lại thì chẳng có gì,
tỏa ra thì đầy ắp thế gian”, chẳng giống ý nghĩa của thức thứ tám trong Phật pháp. Nhưng
đối với mật ý của đức Thế Tôn nói “Như Lai Tạng là A Lại Da”, nếu
trong Phật pháp mà chẳng quán Thật Tướng của tự tâm, cứ phân biệt, chấp trước
thì cũng giống như ngã kiến vậy!
Kinh
nói “tri giả, kiến giả” tức là nói có ngoại đạo chấp “trong thân có cái thấy, cái biết, có thể
biết các chuyện khổ, lạc v.v…” Lại
có kẻ chấp “cái có thể thấy thì chính là chân ngã”. Luận Trí Độ nói: “Mắt
thấy sắc là thấy, năm thức nhận biết là biết, đều chấp đó là ngã, tùy theo sự
việc mà có tên gọi khác nhau”. Vặn rằng: “Ông nói ‘có thể
thấy’ là ngã, vậy thì có thể nghe, có thể chạm, có thể biết, có phải là ngã hay
không? Nếu đều là ngã, cảnh giới của sáu căn chẳng hề biết lẫn nhau. Một chẳng
thể thành sáu, sáu chẳng thể gộp thành một. Nếu có phi ngã thì cũng ngờ giống như thế. Vì thế
biết: Do căn và trần hòa hợp mà có cái được thấy biết, chẳng phải là có một cái
ngã khác nữa!”
Kinh
nói “năng chấp, sở chấp” tức là có ngoại đạo nói: “Trong thân,
ngoài thức tâm, riêng có một cái
có thể chấp, đó chính là chân ngã, có thể vận động thân, khẩu, ý, tạo tác các sự nghiệp”. Hoặc có kẻ
nói: “Cái có thể chấp chỉ là thức tâm, cảnh giới được chấp mới là chân ngã. Cái
ngã ấy trọn khắp hết thảy mọi nơi”. Nhưng “trong, ngoài, thân, thọ, tâm, pháp”,
tánh của chúng đều do duyên sanh, chẳng có tự tánh. Năng chấp và sở chấp trong
ấy còn chẳng thể chấp, huống hồ có ngã ư? Cũng do chẳng quán tự tánh của ngã
nên nói như thế.
Kinh
nói “nội tri, ngoại tri” cũng chính tên khác của “tri giả” (có
thể biết) mà chia thành hai thứ chấp trước:
-
Có kẻ chấp nội tri là ngã, tức trong thân riêng có cái nội chứng, đó là chân
ngã.
-
Hoặc coi ngoại tri là ngã, tức là cái có thể biết cảnh giới ngoại trần chính là
chân ngã.
Kinh
nói Xã Đát Phạm (Jatāvat) tức là gần giống như ngoại đạo chấp
trước tri giả, chỉ là do bộ phái nên khác biệt. Vì thế, đặc biệt nêu ra
đó thôi.
Kinh
nói “nhược Ma Nô Xà” (hoặc chấp Ma Nô Xà, Mānusa), Trí Độ Luận dịch là Nhân, tức là chấp
trước về con người, nếu dịch đầy đủ phải là Nhân Sanh. Đây là một bộ phái ngoại
đạo tôn sùng Tự Tại Thiên, chấp trước con người do con người sanh ra, cho nên
lấy đó làm tên. Đường Tam Tạng dịch thành Ý Sanh, chẳng đúng. Mạt Na (Manas) là
Ý; ở
đây nói Mạt Nô, âm thanh khác thì nghĩa cũng khác, do lầm lẫn [mà dịch như
thế]!
Kinh
nói “Ma Nạp Bà” (Mānava), tức
là thuộc bộ loại ngoại đạo tôn sùng Tỳ Nữu Thiên, dịch nghĩa chánh xác thì phải
là Thắng Ngã, ý nói “ngã thù thắng nhiệm mầu
nhất trong thân tâm”. Họ thường quán trong
tâm, ngã to chừng một tấc. Trí Độ Luận cũng nói: “Có kẻ chấp thần ngã ở
trong tâm, vi tế bằng hạt cải, thanh tịnh nên gọi là tịnh sắc, hoặc to bằng hạt
đậu, hạt lúa mạch, cho đến chừng một tấc. Khi mới thọ thân, liền thọ ngã
trước hết, ví như khung đỡ của cái tượng vậy. Tới khi thành thân, như tượng đã
được trang hoàng”. Đường Tam Tạng dịch là Nho Đồng (儒童) cũng
là sai. Nho Đồng trong tiếng Phạn là Ma Noa Bà,
ở đây là Nạp, nghĩa khác hẳn, lầm mất rồi! (Hai danh hiệu này đều do Bồ Đề
xà-lê (ngài Kim Cang Trí) giảng).
Kinh
nói “thường định sanh” tức ngoại đạo chấp ngã là thường trụ,
chẳng thể phá hoại, tự nhiên thường sanh, chẳng có lại sanh nữa; cho nên lấy đó làm
tên. Kinh nói “thanh, phi thanh”, Thanh tức
là Thanh Luận ngoại đạo. Nếu âm thanh hiển hiện, họ chấp Thể của âm thanh vốn
sẵn có, đợi duyên bèn hiển lộ, thể tánh thường trụ. Nếu thanh sanh khởi thì
chấp thanh vốn sanh sẵn, đợi duyên mới sanh (hiển hiện), đã sanh bèn thường
trụ. Bọn họ lại tự chia thành chấp trước khác biệt, như các kinh luận khác đã
nói rộng. “Phi thanh” khác với chấp trước trên đây. Loại trước thì chấp thanh là
thường hằng, trọn khắp, còn loại này đề xướng, bác bỏ thanh là không có, đọa
vào [tà kiến] “chẳng có pháp thiện hay ác”, cũng coi “chẳng có âm thanh hay từ
ngữ” là chân thật.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị đẳng
ngã phần, tự tích dĩ lai, phân biệt tương ứng, hy cầu thuận lý giải thoát. Bí
Mật Chủ! Ngu đồng phàm phu loại do như đê dương, hoặc thời hữu nhất pháp tưởng
sanh, sở vị trì trai, bỉ tư duy thử thiểu phần, phát khởi hoan hỷ, sổ sổ tu
tập. Bí Mật Chủ! Thị sơ chủng tử thiện nghiệp phát sanh. Phục dĩ thử vi nhân, ư lục
trai nhật, thí dữ phụ mẫu, nam nữ thân thích, thị đệ nhị nha chủng. Phục dĩ thử
thí thọ dữ phi thân thức giả, thị đệ tam pháo chủng. Phục dĩ thử thí dữ khí
lượng cao đức giả, thị đệ tứ diệp chủng. Phục dĩ thử thí hoan hỷ, thọ dữ kỹ
nhạc nhân đẳng, cập hiến tôn túc, thị đệ ngũ phu hoa. Phục dĩ thử thí phát thân
ái tâm, nhi
cúng dường chi, thị đệ lục thành quả. Phục thứ Bí Mật Chủ! Bỉ hộ giới sanh
thiên, thị đệ thất thọ dụng chủng tử.
(經)祕密主!如是等我分,自昔以來分別相應,希求順理解脫。祕密主!愚童凡夫類猶如羝羊,或時有一法想生,所謂持齋。彼思惟此少分,發起歡喜,數數修習。祕密主!是初種子善業發生,復以此為因,於六齋日施與父母男女親戚,是第二牙種。復以此施授與非親識者,是第三疱種。復以此施與器量高德者,是第四葉種。復以此施歡喜授與伎樂人等及獻尊宿,是第五敷華。復以此施發親愛心而供養之,是第六成果。復次祕密主!彼護戒生天,是第七受用種子。
(Kinh: Bí
Mật Chủ! Các thứ kiến chấp thuộc về ngã như thế từ xưa tới nay, phân biệt tương
ứng, mong cầu thuận lý giải thoát. Bí Mật Chủ! Phàm phu như trẻ nhỏ ngu muội giống
như con dê đực, hoặc là có nẩy sanh một pháp suy tưởng, tức là trì trai. Họ tư
duy pháp ấy chút phần, phát khởi hoan hỷ, nhiều lượt tu tập. Bí Mật Chủ!
Đó là chủng tử thiện nghiệp ban sơ phát sanh. Lại dùng đấy làm nhân, trong sáu
ngày trai, bố thí cho cha mẹ, nam nữ thân thích. Đó là thuộc loại thứ hai, tức nẩy mầm. Lại dùng đó để thí cho
người chẳng phải là thân thích, quen biết, đó là loại thứ ba, tức nứt vỏ. Lại dùng đó
để thí cho bậc có khí lượng cao cả, đức hạnh, thì đó là loại thứ tư, tức mọc lá. Lại dùng đó để thí cho
người hoan hỷ, tấu nhạc v.v…và dâng lên bậc tôn túc, thì là loại thứ năm, tức trổ hoa. Lại dùng đó để thí cho
người mà [chính mình] phát sanh tâm thân ái cúng dường, đấy là loại thứ sáu,
tức kết quả. Lại này Bí Mật Chủ! Người giữ giới ấy sanh lên trời, tức là loại
thứ bảy: Thọ dụng chủng tử).
Trong
kinh, nêu đại lược ba mươi sự, nếu [luận định cặn kẽ] theo từng loại sai biệt,
ắt có vô lượng vô biên. Như người tĩnh tọa đắc Tứ Thiền, bèn chấp trước pháp ấy
là thường lý chân thật, hoặc nẩy sanh ý niệm: “Ta là người đắc Thiền”. [Các chấp trước]
như thế đều tương ứng với ngã phần, cứ theo đó mà suy, đều do chẳng quán Thật
Tướng của ngã. Chỉ do từ lâu xa tới nay đã quen vâng theo kiến chấp ấy, ai nấy đều tự nói
là “có bậc đại sư Bạc Già
Phạm, thấy biết hết thảy, do khéo tu Du Già mà
nay giác ngộ pháp ấy, bèn vì thế gian mà nói. Chỉ có đạo này là rốt ráo, chẳng
có đạo nào khác nữa!” Như lúc kiếp sơ,
riêng có một vị trời sanh trước hết vào Phạm giới (các tầng trời thuộc Phạm
thiên), bèn nghĩ thế này: “Nếu có chúng sanh nào khác đến ở cùng ta, chẳng phải
là tốt lắm ư?” Khi đó, có các vị trời ở cõi trên mạng chung, sanh vào cõi trời
ấy. Vị đã sanh trước bèn bảo họ: “Do niệm lực của ta, ngươi được sanh vào nơi
đây. Ngươi chính là do ta sanh ra”. Nhưng các vị trời kia cũng nghĩ thế này:
“Vị này có thể sanh ra chúng ta”, liền tùy thuận, chấp là tối sơ có ngã. Từ đó
trở đi, cho rằng Phạm
thiên vương có thể tạo ra thế gian, lần lượt như thế sanh ra dị kiến, không thể
ghi trọn. “Hy cầu thuận lý giải thoát”: Thuận lý theo âm tiếng Phạn
là Du Kỳ (Yogi),
tức là hành giả tu Du Già xưa kia, cho rằng người ấy đạt được chân giải thoát,
là cốt lõi của vạn vật. Nay thuận theo đó để mong cầu giải thoát, cho nên nói
như thế.
Trên
đây đều nhằm phá hoại các tâm trái nghịch lý đối với nhân quả trong và ngoài.
Kế đó, nói đến cái tâm thuận lý tối sơ. Thuận thiện (điều thiện thuận theo
chánh lý) tức là tám cái tâm của thế gian.
Kinh
nói “Bí Mật Chủ! Ngu đồng phàm phu loại do đê dương, hoặc thời hữu nhất
pháp tưởng sanh, sở vị trì trai, bỉ tư duy thử thiểu phần, phát khởi hoan hỷ,
sổ sổ tu tập. Bí Mật Chủ! Thị sơ chủng tử thiện nghiệp phát sanh” (Bí
Mật Chủ! Phàm phu như trẻ nít ngu muội, giống
như con dê đực có thể là có lúc
nẩy sanh một pháp, tức là trì trai. Họ tư duy pháp ấy đôi chút, phát khởi hoan
hỷ, nhiều lượt tu tập. Bí Mật Chủ! Đó chính là chủng tử thiện nghiệp ban đầu
phát sanh). “Đê dương” (羝羊, con
dê đực) là loài súc sanh có bẩm tánh hèn kém nhất, chỉ nghĩ tới cỏ, nước, và
chuyện dâm dục, ngoài ra chẳng biết
gì nữa! Vì
thế, thuận theo cách nói của phương Tây (Ấn Độ), dùng nó để sánh ví “ngu đồng phàm phu” (phàm phu như trẻ nít ngu muội) chẳng biết thiện ác
nhân quả. Thế gian từ lâu xa tới nay đã lần lượt truyền thừa danh tự thiện pháp,
nhưng do cái tâm trái lý, dẫu đủ cách truy cầu mà vẫn chẳng thể đạt được. Sau đó, bỗng dưng nẩy
sanh ý niệm: “Ta nay bớt ăn, trì trai”, tức là thiện pháp, nhưng vẫn chưa phải
là Bát Quan Trai Giới trong Phật pháp. Họ do bớt ăn, tự răn dè, cảm thấy duyên
vụ giảm ít, khiến cho ta ăn uống dễ no đủ, chẳng sanh tâm nhọc nhằn truy cầu.
Lúc bấy giờ, họ liền sanh chút phần tâm chẳng chấp trước, cõi lòng hoan hỷ, đạt
được an ổn. Do thấy lợi ích ấy, bèn nhiều lượt tu tập, tức là thoạt ban sơ, hơi
biết thiện ác nhân quả. Vì thế gọi là “chủng tử tâm”.
Kinh
nói “phục dĩ thử vi nhân, ư lục trai nhật, thí dữ phụ mẫu, nam nữ thân thích, thị đệ nhị
nha chủng” (Lại
dùng điều ấy làm nhân, trong sáu ngày trai, thí cho cha mẹ và nam nữ thân thích, đó là loại
thứ hai, tức nẩy mầm). “Lục
trai nhật” tức là như Trí Độ Luận nói: “Ngũ thông tiên nhân
thuở trước khuyên nhịn ăn trong những ngày đó, vừa thuận theo thiện pháp, lại
tránh khỏi quỷ thần gây tai ương bất ngờ”, như trong luận ấy đã nói
cặn kẽ! Do thấy ngưng dứt tham cầu, trong tâm đạt được lợi lạc, muốn tu tập
pháp ấy cho được tăng trưởng, trong ngày trì trai bèn xả tài vật của chính mình
để thí cho lục thân, tự nghĩ: “Ta chẳng còn lo âu gìn giữ, khiến cho người khác
yêu kính, đạt được tiếng thơm hiếu nghĩa”. Do thấy nhân quả ấy, sanh ra hoan
hỷ, thiện tâm tăng thêm đôi chút, giống như từ hạt giống nẩy mầm vậy.
Kinh
dạy: “Phục dĩ thử thí thọ dữ phi thân thức giả, thị đệ tam pháo
chủng” (lại dùng các thứ ấy để thí cho người chẳng phải thân thích, quen
biết. Đó là loại thứ ba, tức nứt vỏ), ý nói
muốn thành tựu thiện pháp mà vâng giữ trai giới ấy, bèn tu tập tâm vô
tham, huệ xả. Do nhiều lượt tu tập, thiện tâm dần dần tăng trưởng, lại có thể
thí cho người chẳng phải là thân thuộc, quen biết. Do thấy lợi ích công đức của
tâm bố thí bình đẳng, lúc bấy giờ, mầm thiện lại tăng rộng gấp bội, giống
như khi nhánh
mầm tươi tốt, nhưng chưa sanh trưởng.
Vì thế gọi là “pháo chủng”.
Kinh
dạy “phục dĩ thử thí dữ khí lượng cao đức giả, thị đệ tứ diệp
chủng” (lại
dùng đó để thí cho bậc độ lượng, cao đức, tức là loại thứ tư, tức mọc lá), nghĩa là đã
có thể tu tập huệ xả, nhờ vào cái nhân ấy, dần dần có thể thật sự chọn lựa cảnh
bố thí: “Người như thế đức hạnh cao thắng, ta nay hãy nên thân cận để cúng
dường”, tức là huệ tánh dần dần mở mang, dần dần gặp thiện tri thức vậy!
Kinh
dạy “phục dĩ thử thí, hoan hỷ thọ dữ kỹ nhạc nhân đẳng cập hiến tôn
túc” (lại dùng sự bố thí ấy, hoan hỷ trao cho người tấu nhạc v.v… và
dâng hiến bậc tôn túc), tức là huệ tánh dần dần mở mang, lại soi xét, biện định cảnh để thí, thấy
lợi ích do lợi tha, vì người
tấu nhạc có thể khuyến hóa đại chúng, nhằm khiến cho họ hoan hỷ, bèn thưởng công cho họ. Phàm các loại
như thế nhiều lắm, cho nên nói là “đẳng”. Bậc tôn túc kỳ cựu, học rộng nghe nhiều, học
hạnh cao thượng, xứng làm bậc thầy khuôn mẫu cho cõi đời, do có nhiều lợi ích
đáng tuân phụng, bèn thúc giục cái
tâm hoan hỷ bố thí, cũng do điều này khiến cho khi ta bố thí, tâm sanh hoan hỷ
gấp bội. Đấy chính là loại “đơm hoa”.
Kinh
nói “phục dĩ thử thí, phát thân ái tâm, nhi cúng dường chi, thị đệ lục thành
quả” (Lại
dùng sự bố thí ấy, phát sanh tâm thân ái để cúng dường, đó là loại thứ sáu, tức
kết thành quả): Tu tập thuần thục, không chỉ là hoan hỷ mà thôi, lại còn có thể
dùng cái tâm thân ái để tôn kính, thực hiện bố thí cho người khác. Lại do nhân
duyên bố thí trước đó, được nghe lợi ích bởi pháp, biết người ấy vốn sẵn có đức
thù thắng, tức là có thể thoát lìa dục v.v… bèn thân cận để cúng dường. So với
chủng tử ban đầu thì đây chính là cái tâm đã kết quả.
“Phục
thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ hộ giới sanh thiên, thị đệ thất thọ dụng chủng tử” (Lại
nữa, Bí Mật Chủ! Người thủ hộ giới ấy sanh lên trời, tức là loại thứ bảy, thọ
dụng chủng tử), tức là đã có thể trì trai, bố thí, thấy lợi ích đó, liền biết
tam nghiệp bất thiện đều là nhân duyên gây suy não, ta hãy nên bỏ đi, trụ trong
việc thủ hộ giới. Do thủ hộ giới, đời này đạt được các thiện lợi, có tiếng tốt
to lớn, thân tâm an lạc, hiền thiện tăng trưởng gấp bội. Mạng chung, được sanh
lên trời. Ví như trồng quả đã thành công, bèn hưởng thụ kết quả; vì thế gọi
là “thọ dụng chủng tử”. Lại nói từ một hạt giống mà sanh thành
trăm ngàn quả, hạt; mỗi quả, hạt lại sanh ra ngần đó [quả, hạt], lần lượt vun
bồi chẳng thể kể xiết. Cái tâm thọ dụng quả trong hiện thời lại thành chủng tử
cho tâm sau cũng giống như
thế.
Vì thế nói là “thọ dụng chủng tử”.
(Kinh) Phục
thứ, Bí
Mật Chủ! Dĩ thử tâm sanh tử lưu chuyển, ư thiện hữu sở, văn như thị ngôn: ‘Thử
thị thiên đại thiên, năng dữ nhất thiết lạc giả. Nhược kiền thành cúng dường,
nhất thiết sở nguyện giai mãn, sở vị Tự Tại Thiên, Phạm Thiên, Na La Diên
Thiên, Thương Yết La Thiên, Hắc Thiên, Tự Tại Tử Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt
Thiên, Long Tôn đẳng, cập Câu Phệ Lạm, Tỳ Sa Môn, Thích Ca, Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Thủ Yết
Ma Thiên, Diễm Ma, Diễm Ma Hậu, Phạm Thiên Hậu, thế sở tông phụng Hỏa Thiên, Ca
Lâu La Tử Thiên, Tự Tại Thiên Hậu, Ba Đầu Ma, Đức Xoa Ca Long, Hòa Tu Cát,
Thương Khư, Yết Cú Trích Kiếm, Đại Liên, Câu Lý Kiếm, Ma Ha Phán
Ni, A Địa Đề Bà, Tát Đà, Nan Đà đẳng long, hoặc thiên tiên, đại Vi Đà luận sư,
các các ưng thiện cúng dường”. Bỉ văn như thị, tâm hoài khánh duyệt, ân
trọng cung kính, tùy thuận tu hành. Bí Mật Chủ! Thị danh ngu đồng dị sanh sanh
tử lưu chuyển vô úy, y đệ bát anh đồng tâm.
(經)復次祕密主!以此心生死流轉,於善友所聞如是言:此是天大天,與一切樂者。若虔誠供養,一切所願皆滿。所謂自在天、梵天、那羅延天、商羯羅天、黑天、自在子天、日天、月天、龍尊等,及俱吠濫、毘沙門、釋迦、毘樓博叉、毘首羯磨天,閻魔閻魔后、梵天后,世所宗奉火天、迦樓羅子天、自在天后、波頭摩、德叉迦龍、和修吉、商佉、羯句擿劍、大蓮俱里劍、摩訶泮尼、阿地提婆、薩陀難陀等龍,或天仙、大圍陀論師,各各應善供養。彼聞如是,心懷慶悅,殷重恭敬隨順修行。祕密主!是名愚童異生生死流轉無畏依第八嬰童心。
(Kinh: Lại này Bí Mật Chủ! Do
cái tâm ấy, sanh tử lưu chuyển, từ nơi bạn lành, nghe nói như thế này: “Các vị
trời này to lớn trong các vị trời, có thể ban cho hết thảy sung sướng. Nếu kiền
thành cúng dường, hết thảy điều ước nguyện sẽ đều thỏa, tức là nói tới
Tự Tại Thiên, Phạm Thiên, Na La Diên Thiên, Thương Yết La Thiên, Hắc Thiên, Tự
Tại Tử Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Long Tôn v.v… và Câu Phệ Lạm, Tỳ
Sa Môn, Thích Ca (Đế Thích), Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Thủ
Yết Ma Thiên, Diễm Ma, Diễm Ma Hậu, Phạm Thiên Hậu, Hỏa Thiên được cõi đời tôn
thờ, Ca Lâu La Tử Thiên, Tự Tại Thiên Hậu, Ba Đầu Ma, Đức Xoa Ca Long, Hòa Tu
Cát, Thương Khư, Yết Cú Trích Kiếm, Đại Liên Câu Lý Kiếm, Ma Ha Phán Ni, A Địa
Đề Bà, Tát Đà, Nan Đà v.v… các rồng, hoặc thiên tiên, đại Vi Đà luận sư, đối
với mỗi vị ấy đều nên khéo cúng dường”. Người ấy nghe như thế, ôm lòng vui
mừng, trân trọng, cung kính, tùy thuận tu hành. Bí Mật Chủ! Đó gọi là cái tâm
trẻ thơ thứ tám nương cậy vô úy của dị sanh như trẻ nhỏ ngu muội đang lưu chuyển
trong sanh tử).
Đã
biết bậc đức hạnh tôn quý, đáng nên thân cận, cúng dường, lại thấy trì giới có
thể sanh ra lợi lành,
tức là dần dần biết nhân quả. Nay lại nghe thiện tri thức nói có vị đại thiên
có thể ban cho hết thảy vui sướng, nếu kiền thành cúng dường, sở nguyện đều
được mãn, ắt sẽ có thể khởi
tâm quy y. Dẫu chưa nghe Phật pháp, nhưng biết các vị trời ấy do tu thiện hạnh
mà đạt được thiện báo ấy. Lại dần dần tín giải, biện định tường tận phước đức
thù thắng, lại nghe Phật pháp đặc biệt nhiệm mầu, ắt có thể quy y, tin nhận,
cho nên là
cái tâm tối thượng trong thế gian.
Hỏi:
Trong phần trước đã nói “Tự Tại Thiên đều là chấp trước tà vạy”, nay
lại nói “quy y họ (các vị trời ấy) chính là cái tâm
thế gian thù thắng”, có gì khác trước hay không?
Đáp:
Trước đó là tâm chẳng biết nhân quả, chỉ chấp trước các pháp do Tự Tại Thiên
v.v… tạo tác. Nay do thiện căn chín muồi, ở trong sanh tử lưu chuyển mà cầu
nương cậy, không sợ hãi, muốn phỏng theo hạnh nhân của họ (chư thiên) để cầu thành
tựu cái quả thù thắng, cho nên chẳng giống [loại người] chấp trước trong phần
trước.
Thương
Yết La (Śaṃkara) là tên gọi khác của Ma Hê Thủ La Thiên (Maheśvara).
Hắc Thiên (Mahākāla) có tên trong tiếng Phạn là Lỗ Nại La (Rudra), là
quyến thuộc của Tự Tại Thiên. Long Tôn là các đại long. Câu Phệ Lạm (Kubera, Đa Văn thiên vương) v.v… đều là các vị đại
thiên được thế gian tôn thờ. Phạm Thiên Hậu (vợ của Phạm Thiên) là tôn thần
được thế gian tôn thờ. Nhưng trong Phật pháp, Phạm vương ly dục, chẳng có
hậu phi. Từ Ba Đầu Ma (Padma) trở đi, tức là rồng Đắc Xoa Ca (Takṣaka), và rồng
Hòa Tu Cát (Vāṣuki), rồng Thương Khư (Śaṅkha), rồng Yết Cú Trích Kiếm
(Karkoṭaka), rồng Đại Liên Hoa (Mahāpadma), rồng Câu Lý Kiếm (Kulika), rồng Ma
Ha Phán Ni (Mahāphaṇi), rồng A Địa Đề Bà (Ādideva), rồng Tát Đà, rồng Nan Đà
v.v… đều là các tôn thần được thế gian thờ phụng. “Thiên tiên” là
nói ngũ thông thần tiên, số nhiều vô lượng, do vậy chẳng kể tên. Vi Đà (Vedas)
là bốn loại minh luận do Phạm vương diễn nói. Đại Vi Đà Luận Sư là người thọ
trì các kinh đó, có thể dạy bảo, do có thể khai thị hạnh xuất dục. Vì thế đáng
nên quy y. Trong các bộ loại ấy, Phạm vương giống như Phật, bốn kinh Vi Đà
giống như mười hai bộ kinh, người truyền pháp ấy giống như hòa hợp tăng. Khi đó,
họ nghe thế gian Tam Bảo như thế đó, hoan hỷ quy y, tùy thuận tu hành. Đó là
tám chỗ quy y vô úy của phàm phu sanh tử vậy.
Kinh
nói “Bí Mật Chủ! Phục thứ, thù thắng hạnh, tùy bỉ sở thuyết trung thù
thắng trụ, cầu giải thoát huệ sanh” (Bí Mật Chủ! Lại nữa, đối với hạnh
thù thắng, thuận theo lời nói ấy trụ trong thù thắng, sanh trí huệ cầu giải
thoát) v.v… Tức là trong loại quy y vô úy thứ tám ấy, lại có tâm thù thắng. Đã
nghe nói các loại Bạc Già Phạm thế gian như đã nói trên đây đáng nên cúng dường, quy y; sau đó, [người ấy] bèn sanh tâm:
“Trong các loại Tam Bảo ấy, loại nào là tối thắng? Ta sẽ chọn đấng tốt lành để
tùy thuận tu hành”. Do sức thiện căn trước đó, sẽ thuận theo pháp do họ đã nói
mà trụ trong sự thù thắng, sanh trí huệ cầu giải thoát. Nhưng do chưa biết pháp
duyên khởi, tất cả trí huệ quán Không đều chẳng rời khỏi đoạn và thường. Vì thế
nói là “thường, vô thường, không”, chỉ tùy thuận lời nói như
thế mà siêng năng tu học. Trong ấy, lại hai thứ:
-
Nếu cầu sanh trí giải thoát thì gọi là tâm thù thắng.
-
Đã chứng pháp Không thì gọi là tâm quyết định.
Nếu
tách ra để nói, gộp chung với các điều trước đó, sẽ thành mười tâm. Đức Thế Tôn
muốn đối ứng với các điều đó để nói rõ trí huệ quán Không xuất thế, cho nên kế
đó nói: “Bí Mật Chủ! Phi bỉ tri giải Không, phi Không nghĩa, liễu tri
đoạn thường, tuy tác phi hữu phi vô bình đẳng quán, tuyệt chư hý luận, nhiên
diệc bất năng song ly thị kiến, do bỉ vị giải chánh nhân duyên cố” (Bí
Mật Chủ! Chẳng phải là người đó đã hiểu biết nghĩa “Không, phi Không”, biết rõ
đoạn và thường, tuy đã quán “chẳng phải có, chẳng phải không, bình đẳng, dứt
bặt các hý luận”, nhưng vẫn chẳng
thể cùng lìa kiến giải ấy,
do chưa thật hiểu nhân duyên chánh yếu). Nhưng trong Phật pháp, do biết có nhân
duyên, nên lìa khỏi cái
thấy “không có”. Do quán tự tánh là Không, cho nên chẳng sanh khởi cái thấy Có.
Nếu ai lìa khỏi cái thấy “có, không”, tức là chẳng đọa trong “đoạn, thường”.
Nếu chẳng liễu đạt nghĩa Không như thế, dẫu chẳng chấp trước “có, không”, lìa
ngôn tuyệt tướng, rốt cuộc vẫn ngỡ phân biệt là cái tâm “chẳng phân biệt”!
Giống như Trường Trảo Phạm Chí quán Thật Tướng của các pháp, chẳng thọ hết thảy
các pháp, mà chấp nhận kiến chấp ấy. Chân Không lìa phân biệt, sao lại phân
biệt Không? Nếu chẳng hiểu nghĩa Không, dẫu nhất tâm tinh tấn siêng cầu giải
thoát, kẻ đó chẳng
thể biết Niết Bàn! Vì thế, đức Phật
nói: “Nhữ dục cầu Niết Bàn giả, ưng liễu tri duyên khởi chi Không, ly ư
đoạn thường” (Ông muốn cầu Niết Bàn, hãy nên biết rõ cái Không trong
duyên khởi, lìa khỏi đoạn và thường). Do cái tâm chủng tử ban sơ của người đó
giảm bớt chút phần tham cấu (bụi nhơ do tham lam), tức là tùy thuận chút phần
tịnh tâm. Từ đấy trở đi, trai giới và bố thí dần dần tăng thêm, tức là thế lực
của tịnh tâm dần dần nẩy nở. Do sự huân tập ấy, sẽ có thể thật sự chọn lựa, biện định chỗ quy
y, sanh khởi trí huệ cầu giải thoát. Nếu chẳng gặp thiện duyên, lại từ đoạn
thường Không, lui vào tà kiến! Nhưng chủng tử của tám tâm ấy trọn chẳng hư mất!
Nếu nghe Phật pháp, chỉ đối với đoạn thường Không, [nhằm đối trị], bèn dạy họ
quán duyên khởi Không, liền nhập chánh đạo. Nếu là người chưa sanh chủng tử,
chẳng có căn cơ, dẫu nói đủ mọi cách, kẻ đó trọn chẳng thể tin hiểu.
Lại
như hành giả đối với cái tâm thứ tám, khi cầu quy y chỗ chẳng sợ hãi trong sanh
tử, nếu gặp thiện tri thức vì họ nói chỗ quy y Tam Bảo chân thật, do kẻ ấy dần
dần biết nhân quả trong hiện đời, liền có thể tin nhận. Để chuyện ấy lại đó, như khi người ấy tu trai giới, nếu
gặp thiện tri thức bảo rằng: “Ngươi do thấy điều lợi nào mà thực hiện trai giới, bố thí?” Người
ấy liền trả lời: “Vì tôi quán do nhân duyên tham cầu, gìn giữ, mà có các thứ ưu khổ. Hễ thiểu dục hành thí, sẽ được trụ trong hoan hỷ, an lạc”.
Khi đó, thiện tri thức bảo rằng: “Lành thay, thiện nam tử! Như đức Phật đã nói,
chúng sanh do keo tham mà trong đời hiện tại có đủ mọi nỗi ưu khổ. Mạng chung,
do nhân duyên ấy, đọa vào đường ác. Do tâm lìa khỏi cấu nhơ keo tham, hiện đời
an lạc, có thanh danh to lớn, mạng chung sanh lên trời, về sau đắc Niết Bàn. Vì
thế, ngươi nay càng phải nên dùng cái tâm thắng thượng để thọ pháp Bát Quan
Trai”. Người đó nghe xong, liền tin nhận, tu hành đúng như lời dạy. Nếu là kẻ
chẳng có cơ duyên, chỉ nói khổ hay lạc trong thế gian đều do Tự Tại Thiên tạo,
hoặc từ các thứ như đất v.v… biến hóa, coi thời là nhân, nghe chút phần an tịnh
của Bát Quan Trai Giới còn chẳng thể tin, huống hồ các chuyện sâu xa khác ư?
Hỏi:
Chủng tử tối sơ của tám cái tâm như thế lại dùng gì làm nhân?
Đáp:
Do thế gian từ lâu xa đến nay có danh xưng thiện ác, chủng tử từ đó mà sanh.
Như chúng sanh trong thuở kiếp sơ tham ăn chất béo nơi đất. Lúc bấy giờ, nếu
nghĩ ăn nhiều là bất thiện, ăn ít là thiện, hoặc thấy do nhân duyên ăn nhiều mà
dấy lên lầm lỗi, liền nghĩ thế này: “Ta nay ít ăn vị này, thường tự ngăn dè,
cũng chẳng phải là tốt lắm hay sao?” Nhưng chúng sanh ấy cũng chẳng biết nhân
quả và hậu thế báo, chỉ lần lượt truyền dạy, coi nhân, nghĩa, hổ thẹn v.v… là
các thứ thiện pháp. Hành giả có thể hành như thế, sẽ được thế gian cùng khen
ngợi.
Lại
như lúc tiểu kiếp sắp chấm dứt, chúng sanh bỗng dưng phát tâm, biết lỗi hại của ác pháp thế gian, bèn khuyên bảo lẫn nhau cùng
làm thiện sự. Lúc bấy giờ, cũng chẳng có thiện tri thức khuyên dạy khiến họ làm
như thế! Hãy nên biết đó đều là vì sức nhân duyên do Thật Tướng của tự tâm huân
tập. Như tối sơ chủng tử, khi lìa tâm cấu chừng bằng vi trần, liền hiển lộ thế
lực của tịnh tâm như vi trần. Tuy nói là “sanh chủng tử thiện”, thật
ra, chính là chẳng sanh mà sanh, do nó có tánh kiên cố, vẫn ở trong tâm thức
của chúng sanh, trọn chẳng hư mất, chưa đạt tới khoảng giữa của đại kim cang
luân nơi Thật Tế của tự tâm, lại chẳng có chỗ trụ. Lìa quả lại trở thành
hạt, lần lượt vun bồi lẫn nhau, nhưng chẳng ra ngoài môn chữ A. Vì thế “tối
thượng Đại Thừa cú, tâm tục sanh chi tướng. Chư Phật đại bí mật, ngoại đạo bất
năng tri” (câu tối thượng Đại Thừa, tướng tương sanh của tâm, là đại
bí mật của chư Phật, ngoại đạo chẳng thể biết). Phẩm Dược Thảo Dụ trong kinh
Pháp Hoa cũng có ý nghĩa này.
(Kinh) Bí
Mật Chủ! Phục thứ thù thắng hạnh, tùy bỉ sở thuyết trung thù thắng trụ, cầu
giải thoát huệ sanh, sở vị thường, vô thường, Không, tùy thuận
như thị thuyết. Bí Mật Chủ! Phi bỉ tri giải không, phi không, thường, đoạn, phi
hữu, phi vô, câu bỉ phân biệt. Vô phân biệt, vân hà phân biệt
Không? Bất tri chư Không, phi bỉ năng tri Niết Bàn. Thị cố, ưng
liễu tri Không, ly ư đoạn thường.
(經)祕密主!復次殊勝行,隨彼所說中殊勝住求解脫慧生,所謂常無常空,隨順如是說。祕密主!非彼知解空非空、常斷、非有非無,俱彼分別。無分別云何分別空?不知諸空,非彼能知涅槃。是故應了知空離於斷常。
(Kinh: Bí
Mật Chủ! Lại nữa, hạnh thù thắng là thuận theo lời người đó nói mà trụ
thù thắng, cầu sanh trí huệ giải thoát, tức là nói thường, vô thường, Không,
tùy thuận lời nói như thế. Bí Mật Chủ! Chẳng phải là người đó hiểu không, phi
không, thường, đoạn, chẳng phải có, chẳng phải không, mà đều là phân biệt. Vô
phân biệt thì sao
có thể phân biệt Không? Chẳng biết các thứ Không, sẽ chẳng thể biết Niết Bàn.
Vì thế, phải nên hiểu rõ lìa đoạn, thường).
Lại
nữa, hành giả quy y Tam Bảo, tùy thuận luật nghi của Như Lai, thọ pháp Bát Quan
Trai Giới trong một ngày, do được thánh giới che chở, bèn tịch tĩnh, an lạc. Do
an lạc, bèn tin vào hạnh của hiền thánh, nhiều lượt tu tập, gọi là “sơ
chủng tử”. Vì khiến cho chủng tử ấy tăng trưởng mà tu các điều thiện, cho
đến do giới thuần tịnh mà quyết định sanh thiên. Sau đó, đạt tới Niết Bàn, được
gọi là “thọ dụng chủng tử”. Lại do thân cận thiện tri thức,
được lợi ích do nghe chánh pháp, chẳng khởi tâm quy y chi khác, sẽ là chỗ quy y
chân thật vô úy thứ tám của phàm phu đang lưu chuyển trong sanh tử. Lại trụ
trong sự thù thắng ấy, sanh trí huệ cầu giải thoát, quan sát, sanh ý tưởng
quyết định. Từ đấy trở đi, liền phát khởi tâm sơ chủng tử của Thanh Văn Bồ Đề,
đều nên nói theo phần phân biệt cặn kẽ đã nói trong phần trước. Cho đến tam
thừa, mỗi địa đều trọn đủ mười tâm, đạt đến Đệ Thập Địa cũng trọn đủ chủng tử
mầm, vỏ, lá, hoa quả v.v… sanh trí huệ cầu Phật địa, quán Tất Cánh Không, đạt
tới kim cang tế.
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần một hết
[1] Ngũ
tình là năm thứ tình cảm, tức mừng, giận, buồn, vui, oán. Ngũ Tình cũng là cách dịch xưa của chữ
Ngũ Căn.
[2] Thích
Luận nếu hiểu thông thường sẽ là Đại Trí Độ Luận, tức chú giải của kinh Đại Bát
Nhã, nhưng trong Mật giáo, khi nói đến Thích Luận thì đa phần là nói đến bộ Thích Ma Ha
Diễn Luận do ngài Long Thọ biên soạn. Hơn nữa, trong tác phẩm chú giải này, khi
trích dẫn Đại Trí Độ Luận, ngài Nhất Hạnh luôn nói rõ là Trí Độ Luận; do vậy, Thích Luận chỉ có
thể hiểu là Thích Ma Ha Diễn Luận. Bộ luận này được dịch sang tiếng Hán bởi
ngài Phạt Đề Ma Đa vào đời Diêu Tần (tức năm Hoằng Thỉ thứ ba, 401), gồm mười
quyển. Đây là bản chú giải của Đại Thừa Khởi Tín Luận. Chân Ngôn Tông (Shingon-shū) Nhật
Bản coi đây là một tác phẩm trọng yếu bắt buộc phải học tập của các hành giả
Mật Tông.
[3] Theo
lý, do chứng ngộ Bát Nhã mà Bồ Tát thành Phật, tức là giống như Phật quả được
sanh bởi Bát Nhã, nên Bát Nhã được gọi là “mẹ
của chư Phật”. Theo phương diện Sự, do Quán Thế Âm Bồ Tát
tuyên giảng Bát Nhã Tâm Kinh, Ngài hóa hiện thân Bát Nhã Ba La Mật Bồ Tát. Vị
Bồ Tát này còn được gọi là Bát Nhã Quán Âm, Bát Nhã Phật Mẫu, Kim Cang Bát Nhã
Ba La Mật Đa Bồ Tát, hoặc Đệ Nhất Ba La Mật Bồ Tát. Ngài được tạc
tượng có một mặt, sáu tay hoặc bốn tay, diện mạo xinh đẹp, yểu điệu, thân hình nẩy nở, mặc khôi giáp,
hai tay chắp lại trước ngực, hoặc kết ấn Thí Vô Úy, hay Thiền Định ấn. Các tay khác lần lượt cầm kinh Bát Nhã, và
xâu chuỗi hoặc kim cang chử trên đó đeo xâu chuỗi. Ngài đứng hoặc tọa Thiền
trên hoa sen trong vòng lửa (lửa biểu thị phiền não, hoa sen biểu thị giác
ngộ). Nếu tượng sáu tay thì ngoài hai tay chắp trước ngực, các tay kia lần lượt
cầm kinh Bát Nhã, xâu chuỗi, kim cang chử và hoa sen xanh. Hoặc có khi thay hoa
sen xanh bằng bảo kiếm. Đôi khi, Ngài
được tạc tượng hoặc vẽ chung với Văn Thù Bồ Tát (đại biểu trí huệ), Hư Không
Tạng Bồ Tát (đại biểu ký ức), gọi là Trí Huệ Tam Tôn. Nếu vẽ riêng thì thường
là vây quanh Bồ Tát có bốn vị thần hộ pháp dưới dạng thiên nữ, có tên gọi
lần lượt là Nặc Da, Vi Nặc Da, A Nhĩ Đa, và
A Ba La Nhĩ Đa, biểu thị thường, lạc, ngã, tịnh.
[4] Theo Phật Học Đại Từ Điển, như người có
ấn sẽ có thể vào một quốc gia. Hành giả dùng trí Bát Nhã làm ấn, sẽ có thể nhập
lý Thật Tướng, nên gọi là Trí Ấn. Lại như dùng ấn khế để biện định một văn kiện
hay một vật là chân hay ngụy; cũng giống như vậy, dùng trí để biện định chân,
ngụy v.v… thì gọi là Trí Ấn.
[5] Đại Không: Có ba cách hiểu:
- Đây là Không rốt ráo
trong Đại Thừa, tức Niết Bàn, chính là vượt ngoài chấp trước Hữu và Không, ngay
cả Không cũng là Không, nên gọi là Không Không. Chứng nhập Không Không thì gọi
là Đại Không.
- Trong mười tám món
Không của Đại Bát Nhã, không có các phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc v.v… thì gọi
là Đại Không.
- Trong Mật Giáo, liễu
ngộ lý bất sanh trong môn chữ A thì cũng gọi là Đại Không.
Ngu ý cho rằng Đại
Không ở đây phải hiểu theo cách thứ nhất và thứ ba.
[6] Trong văn tự Tất Đàm (Siddam), A là chữ
căn bản, có nghĩa là “không, bất sanh”, nên A được coi là
tượng trưng cho tánh Không, là căn bản của Bát Nhã và các pháp môn trong Phật
giáo. Trong Mật giáo, mỗi vị tôn thánh được biểu thị bằng một chữ (gọi là chủng
tử, như A Di Đà Phật có chủng tử là Hrih). Chữ A được coi là thống nhiếp các
chủng tự. A là chủng tử của Thai Tạng Mạn-đồ-la. Trong ba bộ của Thai Tạng thì
A là chủng tử của Phật Bộ, trong tam thân, A là chủng tử của Pháp Thân (do vậy,
trong các bức vẽ Phật xưa kia, hay đề ba chữ Phạn Om, A, Hồng phía trên đức
Phật, biểu thị tam thân của Phật), trong Nhân, Hành, Chứng, Nhập, Phương Tiện
thì A là chủng tử của Nhân, trong Lục Đại thì A là chủng tử của địa đại v.v…
[7] Nhất Xiển Đề có nghĩa là “không có tánh
thành Phật”. Còn dịch là Bất Tín, tức không tin Phật pháp. Kinh Đại Bát Niết
Bàn quyển mười chín nói: “Nhất Xiển Đề là chẳng tin nhân quả, chẳng có
hổ thẹn, chẳng tin nghiệp báo, chẳng thấy đời hiện tại và vị lai, chẳng thân
cận thiện hữu, chẳng thuận theo lời răn dạy do chư Phật đã nói. Người
như thế gọi là Nhất Xiển Đề, chư Phật chẳng thể đối trị”.
[8] Thanh
Minh (Sabda-vidyà) ở
đây là một môn trong Ngũ Minh, tức là môn học về ngôn ngữ, văn tự, về âm thanh
và văn học.
[9] Đây
là một thí dụ trong phẩm Hóa Thành Dụ của kinh Pháp Hoa. Có một người dẫn đường
biết chỗ dẫn tới của báu, nhưng người đi theo ông ta thấy đường xa mỏi mệt,
muốn lui về. Người dẫn đường có phương tiện thiện xảo, bèn hóa ra một cái thành to lớn để họ
nghỉ ngơi. Khi họ đã
nghỉ khỏe, người ấy bèn diệt hóa thành, thúc giục họ tiếp tục tiến lên. Đức Phật dùng
thí dụ này để sánh ví các pháp trước thời Pháp Hoa cũng giống như hóa thành,
chỉ là pháp phương tiện, chứ Nhất Thừa mới là pháp chân thật.
[10] Kệ ở đây là cách tính độ dài của một văn bản trong tiếng
Phạn. Cứ bốn câu là một kệ, bất luận số chữ nhiều ít, có vần hay không vần.
[11] Ý
nói chẳng còn phải tái sanh do lưu chuyển theo nghiệp.
[12] Am Ma Lặc là một loại trái nhỏ thuộc giống cây gọi là
Emblic Myrobalan (có tên khoa học là Phyllanthus Emblica, tên tiếng Việt là
chùm ruột núi, me mận, mắc kham), còn gọi là Indian gooseberry, thường mọc
nhiều ở Ấn Độ. Cây này có thể cao tới 8 m, hoa có màu xanh pha vàng. Trái
hình cầu, to khoảng 26 mm, có sáu vết khía nổi quanh trái, khiến trái trông như
gồm sáu múi. Trái có màu vàng hơi pha sắc xanh, nhẵn nhụi và cứng, có hột cứng
ở giữa. Trái này có vị đắng và hơi chua, có nhiều xơ. Trái có thể ăn sống, làm
nước ép, hay ngâm đường rồi xên thành mứt, hoặc làm gia vị để nấu món súp cá
Holat tại Indonesia. Trái này được coi là có tác dụng chữa bệnh.
[13] Phạm chí có nghĩa là người có chí hướng cầu sanh lên Phạm
thiên, là danh xưng để gọi những tu sĩ Bà-la-môn. Vi Đà phạm chí là các phạm
chí tinh thông bốn bộ Vi Đà (Vedas, Phệ Đà) của Bà La Môn giáo.
[14] Cù Đàm Tiên (Gotama) còn gọi là Kiều Đáp Ma Tiên là một vị
trong bảy vị đại tiên nhân thời cổ. Tương truyền vị tiên nhân này giỏi chú
thuật, từng soạn Minh Luận. Vị tiên nhân này muốn bay lên hư không, bị hai giọt
nước làm bẩn, rơi xuống đất, được ánh mặt trời chiếu vào, biến thành thân sắc
vàng. Con ông ta về sau là thỉ tổ của dòng họ Thích Ca.
[15] Đây
là một thí dụ được nhắc tới trong các kinh Hoa Nghiêm và Niết Bàn, như mặt
trống được bôi thuốc độc, khi đánh lên, âm thanh ấy có thể làm chết người. Dùng
điều này để sánh ví âm thanh thuyết pháp của đức Phật có thể giết sạch ngũ
nghịch, Thập Ác, các phiền não trong tâm của chúng sanh.
[16] Do không có font chữ Siddam, chúng tôi tạm sử dụng
font Devanāgarī (Thiên Thành tự thể) để ghi các chữ Sankrit được
chép trong lời Sớ.
[17] Yên Chi là màu son hồng, vốn là một thứ màu
nhuộm thiên nhiên có màu sắc đỏ hồng tươi tắn. Thời cổ, nữ nhân dùng nó hòa vào
bột phấn để làm hồng da mặt hay dùng như son để nhuộm cho môi đỏ tươi, nên Yên
Chi hiểu theo nghĩa rộng chính là các thứ để trang điểm của phụ nữ.
[18] Hắc
nguyệt (Kṛṣṇapakṣa) tức là nửa tháng sau
của âm lịch. Tây Vực Ký ghi: “Từ trăng khuyết [sau ngày trăng tròn] cho
đến lúc không trăng là hắc nguyệt”. Đây là cách phân định thời gian
trong một tháng của lịch pháp Ấn Độ thời cổ.
[19] Theo
Phật Học Đại Từ Điển của Đinh Phước Bảo, “quyết liễu” là khiến cho người nghe quyết định hiểu rõ
ràng, rành mạch một nghĩa lý nào đó.
[20] Bạch Tứ Yết-ma (Jñapticaturtha-karman),
còn gọi là Tứ Bạch, Bạch Tứ Pháp, hoặc Nhất Bạch Tam Yết-ma. Bạch tức là thưa
bày rõ, Yết-ma nghĩa là nghiệp, tác pháp v.v… Tức là như khi truyền thọ Cụ Túc
Giới chẳng hạn, vị thầy Yết Ma trong Tam Sư của giới đàn, hướng về Tăng chúng,
thưa trình “có người này, người kia muốn cầu xuất gia”. Đó là Bạch. Kế đó, ba
lượt hỏi Tăng chúng có tán thành hay không, chuyện này được gọi là Tam Yết-ma.
Nếu không ai có ý kiến phản đối, sẽ chấp thuận cho những người ấy được làm
Tăng. Đối với các pháp sự khác như sám hối tội trọng, trị phạt, quở trách người
phạm lỗi, can gián, chấm dứt tranh cãi v.v… cũng dùng phương cách này để đạt
tới sự đồng thuận trong Tăng chúng.
[21] Sổ
Thủ Thú Giả là cách dịch khác của chữ Bổ Đặc Già La (hữu tình). Do hữu tình
nhiều lượt (sổ) sanh vào các đường khác nhau (thủ thú) nên gọi như vậy.
[22] Độc Tử Bộ (Vātsīputrīya)
còn gọi là Khả Trụ Tử Bộ, Bạt Thứ Tử Bộ, Bạt Tư Phất Đa La Khả Trụ Tử Bộ, Bà
Duy Tử Bộ, là một trong các bộ phái thời kỳ sơ khởi của Phật giáo, vốn là một
phân chi của Thượng Tọa Bộ. Bộ phái này được hình thành hai trăm năm sau khi
đức Phật nhập diệt, giáo nghĩa gần tương tự Nhất Thiết Hữu Bộ, chỉ có đôi chút
sai khác như chấp cái Thể của Bổ Đặc Già La là thật sự có, Niết Bàn có ba
loại là hữu học, vô học và phi hữu phi vô học v.v…
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần hai
大毘盧遮那成佛經疏
Đại Đường Thiên Trúc Tam
Tạng Thiện Vô Úy, sa-môn Nhất Hạnh dịch kinh
大唐天竺三藏善無畏共沙門一行譯經
Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê ký
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và
Huệ Trang
(Kinh)
Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục thỉnh Phật ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn thuyết bỉ
tâm”. Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ ngôn: - Bí Mật Chủ!
Đế thính tâm tướng, vị tham tâm, vô tham tâm, sân tâm, từ tâm, si tâm, trí tâm,
quyết định tâm, nghi tâm, ám tâm, minh tâm, tích tụ tâm, đấu tâm, tránh tâm, vô
tránh tâm, thiên tâm, A Tu La tâm, long tâm, nhân tâm, nữ tâm, tự tại tâm,
thương nhân tâm, nông phu tâm, hà tâm, bi trì tâm, tỉnh tâm, thủ hộ tâm, xan
tâm, cẩu tâm, ly tâm, Ca Lâu La tâm, thử tâm, ca vịnh tâm, vũ tâm, kích cổ tâm,
thất trạch tâm, sư tử tâm, hưu lưu tâm, ô tâm, La Sát tâm, thích tâm, quật tâm,
phong tâm, thủy tâm, hỏa tâm, nê tâm, hiển sắc tâm, bản tâm, mê tâm, độc dược
tâm, quyến sách tâm, giới tâm, vân tâm, điền tâm, diêm tâm, thế đao tâm, Di Lô đẳng tâm, hải đẳng
tâm, huyệt đẳng tâm, thọ sanh tâm.
(經)爾時金剛手復請佛言:惟願世尊說彼心。如是說已,佛告金剛手祕密主言:祕密主!諦聽心相。謂貪心、無貪心、瞋心、慈心、癡心、智心、決定心、疑心、暗心、明心、積聚心、鬪心、諍心、無諍心、天心、阿修羅心、龍心、人心、女心、自在心、商人心、農夫心、河心、陂池心、井心、守護心、慳心、狗心、狸心、迦樓羅心、鼠心、歌詠心、舞心、擊鼓心、室宅心、師子心、鵂鶹心、烏心、羅剎心、刺心、窟心、風心、水心、火心、泥心、顯色心、板心、迷心、毒藥心、羂索心、械心、雲心、田心、鹽心、剃刀心、彌盧等心、海等心、穴等心、受生心。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ lại thỉnh đức Phật rằng: “Kính mong đức Thế Tôn nói
các tâm đó”. Nói như thế xong, đức Phật bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: - Bí
Mật Chủ! Hãy lắng nghe tướng trạng của tâm, tức là tâm tham, tâm chẳng tham,
tâm sân, tâm từ, tâm si, tâm trí, tâm quyết định, tâm nghi, tâm tối, tâm sáng,
tâm tích tụ, tâm đấu đá, tâm tranh chấp, tâm không tranh chấp, tâm trời, tâm A
Tu La, tâm rồng, tâm người, tâm nữ, tâm tự tại, tâm con buôn, tâm nông phu, tâm
sông, tâm ao chuôm, tâm giếng, tâm thủ hộ, tâm keo kiệt, tâm chó, tâm chồn, tâm
Ca Lâu La, tâm chuột, tâm ca vịnh, tâm múa, tâm đánh trống, tâm nhà cửa, tâm sư
tử, tâm cú vọ, tâm quạ, tâm La Sát, tâm châm chích, tâm hang hốc, tâm gió, tâm
nước, tâm lửa, tâm bùn, tâm hiển sắc, tâm như miếng ván, tâm mê, tâm thuốc độc,
tâm như dây trói, tâm cùm, tâm mây, tâm ruộng, tâm muối, tâm dao cạo, tâm
bằng Di Lô (núi Tu Di),
tâm như biển, tâm như hố, tâm thọ sanh).
Đây
là giải đáp câu hỏi về tướng trạng của các tâm trong lời hỏi trước đó. Trước
hết, [đức Phật] nêu ra sáu mươi cái tâm rồi giải thích tướng của chúng.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Bỉ vân hà tham
tâm? Vị tùy thuận nhiễm pháp. Vân hà vô tham tâm? Vị tùy thuận vô nhiễm pháp.
(經)祕密主!彼云何貪心?謂隨順染法。云何無貪心?謂隨順無染法。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Thế nào là tâm tham? Tức là tâm
tùy thuận nhiễm pháp).
Ý nói đắm nhiễm tiền cảnh[1], tức là ô nhiễm tịnh tâm. Nếu tùy
thuận tu hành pháp ấy, sẽ gọi là “có tâm tham”. Do tâm pháp vi
tế khó biết, nhưng quán các sự nghiệp do người ấy đã làm, ắt có tướng lộ rõ ra
ngoài. Ví như nhìn vào tướng trạng của khói,
sẽ có thể suy ra mà biết tánh chất của lửa. Vì thế, các câu [nói về tướng trạng
các tâm ở đây] phần nhiều dựa theo sự tùy thuận tu tập để giải nghĩa, cho nên
có thể phỏng theo nghĩa đó. Các tâm ấy đều do [hành nhân] chưa đắc tâm xuất
thế, chúng chính là các thứ tâm
dấy lên xen tạp với điều thiện. Nếu hành giả khéo biết chân ngụy, giống như
nông phu chú trọng trừ cỏ dại để giúp cho lúa tươi tốt, thế lực của tịnh tâm sẽ
dần dần tăng trưởng. Chớ nói đó là nhân duyên sự tướng, thốt lời coi thường,
khiến cho cái tâm bị chìm đắm trong đó mà chẳng hay biết!
Thứ
hai, “vân hà vô tham tâm? Vị tùy thuận vô nhiễm pháp” (Thế nào
là tâm chẳng tham? Tức là tùy thuận pháp vô nhiễm). Trái nghịch tâm trước đó,
cho đến đối với chỗ tốt lành đáng nên tiến nhập, mong cầu, cũng chẳng sanh lòng mong
ưa. Vì thế, chẳng nhiễm thiện pháp sẽ chướng ngại mầm thiện. Tuy [cái tâm này]
có cùng tên gọi với tâm chẳng nhiễm ô, nhưng là hai chuyện khác biệt, cần phải
quán sát rất kỹ. Vì thế, hành giả chỉ quán Thật Tướng của tâm tham, tự nhiên
lòng tham chẳng ô nhiễm cái tâm được, chớ nên khởi hạnh “chẳng tham” không có
trí huệ như vậy!
(Kinh) Vân
hà sân tâm? Vị tùy thuận nộ pháp. Vân hà từ tâm? Vị tùy thuận tu hành từ pháp.
Vân hà si tâm? Vị tùy thuận tu bất quán pháp. Vân hà trí tâm? Vị thuận tu thù
thắng tăng thượng pháp. Vân hà quyết định tâm? Vị tuân giáo mạng như thuyết
phụng hành. Vân hà nghi tâm? Vị thường thâu trì bất định đẳng sự. Vân hà ám
tâm? Vị ư vô nghi lự pháp, sanh nghi lự giải. Vân hà minh tâm? Vị ư bất nghi lự
pháp, vô nghi lự tu hành. Vân hà tích tụ tâm? Vị vô lượng vi nhất, vi tánh. Vân
hà đấu tâm? Vị hỗ tương thị phi vi tánh. Vân hà tránh tâm? Vị ư tự kỷ, nhi sanh
thị phi. Vân hà vô tránh tâm? Vị thị phi câu xả.
(經)云何瞋心?謂隨順怒法。云何慈心?謂隨順修行慈法。云何癡心?謂隨順修不觀法。云何智心?謂順修殊勝增上法。云何決定心?謂遵教命如說奉行。云何疑心?謂常收持不定等事。云何闇心?謂於無疑慮法生疑慮解。云何明心?謂於不疑慮法無疑慮修行。云何積聚心?謂無量為一為性。云何鬪心?謂互相是非為性。云何諍心?謂於自己而生是非。云何無諍心?謂是非俱捨。
(Kinh: Thế nào là tâm sân? Tức
là tùy thuận pháp giận dữ. Thế nào là tâm từ? Tức là tùy thuận pháp tu hành
lòng từ. Thế nào là tâm si? Tức là tùy thuận tu pháp mà chẳng quán sát. Thế nào
là tâm trí? Tức là tùy thuận tu tập pháp tăng thượng thù thắng. Thế nào là tâm
quyết định? Tức là tuân theo lời dạy, phụng hành đúng như đã nói. Thế nào là
tâm nghi? Tức là thường tom góp các sự, phân vân chẳng quyết định được. Thế nào
là tâm tối tăm? Tức là tâm đối với pháp chẳng đáng lo ngờ mà sanh sự hiểu biết
lo ngờ. Thế nào là tâm sáng suốt? Tức là đối với pháp chẳng đáng lo ngờ, bèn tu
hành chẳng lo ngờ. Thế nào là tâm tích tụ? Tức là có tánh gom vô lượng pháp vào
một pháp. Thế nào là tâm đấu đá? Tức là có tánh chất gây thị phi lẫn nhau. Thế
nào là tâm tranh chấp? Tức là đối với chính mình mà sanh thị phi. Thế nào là
tâm không tranh chấp? Tức là đúng hay sai đều bỏ).
Thứ
ba, “vân hà sân tâm? Vị tùy thuận nộ pháp” (Thế nào là tâm
sân? Tức là tùy thuận pháp giận dữ). “Giận” tức là sân tâm dấy
động, sự được lộ rõ ra ngoài. Do tâm pháp khó biết, nên dùng chuyện tùy thuận,
tu theo pháp giận dữ để giải thích. Nếu nhiều lượt dấy lên tướng chẳng tịch
tĩnh như thế, biết ngay là tướng sân tâm. Nhưng đối với các duyên ấy, hễ quán
sát sân tâm tự chẳng trụ vào đâu, thì chướng ấy chẳng sanh!
Thứ
tư, “vân hà từ tâm? Vị tùy thuận tu hành từ pháp” (thế nào là
từ tâm? Tức là tùy thuận tu hành pháp thuộc lòng Từ). Lòng Từ này cũng trái nghịch tướng sân. Lòng Từ
mà có tâm cấu ái kiến, thì chẳng phải do thiện chủng tử sanh khởi. Chữ Từ trong
câu trước là xét theo nội tâm, chữ Từ trong câu sau là sự nghiệp tạo tác thuộc
tướng bên ngoài. Đã nhận biết rồi, chỉ cần đối trị lỗi lầm gây trở ngại cho
đạo, dần dần chuyển thành tu Từ vô lượng tâm. Đó chính là cách đối trị.
Thứ
năm, “vân hà si tâm? Vị thuận tu bất quán pháp” (thế nào là
tâm si? Chính là tùy thuận tu pháp mà chẳng quán sát), ý nói: Chẳng xem xét
thiện, ác, đúng, sai như đã nói trong phần trên; hễ gặp gỡ [bất cứ pháp nào],
đều liền tin nhận. Phàm đối với sự nghiệp tạo tác, chẳng thể trước hết dùng huệ
tâm để phân biệt, so lường đúng, sai.
Do có nhiều lầm lạc như thế, đều là tướng si tâm vậy!
Thứ
sáu, “vân hà trí tâm? Vị thuận tu thù thắng tăng thượng pháp” (thế
nào là trí tâm? Tức là thuận tu pháp tăng thượng thù thắng), ý nói: Người ấy
đối với các thứ [do người khác] đã nói, đều dùng trí để phán định, chọn lựa điều này khá, điều kia
kém, điều này nên thọ, điều kia chẳng nên thọ, chọn lấy điều thù thắng, tăng
thượng để hành, tức là tướng vô si. Nhưng đối với pháp vượt ngoài khả năng suy
lường của con người, chẳng thể dùng trí lực để suy tính, cân nhắc, chỉ có kẻ tin thì mới
có thể nhập. Vì thế, quán sát nạn Thế Trí Biện Thông là cách để đối trị cái tâm
này.
Thứ
bảy, “vân hà quyết định tâm? Vị tuân giáo mạng, như thuyết phụng hành” (thế
nào là tâm quyết định? Tức là tuân theo lời dạy bảo, phụng hành đúng như đã
nói).
Thứ tám, “vân hà nghi tâm? Vị
thường thâu trì bất định sự đẳng” (thế nào là tâm nghi? Tức là thường
tom góp, nắm giữ các sự bất định). Nay trước hết giải thích cái tâm nghi, hòng
dễ dàng hiểu rõ tâm tướng quyết
định. [Điều thứ tám có ý nói] người ấy hễ nghe điều gì, đều sanh tâm chẳng
quyết định. Như khi thọ giới, tự sanh tâm nghi: “Ta nay nhất định đắc giới, hay
là chẳng đắc giới?” Hoặc ngờ thầy, nghi pháp, mọi chuyện đều là như vậy. Như
người hành đạo, do cái tâm nghi hoặc, chẳng thể tiến lên được. Trí Độ Luận có
bài kệ rằng: “Nãi chí thí như quán kỹ lộ, hảo lợi giả ưng trục” (cho
đến ví như thấy ngõ rẽ, nên theo ngả nào có lợi hơn) để đối trị cái tâm ấy. Lại
nữa, tâm quyết định tức là hễ nghe bậc thiện hữu đúng pháp dạy bảo, liền lập
tức chẳng sanh ngờ lo, chí tâm phụng hành; nhưng cũng nên dùng trí huệ để quán sát hòng
sanh tâm quyết định chân chánh.
Thứ
chín, “vân hà ám tâm? Vị ư bất nghi lự pháp, sanh nghi lự giải” (thế
nào là tâm tối tăm? Tức là đối với pháp chẳng ngờ lo mà sanh kiến giải ngờ vực,
lo lắng), ý nói: Như đối với Tứ Đế, bất tịnh, vô thường v.v… người trí trong
thế gian chẳng nên sanh nghi, nhưng người ấy nghe [các pháp đó], ôm lòng do dự,
như ban đêm trông thấy gốc cây cụt, nẩy
sanh đủ thứ tâm suy đoán. Nếu thấy có tướng như thế, hãy nên biết là do tâm tối
tăm khiến thành ra như vậy!
Thứ
mười, “vân hà minh tâm? Vị ư bất nghi lự pháp, vô nghi lự tu hành” (thế
nào là tâm sáng suốt? Tức là đối với pháp chẳng đáng ngờ lo, bèn tu hành chẳng
ngờ lo). Ý nói: Đối với pháp thuộc loại quyết định pháp ấn, chẳng thể ngờ lo,
hễ được nghe bèn thấu hiểu, tin tưởng. Hãy nên biết đó là tâm sáng suốt. Nhưng
trong ấy, nếu có pháp nào vượt ngoài khả năng lãnh hội của người ấy, sẽ trở
thành cái tâm chướng đạo. Trụ trong huệ sẽ là cách đối trị.
Thứ
mười một, “vân hà tích tụ tâm? Vị vô lượng vi nhất vi tánh” (thế
nào là tâm tích tụ? Tức là người ấy có tánh gom vô lượng pháp thành một pháp),
ý nói: Người ấy do đối với một chuyện đã sanh tín giải, lại nghe các thứ pháp
khác lạ, đều gom chung thành một. Như người đã học được một môn tam-muội, thấy
các chuyện thù thắng sai biệt trong vô lượng pháp môn nơi các kinh giáo khác,
đều nói “các pháp ấy nhằm định tâm. Lìa ngoài pháp này, sẽ chẳng có pháp nào
khác”, nên gọi là tâm “tích tụ”.
Thứ
mười hai, “vân hà đấu tâm? Vị hỗ tương thị phi vi tánh” (thế
nào là tâm đấu đá? Tức là có tánh chất gây thị phi lẫn nhau). Tức là nghe ngôn
giáo do người khác nói ra, thường chuộng biện luận đúng, sai, bảo “nghĩa ấy phải nên như thế
này, chuyện ấy chẳng phải vậy!” Giả sử [người khác nói lời hợp lý], cũng dùng
đủ mọi phương tiện để bới móc ưu khuyết, muốn khiến cho người đó thất bại. Nếu
người khác tới hỏi, cũng bới móc
ưu khuyết [của lời hỏi ấy], bảo: “Câu hỏi này kỳ quái, ta chẳng nên đáp!” Hễ có tướng như thế hiện, hãy nên biết đó là
tâm đấu đá vậy.
Thứ
mười ba, “vân hà tránh tâm? Vị ư tự kỷ, nhi sinh thị phi” (thế
nào là tâm tranh chấp? Tức là sanh thị phi đối với chính mình), ý nói: Ôm lòng
thị phi, như chính mình tư
duy một nghĩa xong, lại tự tiện lập ra dị đoan, tìm cầu khuyết điểm. Dẫu có
thiện tâm học hỏi từ người khác, nhưng đã được lãnh nhận rồi, lại tự mình bới
móc ưu khuyết, bảo là “chuyện này phù hợp, chuyện kia chẳng hợp lý”. Hễ có
nhiều tướng hiện như thế, hãy nên biết là tâm tranh chấp vậy!
Thứ
mười bốn, “vân hà vô tránh tâm? Vị thị phi câu xả” (thế nào là
tâm không tranh chấp? Tức là đúng hay sai đều bỏ). Chuẩn theo cách đọc trong
bản tiếng Phạn, sau sáu mươi tâm đều nên có chữ Tánh, phỏng theo đó có thể
biết. Ở đây có ý nói: Chẳng ôm lòng ủng hộ, hay
phản đối. Tuy trước đó đã đề cao, tu tập, có kiến giải như thế, nay nghe nói khác
đi, dẫu phi lý hay hợp lý, liền chấp nhận làm theo. Hoặc trước kia cho [điều
nào đó] là đúng, nghe người khác nói điều đó là bất thiện, liền có thể sửa đổi.
Tình chẳng chấp trước, đúng, sai đều bỏ. Hễ có tướng như thế, biết là tâm không
tranh chấp. Đã nhận biết cái tâm vô ký, vô tránh [như thế đó], bèn tu tâm không
tranh chấp nơi Thật Tướng của các pháp để đối trị nó.
(Kinh) Vân
hà thiên tâm? Vị tâm tư tùy niệm thành tựu. Vân hà A Tu La tâm? Vị nhạo xử sanh
tử. Vân hà long tâm? Vị tư niệm quảng đại tư tài. Vân hà nhân tâm? Vị tư niệm
lợi tha. Vân hà nữ tâm? Vị tùy thuận dục pháp. Vân hà tự tại tâm? Vị tư duy dục
ngã nhất thiết như ý. Vân hà thương nhân tâm? Vị thuận tu sơ thâu, tụ hậu, phân
tích pháp. Vân hà nông phu tâm? Vị tùy thuận sơ quảng văn nhi hậu cầu pháp.
(經)云何天心?謂心思隨念成就。云何阿修羅心?謂樂處生死。云何龍心?謂思念廣大資財。云何人心?謂思念利他。云何女心?謂隨順欲法。云何自在心?謂思惟欲我一切如意。云何商人心?謂順修初收聚後分析法。云何農夫心?謂隨順初廣聞而後求法。
(Kinh: Thế nào là tâm trời? Tức
là tâm tư thuận theo ý niệm mà thành tựu. Thế nào là tâm A Tu La? Tức là thích
ở trong sanh tử. Thế nào là tâm rồng? Tức là nghĩ nhớ của cải rộng lớn. Thế nào
là tâm người? Tức là nghĩ nhớ lợi lạc người khác. Thế nào là tâm nữ? Tức là tùy
thuận dục pháp. Thế nào là tâm tự tại? Tức là tư duy muốn cho ta được hết thảy
đều như ý. Thế nào là tâm con buôn? Tức là thuận theo thói thâu gom, tích tụ
các pháp rồi mới phân tích. Thế nào là tâm nông phu? Tức là tùy thuận thoạt đầu
rộng nghe rồi sau đó mới cầu pháp).
Thứ
mười lăm, “vân hà thiên tâm? Vị tâm tư tùy niệm thành tựu” (thế
nào là tâm trời? Tức là tâm suy tư thuận theo ý nghĩ mà đều thành tựu). Như chư
thiên do quả báo đời trước, nếu có gì cần, sẽ chẳng cần phải đổ công dốc sức, nhưng đều
tùy tâm mà sanh. Nhiều lượt khởi lên ý ưa thích như thế, hãy nên biết đó là
“tâm trời”. Cũng do từng sanh trong cõi trên, cho nên có tập khí ấy. Như hành
nhân Chân Ngôn chẳng mong mỏi quả báo to xa, chỉ để tự tâm dẫn dắt, sẽ có thể
chướng ngại Bồ Đề tâm thanh tịnh. Hãy nên tự hiểu biết, chớ tham Tất Địa[2] của thế gian; đó là cách đối trị cái tâm này!
Thứ
mười sáu, “vân hà A Tu La tâm? Vị nhạo xử sanh tử” (thế nào là
tâm A Tu La? Tức là thích ở trong sanh tử). A là Phi (chẳng phải), Tu La là
Thiên, do họ có quả báo giống như chư thiên, nhưng hạnh nghiệp và trụ xứ bất
đồng, nên gọi như thế. Loại người này biết có lợi ích giải thoát, nhưng yêu
thích sâu đậm quả báo vui
sướng trong sanh tử, chẳng thể tăng tấn. Nếu hành nhân có tướng mạo này, sẽ gọi
là “tâm A Tu La”. Cũng do đời trước đã từng sanh vào đường
này, cho nên có tập khí ấy. Quán sát vô thường, khổ v.v… chính là cách đối trị
cái tâm này.
Thứ
mười bảy, “vân hà long tâm? Vị tư niệm quảng đại tư tài” (thế
nào là tâm rồng? Tức là nghĩ nhớ của cải rộng lớn). Tức là nhiều lượt nghĩ thế
này: “Ta nên dùng phương tiện nào để của cải rộng lớn, trân bảo thù thắng nhiệm
mầu?” Có nhiều ý tưởng tham lam
chẳng chán như thế; đó chính là cái tâm của loài rồng. [Người ấy] cũng vốn từ
loài rồng mà ra, nên sanh ra tập khí ấy, khiến cho hành nhân nguyện cầu Tất Địa
thế gian, chướng ngại tịnh tâm xuất thế. Tư duy thiểu dục, tri túc, vô thường v.v… chính là cách đối trị cái tâm ấy.
Thứ
mười tám, “vân hà nhân tâm? Vị tư niệm lợi tha” (thế nào làm
tâm người? Tức là suy nghĩ lợi lạc người khác). Tức là thích truy cầu ý niệm:
“Kẻ nào đó có ân với ta, ta hãy nên dùng phương tiện như thế để khiến cho kẻ đó
được lợi ích to lớn. Kẻ nào đó từng chẳng tạo lợi ích cho ta, nay phải trả
đũa”, và các thứ toan tính so đo với người khác, lợi lạc chúng sanh như thế, đều
là “nhân tâm”. Hãy tự nên nghĩ quán sát tâm hạnh, sớm cầu pháp
lợi, đừng nên lăng xăng tư lự các duyên khác. Đó là cách đối trị cái tâm này!
Thứ
mười chín, “vân hà nữ tâm? Vị tùy thuận dục pháp” (thế nào là
tâm nữ? Tức là tùy thuận dục pháp), cũng là cái tâm thuộc về loài người, nhưng
chỉ khác ở chỗ đa dục. Như kinh dạy rằng: “Nữ nhân đa dục, bách bội ư
nam tử, thường niệm sở kinh lạc sự, hoặc tưởng tha dung sắc, tư thái đẳng” (người
nữ đa dục gấp trăm lần nam nhân, thường nghĩ tới chuyện vui sướng đã trải qua,
hoặc tưởng dung sắc, thần thái của người khác v.v…). [Cái tâm này] có thể ngăn
chướng tịnh tâm. Đó cũng là do nhiều đời làm nữ nhân, bèn sẵn có tập khí ấy.
Trong ấy, dùng các cách như Bất Tịnh Niệm Xứ v.v… để quán Thật Tướng nơi thân; đó là
cách là đối trị cái tâm ấy.
Thứ
hai mươi, “vân hà tự tại tâm? Vị tư duy dục ngã nhất thiết như ý” (thế
nào là tâm tự tại? Tức là tư duy muốn ta hết thảy đều như ý): Tự Tại Thiên (Maheśvara) chính
là thiên thần được ngoại đạo thờ phụng. Họ chấp trước rằng Tự Tại Thiên có thể
tùy ý tạo tác các chúng sanh
và chuyện
khổ, lạc v.v… Người tu pháp này cũng thường hệ niệm, nguyện được như Bổn Tôn. Nếu hành nhân Chân Ngôn nhiều lượt nghĩ
tới Tất Địa, mong điều gì hễ ta nghĩ tới sẽ đều thành tựu. Hãy nên biết đó là
tâm tự tại, cũng là do tập khí trước kia khiến thành ra như vậy. Hãy nên quán
các pháp đều thuộc các loại nhân duyên, chẳng hề tự tại để đối trị.
Thứ
hai mươi mốt, “vân hà thương nhân tâm? Vị thuận tu sơ thâu tụ, hậu phân tích pháp” (thế
nào là tâm con buôn? Tức là tu theo kiểu trước thì thâu thập, tích tụ, sau đó
phân tích pháp): Như con buôn trong cõi đời, trước là lo chú trọng tích trữ
hàng hóa, sau đấy mới suy nghĩ, phân tích: “Vật này sẽ dùng ở chỗ nào, vật kia
nên dùng ở xứ nọ, sẽ được lợi to”. Nếu hành nhân trước hết chú trọng học vấn
trong, ngoài sao cho trọn vẹn rồi mới lại trù tính: “Đây là sách vở thế gian,
hãy nên dùng ở chỗ như thế này. Đây là pháp Nhị Thừa, nên dùng tiếp độ kẻ nào
đó. Đây là tư lương Đại Thừa, do duyên nào đó sẽ cần”. Đó gọi là cái tâm con
buôn, cũng do tập khí trước kia khiến thành ra như thế. Tu trí “nhanh
chóng” là cách đối trị cái tâm này, tức là hễ nghe pháp nào, liền quán
nhân duyên sử dụng của nó, há phải chờ tích tụ cho nhiều rồi mới tìm cầu tác
dụng ư?
Thứ
hai mươi hai, “vân hà nông phu tâm? Vị tùy thuận sơ quảng văn, nhi hậu cầu pháp” (thế
nào là tâm nông phu? Tức là tùy thuận thoạt đầu nghe pháp rộng rãi rồi mới cầu
pháp). Như người học trồng trọt hỏi nông dân giàu kinh nghiệm: “Làm thế nào để
biết đất tốt, phì nhiêu? Làm thế nào cày, bừa, cuốc, trồng? Thời tiết như thế
nào? Thâu hoạch, cất giữ như thế nào?” Mỗi mỗi đều biết như thế rồi mới đổ
công. Cái tâm này cũng thế, trước là chú trọng thưa hỏi người trí để rộng nghe
các đạo phẩm, sau đấy mới hành, đều là do tập khí cũ sai khiến. Dùng lợi trí để
đối trị, như nghe “các Uẩn vô thường”, liền biết Giới, Nhập
duyên khởi v.v… đều cũng theo lệ đó. Lại như mũi tên độc ghim vào thân, há đợi
ba tháng hỏi han rộng khắp rồi mới nhổ ra ư?
(Kinh) Vân hà hà tâm? Vị thuận tu
y nhân nhị biên pháp. Vân hà bi trì tâm? Vị tùy thuận khát vô yếm túc pháp. Vân
hà tỉnh tâm? Vị như thị tư duy thâm phục thậm thâm.
(經)云何河心?謂順修依因二邊法。云何陂池心?謂隨順渴無厭足法。云何井心?謂如是思惟深復甚深。
(Kinh: Thế
nào là tâm sông? Tức là tu thuận theo cái nhân thuộc pháp nhị biên. Thế nào là
tâm ao chuôm? Tức là tùy thuận khát ngưỡng pháp, chẳng chán đủ. Thế nào là tâm
giếng? Tức là tư duy như thế đã sâu lại còn rất sâu).
Thứ
hai mươi ba, “vân hà hà tâm? Vị thuận tu y nhân nhị biên pháp” (thế
nào là tâm sông? Tức là tâm thuận tu nương theo nhân nơi pháp nhị biên). Tâm
tánh này nương vào cả hai bên, hoặc lúc tu Thường,
lúc tu Đoạn, hoặc lại tin tưởng
cả tà lẫn chánh, như nước sông nương vào cả hai bờ, cuốn trôi mọi vật chẳng hề
chắc chắn thuộc vào bên nào! Trong ấy, để đối trị, hành nhân chuyên tâm nơi một
cảnh thì sẽ có thể đạt tới. Nếu tâm chẳng giữ chắc, sẽ chẳng có cách lẽ nào
khiến cho sự nghiệp được hoàn tất!
Thứ
hai mươi bốn, “vân hà bi trì tâm? Vị tùy thuận khát vô yếm túc pháp” (thế
nào là tâm ao chuôm? Tức là tùy thuận khát ngưỡng pháp không chán đủ). Ví như
ao chuôm, dù các giòng nước chảy vào, trọn chẳng chán đủ! Tâm này cũng thế, dù
các chuyện như danh lợi, quyến thuộc v.v… tụ tập nơi thân này, trọn chẳng chán
đủ, cho đến các pháp đã học cũng như thế. Như đã có được cháo sữa, chẳng chú
trọng ăn liền, cứ khát vọng các vị khác. Trong ấy, dùng thiểu dục tri túc để
đối trị [cái tâm này].
Thứ
hai mươi lăm, “vân hà tỉnh tâm? Vị như thị tư duy thâm phục thậm thâm” (thế
nào là tâm giếng? Tức là tư duy đã sâu lại càng rất sâu), ý nói: Cúi nhìn nước
giếng, ước lượng cạn hay sâu khó biết. Tâm tánh này cũng giống như thế. Phàm tư
duy điều gì, cũng đều ham chuộng
sâu xa, tất cả chuyện thiện hay bất thiện đều mong sao kẻ khác chẳng thể dò
lường được; các đồng sự cùng sống đều chẳng biết tâm hạnh của người ấy. Hãy nên biết đấy là tâm
giếng. Tướng của pháp môn duyên khởi và thiện nhân đều cùng rõ ràng, dễ biết.
Đó là cách đối trị.
(Kinh) Vân
hà thủ hộ tâm? Vị duy thử tâm thật, dư tâm bất thật. Vân hà xan tâm? Vị tùy
thuận vị kỷ, bất dữ tha pháp. Vân hà ly tâm? Vị thuận tu từ tấn pháp. Vân hà
cẩu tâm? Vị đắc thiểu phần, dĩ vi hỷ túc.
(經)云何守護心?謂唯此心實餘心不實。云何慳心?謂隨順為己不與他法。云何狸心?謂順修徐進法。云何狗心?謂得少分以為喜足。
(Kinh: Thế
nào là tâm thủ hộ? Tức là chỉ có tâm này là thật, tâm khác chẳng thật. Thế nào
là tâm keo kiệt? Tức là tùy thuận pháp ích kỷ, chẳng ban cho người khác. Thế
nào là tâm chồn? Tức là thuận theo cách tấn tu thong thả. Thế nào là tâm chó?
Tức là được chút phần liền vui mừng cho là đủ).
Thứ
hai mươi sáu, “vân hà thủ hộ tâm? Vị duy thử tâm thật, dư tâm bất thật” (thế
nào là tâm thủ hộ? Tức là chỉ có tâm này là thật, các tâm khác chẳng thật). Như
người đời vì thủ hộ thân thể, tài vật v.v… của chính mình, cho đến thủ hộ các
thứ như tường vây, lầu cao nhiều tầng, chẳng để cho chúng nó bị thương tổn. Tâm
này cũng thế, thường thủ hộ thân tâm, cho đến như con rùa giấu kín sáu chi,
chẳng để ngoại cảnh gây thương tổn. Tức là [quan niệm] chỉ có hạnh này là quý
báu, các việc phải làm khác đều chẳng quý. Người học Thanh Văn phần nhiều
sanh cái tâm
này. Dùng kiêm thủ hộ người khác để đối trị [cái tâm này]. Lại có người tự bảo
vệ kiến giải của chính mình, chẳng muốn bị các thứ dị luận của người khác gây
thương tổn, bảo “các kiến giải khác thảy đều không thật”, cũng thuộc loại tâm
này!
Thứ
hai mươi bảy, “vân hà xan tâm? Vị tùy thuận vị kỷ, bất dữ tha pháp” (thế
nào là tâm keo kiệt? Tức là tùy thuận ích kỷ, chẳng cho người khác), ý
nói: Người ấy tất cả việc làm thảy đều vì bản thân. Do đó, đối với của cải, tài
khéo, cho đến thiện pháp đều ưa giấu diếm, tiếc nuối, chẳng ban cho người khác.
Hễ có các tướng ấy thì biết là tâm keo kiệt. Hãy dùng niệm Thí và vô thường
v.v… để đối trị. Hãy nghĩ của cải, kỹ năng, nếu lúc vô thường xảy đến, chẳng
có gì theo ta ra đi, nhưng
cái thân này, niệm nào cũng đều chẳng thể tự bảo vệ, có gì đáng để tiếc nuối
đâu nhỉ?
Thứ
hai mươi tám, “vân hà ly tâm? Vị thuận tu từ tấn pháp” (thế
nào là tâm chồn? Tức là tùy thuận cách thong thả tấn tu): Như mèo, chồn rình bắt chim chóc,
nín thở, ngồi yên, chẳng cần phải đi lại nhanh nhẹn, chờ tới khi nó lọt
vào tầm của mình rồi mới bắt. Người này cũng thế, được gặp, được nghe các thứ pháp yếu,
nhưng chỉ để tâm lãnh nhận, ghi nhớ, chẳng chịu tiến hành (thật sự tu tập),
mong đợi duyên tốt hội hợp rồi mới mạnh mẽ thực hiện. Lại như mèo, chồn, dẫu
được nhân từ nuôi nấng đủ mọi lẽ, cũng chẳng hề biết ân. Nếu ai chỉ nhận lòng
từ bi ban bố, lời lẽ tốt lành của người khác, mà chẳng nghĩ báo đáp; đó là cái
tâm chồn. Hãy dùng [tâm tình] chẳng đợi thời, hễ được nghe liền hành ngay,
thường nghĩ tới ân đức để đối trị.
Thứ
hai mươi chín, “vân hà cẩu tâm? Vị đắc thiểu phần, dĩ vi hỷ túc” (thế
nào là tâm chó? Tức là được chút phần đã vui mừng, cho là đủ). Do chó có nhân
duyên phước mỏng, mong mỏi hèn kém, gặp được chút phần thức ăn thô lậu liền
sanh tâm vui mừng, cho là đủ. Nếu hơi quá mức đó, sẽ chẳng phải là điều nó mong
mỏi. Tâm này cũng thế, nghe chút phần thiện pháp, liền cho là hành chẳng thể
hết được, chẳng còn cầu sự thù thắng hơn. Đấy là do tập khí của chủng tánh
Thanh Văn sanh ra. Hãy dùng ý nhạo tăng thượng để đối trị, cho tới “tâm như
biển cả, ít cũng chẳng cự tuyệt, nhiều cũng chẳng tràn đầy!”
(Kinh) Vân
hà Ca Lâu La tâm? Vị tùy thuận bằng đảng vũ dực pháp. Vân hà thử tâm? Vị tư duy
đoạn chư hệ phược. Vân hà vũ tâm? Vị tu hành như thị pháp, ngã đương thượng
thăng chủng chủng thần biến. Vân hà kích cổ tâm? Vị tu thuận thị pháp, ngã
đương kích pháp cổ. Vân hà thất trạch tâm? Vị thuận tu tự hộ thân pháp. Vân hà
sư tử tâm? Vị tu hành nhất thiết vô khiếp nhược pháp. Vân hà hưu lưu tâm? Vị
thường ám dạ tư niệm. Vân hà ô tâm? Ư nhất thiết xứ, kinh bố tư niệm. Vân hà La
Sát tâm? Vị ư thiện trung, phát khởi bất thiện. Vân hà thích tâm? Vị nhất thiết
xứ, phát khởi ác tác vi tánh.
(經)云何迦樓羅心?謂隨順朋黨羽翼法。云何鼠心?謂思惟斷諸繫縛。云何舞心?謂修行如是法,我當上昇種種神變。云何擊鼓心?謂修順是法,我當擊法鼓。云何室宅心?謂順修自護身法。云何師子心?謂修行一切無怯弱法。云何鵂鶹心?謂常暗夜思念。云何烏心?謂一切處驚怖思念。云何羅剎心?謂於善中發起不善。云何刺心?謂一切處發起惡作為性。
(Kinh: Thế
nào là tâm Ca Lâu La? Tức là tùy thuận pháp phe phái, kết bè kéo cánh. Thế nào
là tâm chuột? Tức là tư duy đoạn các trói buộc. Thế nào là tâm múa? Tức là tu
hành pháp như thế, ta sẽ đạt được các thứ thần thông biến hóa. Thế nào là tâm
đánh trống? Tức là tu thuận theo pháp này, ta sẽ đánh trống pháp. Thế nào là
tâm nhà cửa? Tức là tùy thuận tu theo pháp để tự bảo vệ thân. Thế nào là tâm sư
tử? Tức là tu hành hết thảy các pháp chẳng khiếp nhược. Thế nào là tâm cú vọ?
Tức là thường suy nghĩ đen tối. Thế nào là tâm quạ? Trong hết thảy các chỗ, đều
nghĩ kinh hoảng. Thế nào là tâm La Sát? Tức là trong các điều thiện, phát khởi
bất thiện. Thế nào là tâm châm chích? Tức là trong hết thảy các chỗ, phát khởi
tánh làm ác).
Thứ
ba mươi, “vân hà Ca Lâu La tâm? Vị tùy thuận bằng đảng vũ dực pháp” (thế
nào là tâm Ca Lâu La? Tức là tùy thuận phương cách bè đảng, kéo bè kết cánh).
Loài chim này thường cậy vào hai cánh để nâng đỡ thân, qua lại tùy ý, trở thành
thế lực to lớn. Giả sử thiếu bớt lông vũ, sẽ chẳng thể làm được! Tâm này cũng
thế, thường nghĩ có nhiều bè đảng và kẻ chầu hầu giúp cho mình thành tựu sự
nghiệp. Lại do người khác làm rồi mình mới phát tâm, chẳng thể một mình tiến
hành. Như thấy người khác làm lành, liền nghĩ: “Hắn còn có thể làm, sao ta
chẳng làm?” Hãy nên nghĩ “tâm Bồ Đề dũng mãnh, như sư tử chúa chẳng nhờ
vào bầu bạn giúp đỡ” để đối trị.
Thứ
ba mươi mốt, “vân hà thử tâm? Vị tư duy đoạn chư hệ phược” (thế
nào là tâm chuột? Tức là tư duy cắt đứt các trói buộc). Như chuột thấy rương,
tráp của người khác được buộc dây v.v… liền ưa phi lý tổn hại, cũng chẳng nghĩ:
“Do làm đứt cái này, ta sẽ được lợi như thế!” Chỉ chẳng nghĩ ngợi gì mà làm.
Tâm này cũng thế, đối với tất cả những điều liên quan và thành tựu, cứ thích
chọc gậy bánh xe để phá hoại!
Thứ
ba mươi hai là “tâm ca vịnh”, bản tiếng Phạn thiếu phần kinh
văn giải thích cái tâm này. A-xà-lê (ngài Thiện Vô Úy) nói: “Đây là thí
dụ truyền pháp âm. Như người đời sáng tác nhạc cho người khác, đã hay khéo
rồi, lại vì người khác diễn tấu, phát ra đủ mọi âm thanh du dương, người nghe
hoan hỷ. Tâm này muốn cho người khác nghe chánh pháp, ta sẽ đổi thành dùng đủ
loại câu chữ trang nghiêm để phân biệt, diễn thuyết, khiến cho nơi nơi đều được
nghe biết âm thanh mầu nhiệm ấy”. Phần nhiều là tập khí từ xưa của
Thanh Văn, cũng có thể gây chướng ngại tịnh tâm. Hãy nghĩ “khi ta đã đắc nội
chứng trí huệ tự nhiên rồi mới hiện trọn khắp sắc thân để diễn thuyết”. Đó là
cách đối trị.
Thứ
ba mươi ba, “vân hà vũ tâm? Vị tu hành như thị pháp, ngã đương thượng
thăng chủng chủng thần biến” (thế nào là tâm múa? Tức là tu hành pháp
thế, ta sẽ đạt được đủ thứ
thần thông biến hóa): Như người đời khi các chi thể lay động thì gọi là “vũ” (múa).
Thần biến cũng thế, hiện đủ mọi chuyện chưa từng có, khiến cho người xem tâm
tịnh, đẹp mắt. Đây phần nhiều là tập khí còn sót lại của Ngũ Thông
(năm món thần thông). Nếu riêng chuộng nguyện cầu phương tiện Tất Địa như thế, thì cũng sẽ chướng ngại tịnh tâm. Hãy
nên nghĩ tới Trừ Cái Chướng tam-muội, tâm chẳng tán loạn, dao động, thần thông
chẳng khởi lên hay diệt mất để gia trì thần thông biến hóa, đừng tham chút hiệu
nghiệm thế gian. Đó là cách đối trị.
Thứ
ba mươi bốn, “vân hà kích cổ tâm? Vị tu thuận thị pháp, ngã đương kích pháp
cổ” (thế nào là tâm đánh trống? Tức là tu thuận theo pháp này, ta sẽ
đánh trống pháp). Trống có thể cảnh tỉnh, răn nhắc chúng sanh, khiến họ được
giác ngộ. Như hành nhân nghĩ như thế này: “Chúng sanh ngủ say trong đêm dài, ta
nên tập luyện đủ mọi thứ biện tài, gióng trống đại pháp để cảnh tỉnh họ giác
ngộ”. [Tâm niệm ấy] cũng có thể chướng ngại tịnh tâm. Hãy nên nghĩ “sớm
chứng vô lượng Ngữ Ngôn Đà-la-ni, dùng âm thanh mầu nhiệm của cái trống trời để
bảo trọn khắp hết thảy đại chúng”, chớ để lợi ích nhỏ nhoi của thế gian
ngăn ngại đại sự nhân duyên. Đó là cách đối trị cái tâm ấy.
Thứ
ba mươi lăm, “vân hà thất trạch tâm? Vị thuận tu tự hộ thân pháp” (thế
nào là tâm nhà cửa? Tức là tùy thuận tu tập pháp tự bảo vệ thân). Như người xây
cất nhà cửa để bảo vệ thân này, tránh khỏi các thứ chuyện chẳng lợi ích như
lạnh nóng, mưa, gió, đạo tặc, trùng ác v.v… Tâm này cũng thế: “Ta nên
trì giới, tu thiện để tự phòng hộ, khiến cho đời này và đời sau xa lìa các nỗi
khổ trong ác đạo”. Đấy phần nhiều là tập khí Thanh Văn. Hãy nên nghĩ cứu giúp,
che chở hết thảy chúng sanh, chẳng riêng một mình ta. Đấy là cách đối trị.
Thứ
ba mươi sáu, “vân hà sư tử tâm? Vị tu hành nhất thiết vô khiếp nhược
pháp” (thế nào là tâm sư tử? Tức là tu hành hết thảy pháp chẳng khiếp
nhược). Như trong các loài thú, sư tử tới đâu cũng đều vượt trội, chẳng hề
khiếp nhược. Cái tâm này cũng thế, trong hết thảy các sự, đều muốn vượt xa hết
thảy mọi người, tâm chẳng khiếp nhược. Tự tâm cho rằng chẳng có nạn sự, chẳng
có gì có thể tranh đua hơn
kém cùng ta được. Nếu đã tự nhận biết, hãy nên phát Thích Ca sư tử tâm, khiến
cho hết thảy chúng sanh thù thắng trọn khắp, chẳng có hơn kém. Đó là cách đối
trị.
Thứ
ba mươi bảy, “vân hà hưu lưu tâm? Vị thường ám dạ tư niệm” (thế
nào là tâm cú vọ? Tức là thường nghĩ nhớ đêm tối). Loài chim này ở chỗ sáng
bừng sẽ chẳng thể làm gì, ban đêm thì sáu căn nhanh nhẹn. Nếu hành giả ban ngày
tuy được nghe, tụng niệm, tu tập, nhưng mờ mịt, chẳng đạt được thiện xảo, đến
tối nghĩ nhớ chuyện đã làm, suy tính lần nữa, sẽ liền hiểu rõ. Cho đến tu Thiền
Quán v.v… cũng coi chỗ tối tăm là chỗ thù thắng. Nếu đã nhận biết, hãy nên
nghĩ “sáng tối bình đẳng”, khiến cho tâm ý chẳng dấy lên phân
biệt ngày đêm. Đó là cách đối trị.
Thứ
ba mươi tám, “vân hà ô tâm? Vị nhất thiết xứ, kinh bố tư niệm” (thế
nào là tâm quạ? Tức là trong hết thảy chỗ, nghĩ nhớ kinh sợ). Như chim quạ, nếu
có người do tâm tốt lành mà gần gũi, nuôi nấng, hoặc kẻ tìm cách lợi dụng, nó đều sanh lòng ngờ vực, sợ hãi. Cái tâm
này cũng giống như thế, đối với bạn lành muốn tạo lợi ích và kẻ hãm hại, gây
khốn đốn, đều nhất loạt ôm lòng dò xét, xa cách, ngờ vực, sợ hãi. Cho tới khi
trì giới, tu điều thiện, cũng ôm lòng kinh sợ đối với sanh tử. Nếu đã nhận
biết, hãy nên tu tâm an định vô úy. Đấy là cách đối trị cái tâm ấy.
Thứ
ba mươi chín, “vân hà La Sát tâm? Vị ư thiện trung, phát khởi bất
thiện” (thế nào là tâm La Sát? Tức là ở trong điều thiện, phát khởi
bất thiện). Như người thấy làm việc thiện, luôn nghĩ là bất thiện. Đức Phật
nói “tạo
các tháp miếu, đắc vô lượng phước”, nhưng kẻ đó nói ngược lại như thế
này: “Do chuyện này, đâm ra tổn hại vô lượng trùng nhỏ, phiền nhiễu thí chủ,
lợi ích chỗ nào? Sẽ chịu khổ báo”. “Phát khởi” là nói sanh
khởi các tâm bất thiện như thế đó. Trong ấy, chỉ quán công đức lợi ích, chẳng
nghĩ tới khuôn khổ để đối trị.
Thứ
bốn mươi, “vân hà thích tâm? Vị nhất thiết xứ, ác tác vi tánh” (thế
nào là tâm đâm chọc? Trong hết thảy các chỗ, quen tánh làm ác). Giống như rừng
gai, ở mọi nơi đều gây nhiều tổn hại, khiến cho người gần nó bất an. Tâm này
cũng thế. Nếu làm thiện sự như bố thí to lớn v.v…, đã làm xong liền sanh tâm hối tiếc. Nếu
làm chuyện ác xong, lại tự suy nghĩ, cũng ôm lòng thẹn thùng, sợ hãi. Vì thế,
thường ôm lòng làm ác, lo lắng chẳng yên. Ở đây, cách đối trị là nếu có sai
phạm, liền nhanh chóng sám trừ, đừng sanh hối tiếc. Hành thiện sự, cũng nên tự
tư duy, sanh tâm vui mừng.
(Kinh) Vân
hà quật tâm? Vị thuận tu vi nhập quật pháp. Vân hà phong tâm? Vị biến nhất
thiết xứ, phát khởi vi tánh. Vân hà thủy tâm? Vị thuận tu tẩy trạc nhất thiết
bất thiện pháp. Vân hà hỏa tâm? Vị xí thịnh viêm nhiệt tánh. Vân hà hiển sắc
tâm? Vị loại bỉ vi tánh. Vân hà bản tâm? Vị thuận tu tùy lượng pháp, xả khí dư
thiện cố. Vân hà mê tâm? Vị sở chấp dị, sở tư dị. Vân hà độc dược tâm? Vị thuận
tu vô sanh phần pháp. Vân hà quyến sách tâm? Vị nhất thiết xứ, trụ ư ngã phược
vi tánh. Vân hà giới tâm? Vị nhị túc chỉ trụ vi tánh.
(經)云何窟心?謂順修為入窟法。云何風心?謂遍一切處發起為性。云何水心?謂順修洗濯一切不善法。云何火心?謂熾盛炎熱性。云何顯色心?謂類彼為性。云何板心?謂順修隨量法,捨棄餘善故。云何迷心?謂所執異所思異。云何毒藥心?謂順修無生分法。云何羂索心?謂一切處住於我縛為性。云何械心?謂二足止住為性。
(Kinh: Thế
nào là tâm hang hốc? Tức là thuận theo, tu pháp vào hang. Thế nào là tâm gió?
Tức là tâm có tánh phát khởi trọn khắp hết thảy mọi nơi. Thế nào là tâm nước?
Tức là tùy thuận tu tập để gột rửa hết thảy các pháp chẳng lành. Thế nào
là tâm lửa? Tức là tánh nóng bức hừng hực. Thế nào là tâm hiển sắc? Tức là có
tánh phỏng theo kẻ khác. Thế nào là tâm như miếng ván? Tức là tùy thuận tu theo
pháp vừa sức mình, vứt bỏ các điều thiện khác. Thế nào là tâm mê? Tức là chấp
trước khác lạ, suy nghĩ khác lạ. Thế nào là tâm thuốc độc? Tức là tùy thuận
tu theo pháp
chẳng còn lẽ sống. Thế nào là tâm như dây trói? Tức là trong hết thảy mọi nơi,
tánh trụ trong sự trói buộc của ngã. Thế nào là tâm cùm? Tức có tánh chất kìm
hãm hai chân [chẳng thể tiến cao hơn được].
Thứ
bốn mươi mốt, “vân hà quật tâm? Vị thuận tu vi nhập quật pháp” (thế
nào là tâm hang hốc? Tức là tùy thuận tu tập pháp để vào hang hốc), ý nói các
loài rồng, A Tu La v.v… đều ở trong hang sâu dưới mặt đất, hoặc đáy biển, có
nhiều thần tiên, các loại thuốc có thể khiến cho họ trường thọ, tự tại. Có lẽ hành
giả nghĩ trong số đó có nhiều mỹ nữ, đoan chánh giống như chư thiên, có thể
chẳng lo chết yểu,
mặc sức hưởng ngũ dục. Hoặc nghĩ lưu lại trong đó để thọ trọn kiếp hòng thấy
chư Phật trong vị lai. Đấy đều là cái tâm hang hốc. Hãy nên nghĩ đúng như pháp
tu hành, có thể ngay trong đời này thấy pháp, hiểu đạo, cho đến thành Phật,
chớ nên lần chần, quẩn quanh nghĩ tưởng pháp thiên tiên thế gian ấy. Đó là cách
đối trị.
Thứ
bốn mươi hai, “vân hà phong tâm? Vị biến nhất thiết xứ phát khởi vi
tánh” (thế nào là tâm gió? Tức là có tánh phát khởi trọn hết thảy mọi
nơi). Tánh gió là tán loạn, vì nó chẳng trụ. Tâm người này cũng thế, gieo thiện
căn hết thảy mọi nơi, tức là trong ngoại đạo thế gian, các thứ thiên tôn, và
các người hành tam thừa đều có phần, nghĩ như thế này: “Như nhiều hạt giống
[được gieo] trọn khắp mọi nơi, sẽ có hạt trưởng thành”. Như thế chính là tâm gió.
Hãy nên nghĩ ruộng khô cằn, hao phí hạt giống; hãy nên cầu ở chỗ ruộng tốt màu
mỡ, chuyên tâm cày bừa, ắt thu hoạch được nhiều. Đó là cách đối trị.
Thứ
bốn mươi ba, “vân hà thủy tâm? Vị thuận tu tẩy trạc nhất thiết bất
thiện pháp” (thế nào là tâm nước? Tức là thuận theo cách tu gột rửa
hết thảy pháp chẳng lành). Như tánh của nước là thanh khiết, tuy tạm bị các
chất nhơ nhuốm bẩn, hễ lắng trong bèn thanh tịnh, lại có thể gột trừ cấu uế.
Tâm người này cũng vậy, thường muốn bộc lộ xấu ác, sám hối gột rửa các tội nơi
ba nghiệp. Do thấy cái này là nhơ, cái kia là tịnh, [bèn nghĩ] “ta hành như
thế”, như vậy thì có thể chướng ngại tịnh tâm. Chỉ nên quán Thật Tướng của cái
tâm, hiểu rõ cấu pháp vốn chẳng sanh, sẽ tự có thể trừ hết thảy cái chướng. Đó là
hạnh để đối trị cái tâm ấy.
Thứ
bốn mươi bốn, “vân hà hỏa tâm? Vị xí thịnh viêm nhiệt vi tánh” (thế
nào là tánh lửa? Tức nóng bức hừng hực làm tánh). Như tánh của lửa là chói lòa,
hừng hực. Tâm người này cũng thế. Nếu khi làm lành thì trong khoảnh khắc có thể
thành tựu vô lượng công đức, tạo ác thì cũng trong một ít thời gian mà thành
nghiệp cực nặng. Hạnh đối trị ở đây là phải nên tư duy cái tâm mạnh bạo sẽ gây
ra nhiều thất bại, tổn thương, dùng nước phương tiện “nhu hòa, từ thiện” để diệt, chú trọng hăm hở làm lành
lâu dài để đối trị cái tâm ấy.
Thứ
bốn mươi lăm là “tâm bùn”, bản tiếng Phạn thiếu phần kinh văn
giải thích [cái tâm này]. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Đây chính là cái tâm
một mực vô minh. Thậm chí đối với chuyện gần ngay trước mắt, cũng chẳng thể
phân biệt, ghi nhớ. Vì thế, luật nói [cái tâm ấy] giống như viên bùn. Lại như
bùn lầy, do nhão nhoét, khó thể vượt qua được. Phải có thứ khác để nhờ cậy, tức
là nhờ vào cầu, bến v.v… thì mới có thể vượt qua. Nếu nhận biết có phương tiện
ấy, ắt phải quay về nương tựa bạn lành, khiến cho phương tiện khai phát, mới có
thể dần dần trừ khử vô tri, huệ tánh sanh trở lại”.
Thứ
bốn mươi sáu, “vân hà hiển sắc tâm? Vị loại bỉ vi tánh” (thế
nào là tâm hiển sắc? Tức là có tánh phỏng theo kẻ khác). Ví như màu nhuộm xanh,
vàng, đỏ, trắng v.v… Nếu thả sợi tơ trắng vào đó, nó sẽ có cùng màu. Tâm người
ấy cũng giống như thế! Thấy, nghe thiện pháp cũng hành theo hạnh đó; thấy nghe
chuyện ác cũng thuận theo mà tu học. Cho tới đối với vô ký (chẳng thiện, chẳng
ác) cũng thế. Đối với các thứ cảnh giới, đều tùy theo sự mà đổi dời. Hành nhân đã nhận biết
rồi, hãy nên nghĩ chuyên cầu pháp tự chứng, chẳng do người khác mà ngộ, chẳng
bị duyên khác xoay chuyển. Đó là cách đối trị cái tâm ấy.
Thứ
bốn mươi bảy, “vân hà bản tâm? Vị thuận tu tùy lượng pháp, khí xả dư
thiện cố” (thế nào là tâm như miếng ván? Tức là tùy thuận tu theo pháp
xứng với tâm lượng, vứt bỏ các thiện pháp khác). Như miếng ván thả vào nước,
tùy theo phân lượng mà chở các vật. Quá mức đó, nó sẽ không duy trì được, rốt
cuộc phải nghiêng đổ đi. Tâm người này cũng thế, chọn lựa nghiệp thiện pháp,
tùy sức mình hành được một pháp, liền nói như thế này: “Từ trước tới nay, ta
chỉ hành pháp này, chẳng biết chi khác”. Thậm chí tu tập, hành trì Bát Quan Trai liền chẳng xả lìa, lại chẳng hâm mộ hành theo
các điều thiện khác. Hãy dùng phát tâm rộng lớn để học Bồ Đề hạnh; đó là cách đối trị.
Thứ
bốn mươi tám, “vân hà mê tâm? Vị sở chấp dị, sở tư dị” (thế
nào là tâm mê? Tức là chấp trước khác lạ, suy nghĩ khác lạ). Như người vì mê, ý
muốn đi qua Đông mà lại hướng về Tây. Tâm người này cũng giống như
thế, ý muốn học Bất Tịnh Quán
mà đâm ra chấp tướng tịnh, tự cho rằng ta nay tu Bất Tịnh Quán. Nếu khi tu vô
thường, vô ngã, đâm ra hành “thường, ngã điên đảo”, cho rằng “ta nay tu vô thường, vô ngã”. Do tâm tán loạn, nên khiến thành ra như
vậy. Hãy nên niệm chuyên nhất cái tâm, quán sát kỹ càng, cặn kẽ, an tường, chẳng điên đảo để đối trị
cái tâm ấy.
Thứ
bốn mươi chín, “vân hà độc dược tâm? Vị thuận tu vô sanh phần pháp” (thế
nào là tâm thuốc độc? Tức là tùy thuận tu theo pháp không có lẽ sống). “Độc” là
các thứ chất độc từ rồng, rắn, dược thảo. Như người trúng độc mê ngất, chuyển
sang cái chết, chẳng có lẽ sống! Tâm người này cũng thế, chẳng sanh thiện tâm,
mà cũng chẳng sanh ác tâm, cho tới hết thảy các tâm đều chẳng thể sanh khởi,
chỉ tùy ý mà hành, dần dần nhập vào vô nhân, vô quả. Vì thế, gọi là “chẳng
có lẽ sống”. Hành nhân đã tự hiểu biết rồi, hãy nên phát khởi các điều
thiện đại bi, lìa đoạn diệt Không; đấy được gọi là “cam lộ diệu dược”.
Thứ
năm mươi, “vân hà quyến sách tâm? Vị nhất thiết xứ, trụ ư ngã phược vi
tánh” (thế nào là tâm dây trói? Tức là trong hết thảy chỗ, trụ trong
sự trói buộc của cái ngã làm tánh). Như người bị dây thừng trói chặt, thậm chí
tay, chân, chi phần đều chẳng thể chuyển động. Tâm này giống như thế, đọa vào
đoạn kiến ngã phược. Kiến chấp ấy có thể trói buộc cái tâm của hành giả, thậm
chí trong hết thảy mọi chỗ, thường bị trói buộc, chẳng thể tự thoát ra, là loại
chướng nặng nhất. Đã nhận biết rồi, hãy nên mau chóng dùng đao “duyên
khởi chánh huệ” để chặt phăng chướng cái. Đó là cách đối trị.
Thứ
năm mươi mốt, “vân hà giới tâm? Vị nhị túc chỉ trụ vi tánh” (thế
nào là tâm cùm? Tức là có tánh chất ngăn chặn hai chân). [Hình cụ] nơi tay
là Sửu (杻,
còng), nơi chân là Giới (械, cùm). Như người bị cùm, hai chân bị chặn
lại chẳng thể tiến lên. Tâm này cũng thế, thường chuộng ngồi ngay ngắn,
hoặc đứng lặng mà tu định tâm và quán sát pháp nghĩa. Vì bị câu thúc như thế,
nên gọi là “tâm cùm”. Hạnh để đối trị là hãy nên trong hết
thảy các thời, xứ, đều tư duy tu tập, khiến cho tĩnh và loạn chẳng cách biệt.
Đó là cách đối trị.
(Kinh) Vân
hà vân tâm? Vị thường tác giáng vũ tư niệm. Vân hà điền tâm? Vị thường như thị
tu sự tự thân. Vân hà diêm tâm? Vị sở tư niệm bỉ phục tăng gia tư niệm. Vân hà
thế đao tâm? Vị duy như thị y chỉ thế trừ pháp. Vân hà Di Lô đẳng tâm? Vị
thường tư duy, tâm cao cử vi tánh. Vân hà hải đẳng tâm? Vị thường như thị thọ
dụng tự thân nhi trụ. Vân hà huyệt đẳng tâm? Vị tiên quyết định bỉ, hậu phục
biến cải vi tánh. Vân hà thọ sanh tâm? Vị chư hữu tu tập hạnh nghiệp, bỉ sanh
tâm như thị đồng tánh.
(經)云何雲心?謂常作降雨思念。云何田心?謂常如是修事自身。云何鹽心?謂所思念彼復增加思念。云何剃刀心?謂唯如是依止剃除法。云何彌盧等心?謂常思惟心高舉為性。云何海等心?謂常如是受用自身而住。云何穴等心?謂先決定彼,後復變改為性。云何受生心?謂諸有修習行業,彼生心如是同性。
(Kinh: Thế
nào là tâm mây? Tức là thường suy nghĩ tuôn mưa. Thế nào là tâm ruộng? Tức là
thường tu tập phụng sự tự thân như thế. Thế nào là tâm muối? Tức là đối với điều
được suy nghĩ, bèn
tăng thêm ý niệm suy nghĩ. Thế nào là tâm dao cạo? Tức là chỉ nương cậy pháp
trừ bỏ như thế. Thế nào là tâm bằng với núi Di Lô (Tu Di)? Tức là tâm thường
suy nghĩ, có tánh chất cao ngạo. Thế nào là tâm như biển? Tức là thường thọ
dụng tự thân như thế mà trụ. Thế nào là tâm như hầm hố? Tức là trước đó đã
quyết định như thế, về sau lại biến đổi. Thế nào là tâm thọ sanh? Tức là tu tập
hạnh nghiệp trong các cõi, người ấy bèn sanh tâm có cùng tánh chất giống như
thế
Thứ
năm mươi hai, “vân hà vân tâm? Vị thường tác vũ tư niệm” (thế
nào là tâm mây? Tức là thường nghĩ tuôn mưa). Như tại phương Tây, trong ba
tháng Hạ, mưa dầm đặc biệt nhiều. Do [mưa dầm] thường dẫn đến trời ẩm ướt, âm
u, nên trong khi ấy, cái tâm theo lệ thường buồn, vui, lo nghĩ chen chúc tăng
trưởng rất nhiều. Vì thế nói là “tác giáng vũ thời tư niệm” (suy
tưởng khi tuôn mưa). Đã nhận biết, hãy nên hành xả tâm, lìa buồn vui thế gian,
tùy thuận pháp hỷ; đó là cách đối trị.
Thứ
năm mươi ba, “vân hà điền tâm? Vị thường như thị tu sự tự thân” (thế
nào là tâm ruộng? Tức là thường chăm sóc bản thân như thế): Như người có ruộng
tốt, thường chăm sóc, cày cuốc, trừ cỏ dại, dùng các thứ phương tiện khiến cho
ruộng được sạch
sẽ. Người này cũng thế, thường chuộng tu sửa cái thân, dùng hương, hoa, vị ngon
v.v… để tưới tắm, bôi trét, phụng dưỡng nó, chú trọng sao cho [thân thể] sáng
sạch, trang nghiêm đẹp đẽ. Đã nhận biết [cái tâm này] rồi, hãy nên thường niệm
hồi hướng công đức ấy để chăm chút cái tâm. Dùng các thứ vật cúng dường như thế
để vun bồi phước điền, giúp thành tựu quả thù thắng. Đó là đối trị cái tâm ấy.
Thứ
năm mươi bốn, “vân hà diêm tâm? Vị sở tư niệm bỉ phục gia tăng tư niệm” (thế
nào là tâm muối? Tức là đối với điều suy nghĩ lại tăng thêm sự suy niệm).
Như tánh của muối là mặn.
Hễ thêm muối vào, sẽ luôn tăng thêm vị mặn. Tâm người này cũng giống như thế,
đối với chuyện suy nghĩ, lại càng thêm nghĩ nhớ. Như lúc nhớ tưởng sắc dục, vừa
sanh khởi ý ấy, lại tự truy cầu: “Tâm này do ai mà sanh? Thành tướng mạo gì?”
Quán tâm này chưa xong, lại tìm tòi suy nghĩ có nhân duyên gì? Như thế bèn vô
cùng tận! Đã nhận biết [cái tâm này] rồi, hãy nên một mực an tâm nơi đế lý, chú
trọng sao cho thấu triệt. Tâm tánh lại ly niệm, chẳng phải là phỏng đoán mà có
thể biết được, chẳng từ trên phân biệt, lại tăng thêm tâm số (tâm sở)!
Thứ
năm mươi lăm, “vân hà thế đao tâm? Vị duy như thị y chỉ thế trừ pháp” (thế
nào tâm dao cạo? Tức là chỉ nương cậy pháp cạo bỏ như thế): Cạo bỏ râu tóc là
hình tướng lìa tục xuất gia. Ý nói người này tâm chỉ nghĩ như thế này: “Ta đã
gạt bỏ tướng thế tục, khiến cho ác pháp chẳng còn nẩy sanh nữa, còn có gì để
cầu?” Hãy nên biết cái tâm ấy xấu nhất, do tự lập ngằn hạn, có thể tước bỏ tất
cả thiện căn, khiến cho chúng nó
chẳng thể sanh! Hãy nên nghĩ tới điều đáng nên đoạn của hết thảy thánh hiền,
tức Vô Minh Trụ Địa là cái gốc của Tam Độc. Nếu có thể cạo bỏ nó, khiến cho vọng tưởng
chẳng sanh, thì mới gọi là xuất gia thật sự.
Thứ
năm mươi sáu, “vân hà Di Lô đẳng tâm? Vị thường tư duy tâm cao cử vi
tánh” (thế nào là tâm bằng với núi Tu Di? Tức là tâm thường tư duy,
mang tánh cao ngạo). Như núi Tu Di cao vượt các ngọn núi khác, không gì có thể
cao hơn được. Tâm người này cũng thế, thường có tánh cao ngạo, thậm chí đối với
sư tăng, cha mẹ v.v… là các bậc đáng tôn kính, đều chẳng thể nhún mình, khác
nào tràng cao chẳng thể uốn cong. Nếu muốn uốn cong, ắt sẽ gãy, trọn chẳng thể
thay đổi thái độ thường nhật. Dùng nhẫn nhục, khiêm tốn, nhún mình, tưởng hết
thảy chúng sanh là đại sư; [đó là cách] để đối
trị [cái tâm này].
Thứ
năm mươi bảy, “vân hà hải đẳng tâm? Vị thường như thị thọ dụng tự thân
nhi trụ” (thế nào là tâm bằng biển? Tức là tự thân thường trụ trong
thọ dụng như thế): Ví như biển cả, trăm sông đổ vào, dung nạp vô hạn. Tâm này
cũng thế, hết thảy các sự thù thắng đều quy vào chính mình, tức là tỵ hiềm kẻ
khác chẳng có ai sánh bằng mình, thường tự chấp [chính mình] có nhiều sở trường
như thế, tự hưởng thụ điều đó mà trụ. Cái tâm trước (tâm bằng núi Tu Di) chú
trọng cao ngạo, còn tâm này chú trọng rộng nhiều. Vì thế nói là “bằng
với biển”. Hành giả đã nhận biết, hãy nên nghĩ tới biển công đức lớn vô lượng của Tam Hiền
Thập Thánh lần lần sâu rộng, tự nhắc nhở tâm hạnh của chính mình chưa thể bằng
một mảy trần, một giọt nước, chớ nên khởi tâm đại mạn!
Thứ
năm mươi tám, “vân hà huyệt đẳng tâm? Vị tiên quyết định bỉ, hậu phục
biến cải vi tánh” (thế nào là tâm như hang hốc? Tức là bản tánh trước
đó đã quyết định, sau lại thay đổi): Ví như đồ đựng nguyên vẹn, cứng chắc, sau
này nếu gặp duyên đục thủng một lỗ, sẽ chẳng thể kham dùng được nữa. Tâm này
cũng thế, thoạt đầu thì thọ trì nhiều, về sau rò rỉ đôi chút. Hoặc lúc sơ phát
tâm thọ giới thì trọn đủ chẳng thiếu, chẳng lâu sau, dần dần sanh ra pháp rò rỉ, giống như đồ đựng đã hư,
chẳng thể giữ
được pháp thủy. Phàm những trường hợp như thế, đều gọi là “huyệt tâm”. Vì
thế, hành giả thường giữ sao cho mọi việc đã làm đều đến đầu đến đũa. Lại biết
tánh mình hay thay đổi, đó chính là
điều chướng ngại nhất cho Bồ Đề tâm kiên cố; dùng
đó để đối trị cái tâm ấy.
Thứ
năm mươi chín, “vân hà thọ sanh tâm? Vị chư hữu tu tập hạnh nghiệp bỉ
sanh tâm như thị đồng tánh” (thế nào là tâm thọ sanh? Tức là tu tập
hạnh nghiệp trong các cõi, sanh tâm có cùng tánh chất giống như thế). Như người
do bạch nghiệp và hắc nghiệp mà hứng chịu quả báo thiện hay ác, do đã tạo đủ
mọi thứ xen tạp, bèn thọ vô lượng thân sai biệt này nọ. Tâm này cũng thế, các
hạnh đã tu đều muốn hồi hướng thọ sanh; hãy nên biết cái quả đạt được cũng kiêm
thiện ác. Vì thế, hành giả hãy nghĩ thật sự chọn lựa thiện ác, trừ khử điều bất
thiện, thuần tu bạch pháp. Trong các điều thiện như thế, lại chọn lấy huệ, bỏ
đi những quặng thô. Lần lượt như thế, cho đến được thành tựu diệu quả đề hồ
thanh tịnh thuần nhất. Đó là cách đối trị.
Tâm
thứ sáu mươi, bản tiếng Phạn thiếu phần kinh văn, [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Thiếu
phần nói về tâm khỉ vượn. Tánh của khỉ vượn là thân tâm tán loạn, thường chẳng
thể tạm yên. Hành nhân cũng thế, tánh xáo động, chẳng yên, cho nên nắm
níu nhiều thứ, giống như khỉ vượn nắm cái này, buông cái kia”. Nói
đại lược, chúng sanh toàn là
như thế cả, ở đây nói riêng về kẻ tâm này quá thịnh. Trong ấy, dùng tâm tưởng
“chẳng thuận theo động mà tán loạn, buộc duyên nơi một cảnh” để đối trị. Giống
như nếu buộc khỉ vượn vào cột, nó chẳng còn tùy hứng nhảy nhót, quăng ném, nhào
lộn; đó là cách đối trị. Nhưng sáu mươi cái tâm ấy, có thể là có lúc bản tánh
của hành giả đặc biệt nhiều, hoặc do hành đạo mà dấy động tập khí từ trước,
hoặc có lúc tưng bừng dấy lên, hoặc lần lượt sanh khởi; hãy nên trong hết thảy
mọi lúc đều lưu tâm nhận biết, quán sát, tự nhiên sẽ đạt được cái tâm Bồ Đề
thuần tịnh. Nếu bậc A-xà-lê vì đệ tử bình ổn cái tâm thì cũng nên nhất nhất
chọn lựa để trừ khử vậy.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ tái số, phàm bách lục thập tâm, việt thế
gian tam vọng chấp, xuất thế gian tâm sanh, vị như thị giải duy Uẩn vô Ngã,
Căn, Cảnh, Giới, yêm lưu tu hành, bạt nghiệp phiền não chu ngột, vô minh
chủng tử, sanh thập nhị nhân duyên ly kiến lập tông đẳng. Như thị trạm tịch,
nhất thiết ngoại đạo sở bất năng tri. Tiên Phật tuyên thuyết, ly nhất thiết
quá.
(經)祕密主!一二三四五再數,凡百六十心,越世間三妄執出世間心生,謂如是解唯蘊無我根境界,淹留修行拔業煩惱株杌、無明種子,生十二因緣離建立宗等。如是湛寂,一切外道所不能知。先佛宣說,離一切過。
(Kinh: Bí
Mật Chủ! Gấp đôi một, hai, ba, bốn, năm lần [năm căn bản phiền não], sẽ thành
một trăm sáu mươi tâm, vượt khỏi ba tầng chấp trước hư vọng thuộc thế gian, tâm
xuất thế gian sanh ra, tức là hiểu “chỉ có Uẩn, không có Ngã, Căn, Cảnh, Giới”
như thế, tu hành dằng dai[3] hòng nhổ trừ cội gốc của
nghiệp và phiền não, chủng tử vô minh, sanh, mười hai nhân duyên, lìa các thứ
đề xướng kiến lập v.v… Sự tĩnh lặng sâu lắng như thế, hết thảy ngoại đạo đều
chẳng thể biết. Điều được Phật tuyên nói trên đây lìa hết thảy lỗi).
Đây
cũng là giải đáp [câu hỏi] về các tâm tướng và các sự khác lạ của tâm. Do có vô
minh, sanh ra năm món tâm phiền não căn bản, tức là tham, sân, si, mạn, nghi.
Sở dĩ chẳng nói tới ngũ kiến, do chúng thuộc về Kiến phiền não, phần nhiều
thuộc vào sáu mươi tâm. Năm căn bản phiền não ấy, gấp đôi lần thứ nhất thành
mười, gấp đôi lần thứ hai thành hai mươi, gấp đôi lần thứ ba thành bốn mươi,
gấp đôi lần thứ tư thành tám mươi, gấp đôi lần thứ năm thành một trăm sáu mươi
tâm. Vì thế nói: “Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ tái số, thành bách lục thập
tâm” ([lần lượt] gấp đôi một, hai, ba, bốn, năm lần, [năm tâm căn bản
phiền não] sẽ thành một trăm sáu mươi tâm). Do tâm phiền não của chúng sanh
thường nương vào hai pháp, chẳng đạt được Trung Đạo. Vì thế, tùy theo sự, do
khác tên, liền tách thành hai. Từ trong cái “hai” ấy, lại lần lượt chia nhỏ
hơn, danh tướng của chúng thì như trong mười vạn bài kệ đã nói cặn kẽ. Nếu lại
xét theo chín phẩm thượng, trung, hạ v.v… sẽ thành tám vạn bốn ngàn trần lao,
nói rộng ra bèn thành vô lượng. Ví như từ một hạt giống, sanh ra năm thứ căn
bản, từ một gốc cây mà tách thành hai nhánh, [lần lượt tách nhánh như thế] tới
lần thứ năm thì thành một trăm sáu mươi cành “tâm” nhỏ. Từ đấy trở đi, lại càng tách ra
nhiều hơn, tức là cành lá chẳng thể kể xiết!
Lại
như thuở kiếp sơ, con người đều là hóa sanh, dùng niệm làm thức ăn, thân quang
tự nhiên an lạc vô ngại. Nhưng do chẳng biết Thật Tướng của cái tâm, hơi tham
đắm chất béo nơi đất. Do
tham vị ấy nhiều hay ít, mà hình sắc, dung mạo theo đó đổi khác, cái tâm “đúng, sai, thắng, thua” do vậy mà nẩy sanh. Do có tâm kiêu
mạn, phước lợi suy giảm, chất béo nơi đất ẩn mất, cho đến địa phu tràn trề cũng
ẩn chẳng hiện[4]. Kế đó, do ăn gạo tẻ, tự
nhiên mới có nam, nữ v.v… Dâm, trộm, giết, dối trá v.v… các thứ phi pháp lần
lượt khởi lên. Chuyện này được nói cặn kẽ trong kinh A Hàm. Từ đấy tới nay, có
đủ loại dòng họ, đủ loại phong tục địa phương, dấy lên đủ mọi nghiệp phiền não
kết, tạo thành đủ mọi đường chúng sanh, tạo ra đủ loại thân Ngũ Ấm, nếu chẳng
phải là bậc Nhất Thiết Trí, sẽ chẳng thể biết rõ cành nhánh! Sở dĩ các vị
A-xà-lê dùng chuyện này để khuyên dạy con người, là vì muốn biểu thị từ một cái
tâm vô minh, do thuận
theo sự việc mà chia nhỏ ra, trở thành A-tăng-kỳ chấp trước hư vọng.
“Việt
thế gian tam vọng chấp, xuất thế gian tâm sanh” (vượt khỏi ba tầng
chấp trước hư vọng, cái tâm xuất thế gian nẩy sanh): Nếu dùng Bồ Đề tâm thanh
tịnh làm tâm xuất thế gian, chính là siêu việt hạnh Du Kỳ trong ba kiếp. [Kiếp]
trong tiếng Phạn là Kiếp-bả (Kalpa), có hai nghĩa: Một là thời phần (một khoảng
thời gian nhất định), hai là vọng chấp (chấp trước hư vọng). Nếu giải thích
theo cách thông thường, thì vượt qua ba A-tăng-kỳ kiếp, sẽ được thành Chánh
Giác. Nếu giải thích theo lối bí mật, vượt thoát hạnh Du Kỳ trong một kiếp, tức
là: Vượt thoát một tầng chấp trước thô thiển trong một trăm sáu mươi tâm, sẽ
được gọi là “một A-tăng-kỳ kiếp”. Vượt khỏi hai kiếp hành Du Kỳ hạnh, lại vượt
thoát một tầng chấp trước hư vọng vi tế trong một trăm sáu mươi tâm, thì gọi là
“hai A-tăng-kỳ kiếp”. Hành giả Chân Ngôn môn lại vượt một kiếp, vượt thoát một
tầng chấp trước hư vọng cực vi tế trong một trăm sáu mươi tâm, sẽ đạt tới sơ
tâm trong Phật huệ. Vì thế nói là “ba A-tăng-kỳ kiếp thành Phật”. Nếu
trong một đời mà vượt thoát ba tầng chấp trước hư vọng, sẽ thành Phật ngay
trong một đời, còn luận định thời phần chi nữa? Nhưng ngay trong tầng thứ nhất, lúc tối sơ đã liễu giải “chỉ có
Uẩn, vô ngã”, liền gọi
là “tâm xuất thế gian sanh”. Vượt thoát khỏi sáu mươi tâm thế
gian [như đã nói trên đây], lìa khỏi căn bản Tam Độc do ngã điên đảo sanh ra,
thì gọi là “việt tam trùng chấp” (vượt khỏi ba tầng chấp
trước).
Lại
còn có ba thứ chấp trước hư vọng, tức là tu hành dằng dai nơi căn, cảnh,
giới. “Căn” là sáu căn, “cảnh” là sáu
trần, “giới” là sáu thức giới. Do trong ngoài mười hai giới[5] tức là “căn, cảnh”, nên
nói gộp chung. Đấy chỗ vướng mắc của học nhân Tam Quả; vì thế nói là “yêm
lưu tu hành” (tu hành dằng dai).
Lại
có ba thứ vọng chấp, tức là nghiệp, cội gốc phiền não, và chủng tử vô minh, tức
là chỗ khó đoạn nhất của bậc thánh nhân Vô Học. Cho nên có “ba thứ chấp trước
hư vọng” vậy.
Người
học Ma Ha Diễn (Đại Thừa), thoạt đầu đạt được sơ tâm xuất thế, bằng với Kiến
Đạo của Tiểu Thừa, nhưng chẳng đọa trong chánh vị của Thanh Văn. Vì lẽ nào vậy?
Do họ từ sơ phát tâm đã biết: Tâm tánh chỉ vì bị cái ngã điên đảo che lấp mà
chưa thể hiện tiền. Lúc bấy giờ, quán kỹ Ấm, Giới, Nhập v.v… đều từ duyên sanh,
biến đổi vô thường; trong ấy, cái gì là Thần? Suy tìm như thế, liền hiểu rõ
Thần vốn bất sanh, vượt thoát vô lượng lưới kiến chấp, Bồ Đề tâm thanh tịnh
sáng thêm ít phần. Do đạt được thế lực của Bồ Đề tâm, cho nên chẳng đọa vào địa
vị Nhị Thừa; nhưng
do tâm hành giả có Pháp Chấp, nếu lúc tu Thiền Định đạo phẩm và các thứ Độ, tuy
chẳng từ đó khởi lên các thứ điên đảo về ngã, nhưng do tâm trụ trong các pháp
như Thiền, Huệ v.v… dùng dằng, trì trệ, chẳng thể nhanh chóng đạt tới Bồ Đề. Do
chẳng như thật khéo vượt thoát, nên gọi là “yêm lưu tu hành” (dằng
dai tu hành); nhưng
cũng đã lìa đôi chút ba thứ chấp thuộc địa vị thấp hơn, có thể dẹp trừ chủng tử
của căn bản vô minh trong nghiệp phiền não, sanh khởi sự hiểu biết về mười hai
nhân duyên. Pháp rất sâu như thế, dù có Phật hay không có Phật [xuất thế], tánh
và tướng vẫn thường như vậy. Như trong phần trước đã nói, các thứ chấp trước so
đo như “kiến lập tịnh, chẳng kiến lập vô tịnh” v.v… đều chẳng
tương ứng. Thậm chí trong tự tâm của các vị đại luận sư như Trường Trảo, Tiên
Ni v.v… dùng trí huệ lợi căn để suy tìm Thật Tướng của các pháp, cũng đều chẳng
thể suy lường được! Nghĩa của mười hai nhân duyên như trong các kinh Đạo Can
v.v… đã nói tỉ mỉ.
Nói “trạm
tịch” thì Tịch nghĩa là bất sanh, tức năm căn bản phiền não và một
trăm sáu mươi tùy phiền não v.v… đều rốt ráo chẳng sanh, nên gọi là Tịch. “Trạm” nghĩa
là rất sâu. Ví như đầm nước trong, sâu vạn nhận[6], lặng trong xuyên thấu như gương.
Người đến nhìn, chẳng lường
được đầm sâu
hay cạn. Vì thế, nói “ba con thú vượt sông, xét theo vết chân mà mỗi
con thú đạp tới, chỉ riêng đại hương tượng vương có thể từ cạn tới sâu,
đạp thấu tận đáy sông”. Ở đây, người thuộc tam thừa cùng dùng
đạo vô ngôn thuyết để thấu đạt Thật Tướng của các pháp, nhưng Thanh Văn nhập
pháp tánh cạn nhất. Do vậy, họ
chán sợ sanh tử, tự nói là “đã đắc Niết Bàn”, sanh ý tưởng
diệt độ. Bích Chi Phật nhập sâu hơn, cho nên đối với sanh tử chẳng e ngại cho
lắm, nhưng chưa thể dùng sức phương tiện để phát khởi đại bi. Khi Bồ Tát ngộ
pháp như thế, biết là tâm cấu đã dần dần trừ. Do vậy, tịnh tâm dần hiện. Lúc
bấy giờ, liền dốc sức nơi Bồ Đề tâm, có thể chẳng trụ đạo, mà học các thứ Độ
môn. Vì thế, cùng trong một pháp như trên đây mà thăng trầm khác biệt!
Kinh
dạy “nhất thiết ngoại đạo sở bất năng tri” (hết thảy ngoại đạo
chẳng thể biết): Trong tông này nói có hai loại ngoại đạo:
-
Ngoại ngoại đạo, ví như kẻ đích thân thấy cái đầm trong vắt, đâm ra sanh lòng
sợ hãi, chẳng dám đến gần.
-
Nội ngoại đạo: Tuy có thể bơi lội trong đó, vừa khéo trừ nóng bức, hưởng niềm
vui mát mẻ, nhưng chẳng biết trong ấy có vô lượng bảo vương.
Một
đằng là do chẳng nhập nên không biết, một đằng là tuy nhập mà chẳng biết. Vì
thế, nói là “hết thảy ngoại đạo chẳng thể biết”.
“Tiên
Phật tuyên thuyết ly nhất thiết quá” (điều được chư Phật tuyên nói
trên đây lìa hết thảy lỗi): Ý nói mười phương ba đời chư Phật chỉ có một môn
này, khuyên dụ quần mê thoát khỏi nhà lửa. Chỗ ấy chẳng còn chướng ngại, các hý
luận chẳng sanh. Vì thế, các loại luận sư theo các loại thuyết Nhân Lượng chẳng
thể vượt khỏi lỗi ấy.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Bỉ xuất thế
gian tâm trụ Uẩn trung, hữu như thị huệ tùy sanh. Nhược ư Uẩn đẳng, phát khởi
ly trước, đương quán sát tụ mạt, phù bào, ba tiêu, dương diễm, huyễn đẳng, nhi
đắc giải thoát, vị Uẩn, Xứ, Giới, năng chấp, sở chấp, giai ly pháp tánh. Như
thị chứng tịch nhiên giới, thị danh xuất thế gian tâm. Bí Mật Chủ! Bỉ ly vi
thuận bát tâm tương tục nghiệp phiền não võng, thị siêu việt nhất kiếp Du Kỳ
hạnh.
(經)祕密主!彼出世間心住蘊中,有如是慧隨生。若於蘊等發起離著,當觀察聚沫、浮泡、芭蕉、陽焰、幻等而得解脫。謂蘊處界能執所執皆離法性,如是證寂然界,是名出世間心。祕密主!彼離違順八心相續業煩惱網,是超越一劫瑜祇行。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Cái tâm xuất
thế gian ấy
trụ trong Uẩn, có huệ như thế tùy thuận sanh khởi. Nếu đối với các thứ như Uẩn
v.v… mà phát
khởi cái tâm lìa chấp trước, hãy nên quán sát bọt nước đọng, bong bóng nước,
cây chuối, ánh nắng gợn, huyễn v.v… để được giải thoát, nghĩa là Uẩn, Xứ, Giới,
cái có thể chấp, cái bị chấp trước đều lìa khỏi pháp tánh. Chứng cảnh giới vắng
lặng như thế, gọi là “tâm xuất thế gian”. Bí Mật Chủ! Tâm ấy lìa khỏi tám tâm
tiếp nối trái nghịch hay tùy thuận thế gian thuộc lưới phiền não, thì gọi là siêu việt hạnh
Du Kỳ trong một kiếp).
Nhưng
chưa vượt thoát pháp chướng, sẽ chẳng thể gọi là “Bồ Đề tâm thật sự
thanh tịnh” được! Như hoa sen tuy đã lìa bùn nhơ, nhưng chưa nổi trên
mặt nước. Vì thế,
kinh nói: “Xuất thế gian tâm trụ Uẩn trung” (tâm xuất thế
gian trụ trong Uẩn). Do hành giả trong Du Già, tuy cái tâm lặng trong đã hiển
lộ rõ ràng, nhưng khi dính líu tới Sự, thì
Căn, Trần, Thức v.v… vẫn còn canh cánh bên lòng. Do chán sợ pháp hữu vi, nên
chấp trước pháp vô vi, nhưng do thế lực của Bồ Đề tâm, tự nhiên chẳng do người
khác dạy [mà phát sanh trí huệ]. Do có trí huệ
thuận theo [thế lực của Bồ Tát tâm] mà sanh ra như thế, bèn có thể từ trong Uẩn
v.v… mà phát khởi cái tâm, tu phương tiện lìa chấp trước, từ năm thí dụ mà quán
sát Vô Tánh Không.
Câu
thứ nhất là “quán sát tụ mạt” (quán sát bọt nước đọng). Giống như bọt nổi trên mặt nước, tuy mắt có
thể thấy đủ mọi hình sắc, nhưng tìm cầu thì tánh [của nó] thật sự trọn chẳng
thể được! Sắc Ấm cũng thế, dù thô hay tế, không gì chẳng sanh từ các duyên. Đã
do duyên sanh, mà sanh thì vô tánh, tức là Sắc vốn bất sanh. Câu kế đó, “phù
bào” là như khi tiết Hạ, trời đổ mưa rào, nước mưa nổi bong bóng, cũng chỉ thuộc
vào các duyên. Dùng bốn câu ấy (quán bọt nước nổi, bong bóng, cây chuối, ánh nắng
gợn) để quán thì đều là chẳng khởi lên hay diệt mất. Thọ Ấm cũng thế, các
chuyện khổ, lạc v.v… đều cùng là do tình (căn) và trần hòa hợp mà sanh. Hễ là
do duyên [mà hiện hữu] thì là vô tánh, tức là Thọ vốn bất sanh. Câu kế đó
là “dương diễm”, như trong tháng Xuân, hơi đất bốc lên, ánh
nắng chiếu vào, nhìn từ xa như có nước. Kẻ mê muội, khát nước, sanh tâm truy
cầu, bươn bả sốt sắng đuổi theo thật xa. Chúng sanh cũng thế, chẳng biết “duyên
khởi tánh Không”, sanh ý tưởng cho rằng có pháp. Kế đó là “ba
tiêu” (cây chuối), Như người tìm cầu lõi chắc của cây chuối, thậm chí
bóc tách từng phần, cho đến gần như chẳng còn gì, vẫn chẳng thể được! Hành Ấm
cũng thế! Hễ hơi dính vào cảnh dấy động, không gì chẳng sanh từ các duyên. Do
duyên sanh thì vô tánh, tức là Hành vốn bất sanh. Kế đó là “huyễn sự”, như
chú thuật hoặc dược lực trong thế gian mê hoặc lòng người, hiện ra đủ mọi thứ
chưa từng có. Thức Ấm cũng thế, từ một niệm vô minh huyễn tâm mà thoạt đầu xuất
hiện tam giới, xét đến cội gốc, sẽ đều là chẳng sanh diệt, đến, đi.
Hãy
nên biết: Do từ các duyên mà sanh thì chẳng có tự tánh, cũng lại vốn là bất
sanh. Trong kinh của Thanh Văn tuy nói năm thí dụ này, nhưng ngụ ý nói về vô
ngã. Nay năm thí dụ ở đây, ý nói “tánh của các Uẩn là Không”. Như
quán Ngũ Uẩn, sẽ biết mười hai Nhập, mười tám Giới, lục nhập, mười hai duyên
v.v… đều nên nói phân biệt tỉ mỉ như trong kinh Đại Bát Nhã đã nói. Khi hành giả
quán sát như thế, từ Vô Tánh Môn, thấu đạt “các pháp tức là Không”, bèn
lìa một tầng pháp điên đảo, biết rõ tâm tánh. Như thế sẽ chẳng bị Uẩn, Giới,
Xứ, năng chấp, sở chấp lay động. Vì thế, gọi là “chứng tịch nhiên
giới”. Khi chứng tịch nhiên giới, sẽ dần dần vượt khỏi cảnh giới Nhị
Thừa, như hoa sen tuy chưa nở xòe, nhưng đã hơi vượt ngoài dòng nước. Hành giả
cũng thế, tâm chẳng còn chìm lỉm trong Uẩn, nên gọi là “xuất thế gian
tâm”. Nếu dịch sát nghĩa, hãy nên nói là “tâm vượt ngoài thế
gian”.
“Bí
Mật Chủ! Bỉ ly vi thuận bát tâm tương tục nghiệp phiền não võng” (Bí
Mật Chủ! Người đó lìa khỏi tám cái tâm liên tục trái nghịch hay tùy thuận thế
gian thuộc lưới phiền não): Như trong phần trước đã nói [các giai đoạn] “chủng tử, rễ, nứt vỏ” v.v… và quy y Tam Bảo là thiện pháp
thực hiện trì trai, bố thí của nhân thiên thừa, đều là tám cái tâm tùy thuận
thế gian. Nếu tam thừa vừa mới phát đạo ý, đạt tới mức dẹp trừ chủng tử của căn
bản vô minh nơi nghiệp phiền não sanh ra mười hai nhân duyên, thì gọi là “vi thế
bát tâm” (tám tâm trái nghịch thế gian). Hoặc xét theo các phần vị như
Kiến Đạo, Tu Đạo v.v… đã có, đều tự có tám tâm. Do hành giả Đại Thừa liễu
đạt “tánh của các Uẩn là Không”, trong hết thảy các pháp đều
chẳng chấp lấy, mà cũng chẳng lìa bỏ, cùng lìa hai thứ tám tâm tùy thuận hay
trái nghịch và Ngã Uẩn thuộc lưới nghiệp phiền não điên đảo, thì gọi “siêu
việt hạnh Du Kỳ trong một kiếp”.
Du
Già dịch nghĩa là “tương ứng”, nếu nói theo [danh từ] giống
cái thì là Du Kỳ (Yogi). Nói “tương ứng” tức là người có quán
hạnh ứng với lý. Giải thích theo lối thông thường, sẽ là Bồ Tát từ sơ phát tâm
cho tới nay, trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp mới chứng tịch nhiên giới như thế.
Nay là tông Bí Mật, chỉ vượt thoát một tầng chấp trước hư vọng này, thì chính là “vượt thoát một
A-tăng-kỳ kiếp”. Khi hành giả chưa vượt khỏi một kiếp ấy, có địa vị
bằng với Bích Chi Phật, thì gọi là “cực vô ngôn thuyết xứ”. Lúc
bấy giờ, tâm trầm trệ nơi pháp tướng vô vi, nếu đánh mất phương tiện, sẽ phần
nhiều đọa trong địa vị Nhị Thừa, chứng Tiểu Niết Bàn. Nhưng do thế lực của Bồ
Đề tâm, vẫn có thể phát khởi bi nguyện. Từ đấy trở đi, đường nẻo của ba thừa
mới tách rời, nhưng do nhân và pháp được quán đều là Không, chưa thật sự cách
biệt vời vợi với các tông như Thành Thật, vì vẫn dựa theo lý Thiên Chân để thực
hiện bình đẳng quán. Vì thế, luận chung tâm xuất thế gian thượng, trung, hạ của
ba thừa thành một A-tăng-kỳ kiếp, cho tới A-tăng-kỳ kiếp thứ hai mới khác hẳn
Nhị Thừa!
(Kinh) Phục thứ Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát
vô duyên thừa tâm, pháp vô ngã tánh. Hà dĩ cố? Như bỉ vãng tích như thị tu
hành giả, quán sát Uẩn A Lại Da, tri tự tánh như huyễn, dương diễm, ảnh, hưởng,
toàn hỏa luân, Càn Thát Bà thành. Bí Mật Chủ! Bỉ như thị xả vô ngã, tâm chủ tự
tại, giác tự tâm bổn bất sanh. Hà dĩ cố? Bí Mật Chủ! Tâm tiền hậu tế bất khả
đắc cố. Như thị tri tự tâm tánh, thị siêu việt nhị kiếp Du Kỳ hạnh. Phục
thứ Bí Mật Chủ! Chân Ngôn môn tu hành Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát vô lượng vô số
bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức, trí huệ, cụ tu
chư hạnh, vô lượng trí huệ phương tiện, giai tất thành tựu. Thiên, nhân, thế
gian chi sở quy y, xuất quá nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật địa, Thích Đề
Hoàn Nhân đẳng, thân cận, kính lễ. Sở vị Không tánh ly ư căn, cảnh, vô
tướng, vô cảnh giới, việt chư hý luận, đẳng hư không, vô biên nhất thiết Phật
pháp y thử tương tục sanh, ly hữu vi, vô vi giới, ly chư tạo tác, ly nhãn, nhĩ,
tỵ, thiệt, thân, ý, cực vô tự tánh tâm sanh. Bí Mật Chủ! Như thị sơ tâm, Phật
thuyết thành Phật nhân cố, ư nghiệp phiền não, giải thoát, nhi nghiệp phiền não
cụ y, thế gian tông phụng, thường ưng cúng dường. Phục thứ Bí
Mật Chủ! Tín giải hạnh địa quán sát tam tâm, vô lượng Ba La Mật Đa huệ quán, Tứ
Nhiếp Pháp, tín giải địa vô đối, vô lượng bất tư nghị, đãi thập tâm vô biên trí
sanh, ngã nhất thiết chư hữu sở thuyết, giai y thử nhi đắc. Thị cố, trí giả
đương tư duy thử Nhất Thiết Trí tín giải địa, phục việt nhất kiếp thăng trụ thử
địa, thử tứ phần chi nhất độ ư tín giải.
(經)復次祕密主!大乘行發無緣乘心、法無我性。何以故?如彼往昔如是修行者觀察蘊阿賴耶,知自性如幻、陽焰、影響、旋火輪、乾闥婆城。祕密主!彼如是捨無我、心主自在、覺自心本不生。何以故?祕密主!心前後際不可得故。如是知自心性,是超越二劫瑜祇行。復次祕密主!真言門修行菩薩行諸菩薩,無量無數百千俱胝那庾多劫積集無量功德智慧,具修諸行,無量智慧方便皆悉成就,天人世間之所歸依,出過一切聲聞辟支佛地,釋提桓因等親近敬禮。所謂空性離於根境,無相無境界,越諸戲論,等虛空,無邊一切佛法依此相續生,離有為無為界、離諸造作、離眼耳鼻舌身意極無自性心生。祕密主!如是初心,佛說成佛因故,於業煩惱解脫,而業煩惱具依,世間宗奉常應供養。復次祕密主!信解行地觀察三心,無量波羅蜜多慧觀四攝法。信解地無對無量不思議,逮十心無邊智生,我一切諸有所說,皆依此而得。是故智者當思惟此一切智信解地,復越一劫昇住此地,此四分之一度於信解。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát khởi tâm vô duyên thừa, do các pháp chẳng có
ngã tánh. Vì sao vậy? Như những vị tu hành xưa kia, quán sát Uẩn, A Lại Da như thế, biết tự tánh như huyễn,
ánh nắng gợn, hình bóng, tiếng vọng, vòng lửa xoay, thành Càn Thát
Bà. Bí Mật Chủ! Họ xả vô ngã như thế, tâm chủ tự tại, nhận biết tự tâm vốn bất
sanh. Vì sao vậy? Bí Mật Chủ! Do tâm trong tiền tế và hậu tế đều chẳng thể
được. Biết tâm tánh như thế, bèn siêu việt hạnh Du Kỳ trong kiếp
thứ hai. Lại này, Bí Mật Chủ! Trong Chân Ngôn môn, các Bồ Tát tu hành Bồ Tát
hạnh trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng
công đức, trí huệ, tu trọn các hạnh, vô lượng phương tiện trí huệ thảy đều
thành tựu, được trời, người,
thế gian quy y, vượt khỏi hết thảy các địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, được
Thích Đề Hoàn Nhân v.v… thân cận, lễ kính. Cái được gọi là “tánh Không” lìa khỏi căn, cảnh, vô tướng, vô cảnh
giới, vượt ngoài các hý luận, giống như hư không, vô biên hết thảy các Phật
pháp nương vào đây mà liên tục sanh, lìa khỏi hữu vi giới và vô vi giới, lìa
các tạo tác, lìa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sanh khởi tâm vô tự tánh tột
bậc. Bí Mật Chủ! Phật nói sơ tâm như thế là cái nhân để thành Phật, tuy giải thoát nghiệp phiền
não mà nghiệp phiền não đều nương trọn vào đó, được thế gian tôn phụng, thường
nên cúng dường. Lại nữa, Bí Mật Chủ! Địa vị Tín Giải Hạnh quán sát tam tâm, vô
lượng Ba La Mật Đa huệ quán, Tứ Nhiếp Pháp, tín giải địa chẳng có đối đãi, vô
lượng chẳng thể nghĩ bàn, do đối ứng với mười tâm mà vô biên trí sanh, hết thảy
những điều ta đã nói đều do nương vào đây mà ra. Vì thế, người trí hãy nên tư
duy Tín Giải Địa thuộc Nhất Thiết Trí này, lại vượt qua một kiếp, tiến lên trụ
trong địa vị này. Đó
là vượt qua được một phần trong bốn phần nơi tín giải).
Kinh
dạy: “Phục thứ Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát vô duyên thừa tâm, pháp
vô ngã tánh. Hà dĩ cố? Như bỉ vãng tích như thị tu hành giả, quán sát Uẩn, A
Lại Da, tri tự tánh như huyễn, dương diễm, ảnh, hưởng, toàn hỏa luân, Càn Thát
Bà thành” (Lại nữa, Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát khởi cái tâm vô
duyên thừa, vì tánh của pháp là vô ngã. Vì sao vậy? Như các vị tu hành xưa kia
quán sát Uẩn và A Lại Da như thế, biết tự tánh như huyễn, ánh nắng gợn, hình
bóng, tiếng vang, vòng lửa xoay, thành Càn Thát Bà), chính là nói tới tầng thứ
hai, tức quán sát tánh của pháp là vô ngã vậy! Tiếng Phạn là Mãng-bát-la (Māpara), tức là “vô nghĩa”, mà
cũng là “tha nghĩa” (nghĩa khác). Nói “tha duyên thừa” tức
là phát đại thệ bình đẳng, vì pháp giới chúng sanh mà hành Bồ Tát đạo, cho
đến đối với “các Nhất Xiển Đề và hàng Nhị Thừa chưa nhập chánh vị”, cũng nên
dùng các thứ phương tiện để chiết phục, nhiếp thọ, khiến cho trọn khắp [mọi căn
tánh] đều cùng nhập thừa này. Do xét theo lòng vô duyên đại bi ấy, nên gọi
là “tha duyên thừa”.
Lại
nữa, “vô duyên thừa” là cho tới A-tăng-kỳ này, mới có thể quán
sát thức A Đà Na[7] sâu xa, vi tế, thấu hiểu “tam giới duy tâm, ngoài tâm chẳng có một
pháp nào để có thể đạt được”! Nương theo cái tâm vô duyên ấy mà
hành đại Bồ Đề đạo, nên gọi là “vô duyên thừa”. Cái tâm vô
duyên thừa ấy chính là “pháp vô ngã tánh” (tánh của pháp là vô
ngã). Do hành giả trong kiếp đầu tiên (A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất), khi tu quán
hạnh, tâm chìm đắm trong Uẩn; vì
thế, dùng năm thứ vô tánh Không môn để quán pháp vô ngã. Nhưng xét theo Duyên
Sanh Trung Đạo, thì vẫn thuộc vào
Đối Trị Tất Đàn. Nếu đánh mất phương tiện Bát Nhã, sẽ đọa vào đoạn diệt, gọi
là “ác thủ Không giả, lạm phương quảng đạo nhân” (kẻ chấp
trước Không mù quáng, đạo nhân lạm dụng Phương Quảng, tức Đại Thừa). Nay
Đại Thừa chẳng thể đạt được tướng Không, mà tướng Không cũng chẳng thể đạt
được. Tuy quán các pháp vô sở hữu, nhưng cũng là các pháp vô sở không (chẳng có
gì là Không). Vì thế, cần phải “lìa Hữu đạo, lìa Vô đạo” để
quán “tánh của các pháp là vô
ngã”.
Vì
muốn trừ sạch trí chướng (chướng ngại nơi trí), bèn tùy thuận các Bồ Tát xa xưa
tu học quán Uẩn, A Lại Da, tức là [quán] tám thức, ba tánh (Biến Kế Sở Chấp, Y
Tha, Viên Thành Thật), ba vô tánh (tướng vô tánh, sanh vô tánh, thắng nghĩa vô
tánh) trong các kinh như Lăng Già, Giải Thâm Mật v.v… đều là ý này. Kinh
nói “tri tự tánh” (biết tự tánh) tức là biết “tam giới
duy tâm”. Sáu thí dụ “như huyễn, dương diễm, ảnh, hưởng, toàn
hỏa luân, Càn Thát Bà thành” (như huyễn, bóng nắng gợn, hình bóng,
tiếng vang, vòng lửa xoay, thành Càn Thát Bà) đều là cùng biện định Hữu và Vô,
nhằm nêu ra ý nghĩa “duyên khởi riêng biệt” của Uẩn A Lại Da, hơi khác với ý
nghĩa của năm thí dụ về quán vô tánh trong kiếp trước đó (A-tăng-kỳ kiếp thứ
nhất).
A
Lại Da có nghĩa là “bao hàm”, dịch sát nghĩa thì là Thất (căn
phòng), ý nói: Các Uẩn sanh và diệt trong đó, tức nó là “sào huyệt” của các
Uẩn; do vậy, đặt tên như thế. Nhưng A Lại Da có ba loại nghĩa: Một là nghĩa
phân biệt, hai là nghĩa nhân duyên, ba là nghĩa chân thật. Như trong phần kệ
Cầu Chân Thật của Đại Thừa Trang Nghiêm Luận, do nói “ly nhị cập mê y,
vô thuyết, vô hý luận” (lìa chấp trước vào hai bên và lìa sự mê muội
đối với Y Tha Tánh, chẳng nói, chẳng hý luận), cho nên biết ba tánh đều là chân
thật. Nói “ly nhị” tức là Phân Biệt Tánh chân thật, do năng
(cái có thể phân biệt) và sở (các pháp được phân biệt) đều rốt ráo chẳng
có! “Mê y” tức là nói về [sự mê muội đối với] Y Tha Tánh chân thật. Do từ tánh này
mà dấy lên các phân biệt. “Vô thuyết, vô hý luận” (chẳng nói, chẳng hý luận) là
nói Chân Thật Tánh chân thật, do tự tánh chẳng có hý luận.
Kế
đó, [Trang Nghiêm Luận] nói bài kệ thí dụ về Cầu Chân Thật rằng: “Như
bỉ khởi huyễn sư, thí thuyết hư phân biệt, như bỉ chư huyễn sự, thí thuyết nhị
chủng mê” (như đối với các thứ được huyễn thuật sư biến hóa ra, dù là
thí dụ hay diễn nói đều là phân biệt hư vọng. Đối với các huyễn sự ấy, thì dùng
thí dụ hay ngôn ngữ để diễn tả, cả hai đằng đều là mê). Giải rằng: Như huyễn sư
(người làm ảo thuật) nương vào sức chú thuật, biến hóa gỗ, đá v.v… [thành vàng,
bạc, của báu] để làm cái nhân gây
nên sự mê hoặc.
Y Tha Tánh phân biệt hư vọng cũng giống như thế, dấy lên đủ loại phân biệt, tạo thành cái nhân điên đảo. Lại như
các thứ tướng mạo hư huyễn như vàng v.v… hiển hiện, tánh phân biệt được dấy lên
cũng giống như thế. Do mê đối với hai thứ năng thủ (tâm chấp giữ) và sở thủ
(đối tượng được chấp giữ) mà chúng luôn luôn hiển hiện.
Kế
đó, [luận ấy] nói kệ rằng: “Như bỉ vô thể cố, đắc nhập Đệ Nhất Nghĩa.
Như bỉ khả đắc cố, thông đạt Thế Đế thật” (Như do các thứ ấy chẳng có
Thể, bèn được nhập Đệ Nhất Nghĩa. Nếu thông hiểu lẽ ấy, bèn thông đạt lẽ Thật
nơi Thế Đế). Trong ấy, có ý nghĩa: Như các huyễn sự ấy chẳng có thật thể; đó là
sánh ví hai tướng Y Tha và Phân Biệt cũng chẳng có thật thể. Do đạo lý ấy, liền
thông đạt cái Đệ Nhất Nghĩa Đế.
Lại nữa, “như huyễn” là cái Thể của huyễn sự cũng chẳng thể
được. Đấy là sánh ví hư vọng phân biệt cũng giống như thế. Do đạo lý ấy, liền
thông đạt cái Thật nơi Thế Đế.
[Luận
ấy] lại có bài kệ rằng: “Bỉ sự vô thể cố, tức đắc chân thật cảnh. Như
thị chuyển y cố, tức đắc chân thật nghĩa” (Do chuyện ấy chẳng có thể,
liền đạt được cảnh chân thật. Do chuyển y như thế, liền đạt được nghĩa chân
thật). Giải rằng: Nếu ai hiểu rõ các huyễn sự ấy chẳng có Thể, sẽ đạt được thật
cảnh nơi gỗ v.v… Nếu các Bồ Tát hiểu rõ hai thứ mê đó chẳng có Thể, thì khi
chuyển y[8] sẽ liền đạt
được ý nghĩa “chân thật tánh”.
Kệ
lại nói rằng: “Thị sự bỉ xứ hữu. Bỉ hữu thể diệc vô, hữu thể vô hữu cố,
thị cố thuyết thị huyễn” (Chuyện này nếu có ở nơi kia, thì Thể của cái Có đó cũng là chẳng có. Do Thể
của cái Có chẳng có. Cho nên nói là huyễn). Bài kệ này chỉ rõ “huyễn sự
tuy có mà chẳng phải là có”. Vì sao vậy? “Có” tức là
nói đến các sự thuộc về huyễn tượng, chúng được hiển hiện ở nơi đó (nơi huyễn
thuật sư biến hiện). “Phi hữu” là nói chẳng thể đạt được thật
thể của chúng. Do Thể của Hữu và Thể của Vô như thế chẳng hai, do nghĩa đó mà
nói chúng là huyễn.
Kệ
lại nói: “Vô thể, phi vô thể, phi vô thể tức thể, vô hữu thể vô nhị,
thị cố thuyết thị huyễn” (“Vô thể” chẳng phải là không có Thể, “chẳng
phải vô thể” chính là Thể. Do Thể
của hữu và vô chẳng hai, nên nói nó là huyễn). Bài kệ này nói: Huyễn sự chẳng
phải có, mà là có. Vì sao vậy? “Chẳng phải có” tức là nói
huyễn sự ấy chẳng
có Thể, do nó chẳng có thật thể. “Mà là có” tức là huyễn sự
chẳng phải là vô thể, do nó có hình tượng hiển hiện. Vì hữu thể và vô thể chẳng
hai như thế, do nghĩa này mà nói nó là huyễn. Cái huyễn ấy nhằm sánh ví các
Uẩn. Vì thế, hãy nên biết: Phân biệt hư vọng là có, nhưng chẳng phải là có. Vì
sao vậy? Hình bóng của hai thứ ấy hiển hiện, nhưng chẳng thể tìm được thật thể
của chúng! Do vậy nói Sắc v.v… hữu thể chính là vô thể. Lại nữa, phân biệt hư
vọng “chẳng phải có mà có”. Vì sao vậy? Cả hai đều chẳng có thật thể, nhưng do
có hình bóng hiển hiện, nên nói Sắc v.v… vô thể và hữu thể chẳng hai. Do hữu và
vô chẳng hai, có thể ngăn che sự kiến lập phỉ báng và tiến hướng Tịch Diệt của
Tiểu Thừa. Vì lẽ nào vậy? Do từ vô thể mà hiểu biết “không có Thể”; vì vậy, chẳng nên an lập. Do từ hữu
thể mà biết Thế Đế, cho nên chẳng phỉ báng. Lại do hai thứ ấy chẳng khác, chớ
nên chán ghét Thể mà nhập Tiểu Niết Bàn.
Kệ
ấy lại nói: “Huyễn tượng cập thủ huyễn, mê cố, thuyết hữu nhị. Như thị vô bỉ nhị,
nhi hữu nhị khả đắc. Cốt tượng cập thủ cốt, quán cố, diệc thuyết nhị. Vô nhị diệc thuyết
nhị, khả đắc diệc như thị” (đối với hình tượng hư huyễn và sự
chấp trước hư huyễn, do mê nên nói là có hai thứ. Vốn chẳng có hai thứ như thế,
mà thành ra có hai thứ để có thể đạt được. Như đối với hình tượng xương và chấp
trước tướng xương ấy, do quán [rồi chấp có tướng xương] nên cũng nói là hai.
Tuy chẳng hai mà nói là hai, đối với những gì [ta cho rằng] có thể đạt được thì
cũng phải hiểu giống như thế)[9] Bài kệ
trước có ý nói: Kẻ mê đối với cảnh tượng hư huyễn, bèn chấp huyễn. Do đã mê,
nên nói có hai chuyện là năng thủ và sở thủ (tức là có người chấp và pháp bị
chấp). Hai chuyện ấy tuy chẳng có, nhưng có thể đạt được hai thứ là do mê mà chúng hiển hiện. Bài kệ sau có
ý nói: Người quán hạnh cũng thế, đối với hình tượng các khớp xương móc vào nhau
[khi quán cốt tỏa thành tựu] và sự chấp trước đối với tướng xương, do quán bèn
nói có hai chuyện là năng quán (cái tâm để quán) và sở quán (đối tượng được
quán bởi cái tâm ấy). Tuy chẳng có hai chuyện ấy, nhưng hai chuyện ấy cũng đều có thể đạt được
vì do quán mà chúng hiển hiện.
Hỏi
rằng: Đã quán như thế là để
đối trị pháp nào? Do vậy, luận ấy lại nói hai bài kệ rằng: “Ưng tri sở
trị Thể, vị bỉ pháp mê tướng. Như thị Thể vô thể, hữu phi hữu như huyễn.
Ưng tri năng trị Thể, niệm xứ đẳng chư pháp, như thị Thể vô tướng, như huyễn
diệc như thị” (Hãy
nên biết cái Thể
của pháp được đối trị, chính là do mê nơi tướng của pháp ấy. Cái Thể như thế là
vô thể, Có và Chẳng Có
đều như huyễn. Hãy nên biết cái Thể của sự đối trị, các pháp như niệm xứ v.v…
Cái Thể [của các pháp] như thế đều là vô tướng, như huyễn cũng giống như vậy).
Bài kệ trước có ý nói: Đối trị cái Thể nào? Tức là [đối trị cái tâm] mê nơi
tướng của các pháp. Mê nơi tướng của các pháp tức là mê nơi cái Thể như thế.
Nhưng cái Thể như thế có thể nói là Có vì phân biệt hư vọng, mà cũng có thể nói
là Chẳng Có, do Thể của năng thủ và sở thủ chẳng khác với phi Thể. “Có” như thế cũng là
như huyễn, mà “chẳng có” cũng như huyễn. Vì thế, nói tướng ấy như huyễn. Bài kệ
sau có ý nói: Thể của cái “có
thể đối trị” chính là các pháp,
tức là [đối với các pháp để đối trị như] Niệm Xứ v.v… do đức Phật đã nói thì
cái Thể [của các pháp] như vậy là như thế đó. Thể của các pháp ấy cũng đều là như huyễn. Vì lẽ nào
vậy? Do phàm phu chấp lấy các pháp như thế là “có Thể”,
nhưng các pháp do chư Phật đã nói như thế đều là vô thể! Cái Thể như thế vô tướng, nhưng
Phật Thế Tôn thị hiện nhập thai, sanh ra, vượt thành, xuất gia, thành Đẳng
Chánh Giác. Tuy vô tướng như thế mà hiển hiện bóng dáng, cho nên là như
huyễn!
Hỏi:
Nếu các pháp đều cùng là như huyễn, do nghĩa nào mà một đằng là cái có thể đối
trị, một đằng là pháp bị đối trị? Bài kệ ấy giải đáp: “Thí như cường
huyễn chủ, linh dư huyễn tức thoái. Như thị thanh tịnh pháp, năng linh nhiễm
pháp tận” (Ví như huyễn sư mạnh mẽ, khiến cho những huyễn sư khác phải
thoái lui. Pháp thanh tịnh như thế có thể khiến cho nhiễm pháp chẳng còn). Do
bởi nghĩa này, tuy Bồ Tát tu các hạnh, nhưng chẳng có gì để đạt được. Luận ấy
nói về quán sát Uẩn A Lại Da, biết rõ tự tánh như huyễn, phù hợp với kinh này
nhất, cho nên tôi trích dẫn đầy đủ.
Hãy
nên biết: Đối với ánh nắng gợn (dương diễm), hình bóng, tiếng vọng, vòng lửa
xoay, thành Càn Thát Bà cũng nên nói rộng như thế. Trước năm thí dụ ấy, có [các
thí dụ như] bọt nước, bong bóng
[khi trời mưa], cây chuối. Sở dĩ ở đây chẳng bàn tới, vì ba
chuyện ấy vẫn kèm theo cách phân tích theo từng tầng để giảng về Vô Tánh Không,
còn các thí dụ như huyễn, bóng nắng gợn v.v… ở đây chỉ mang ý nghĩa nói về cái
Không khó hiểu thuộc vào pháp “duy thức vô cảnh thể”, tức là từ thô
tướng mà chuyển biến, dung hội, cho nên chẳng bàn tới [các thí dụ bọt nước, cây
chuối]. Hành giả hiểu các Uẩn duy tâm, tức là biết tự tánh của pháp. Khi chưa
thấu hiểu tự tánh như thế, do sợ đọa vào “hữu sở đắc” (có cái
để đạt được), chẳng thể trọn hết Lý mà quán Hữu được. Do sợ đọa vào đoạn diệt,
chẳng thể trọn hết Lý mà quán Không. [Vì thế], không chỉ là chẳng thấy Hữu rõ ràng, mà cũng
là chẳng thấy Không trọn hết. Nay dùng các môn như huyễn v.v… để chiếu “Hữu
Không bất nhị”, tướng của Nhân Không và Pháp Không cũng chẳng canh
cánh bên lòng, gọi là “thật sự nhập Pháp Không, ngộ tánh Duy Thức”.
Kinh
dạy “Bí Mật Chủ! Bỉ như thị xả vô ngã, tâm chủ tự tại, giác tự tâm bổn
bất sanh” (Bí Mật Chủ! Người ấy xả vô ngã như thế, tâm chủ tự tại,
giác ngộ tự tâm vốn chẳng sanh). “Tâm chủ” tức là tâm vương.
Do chẳng vướng mắc nơi Hữu và Vô, tâm chẳng ngăn ngại, có thể tùy ý thực hiện
thành tựu diệu nghiệp. Vì thế nói là “tâm chủ tự tại”. Tâm chủ
tự tại, rõ ràng là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Lại chuyển lần nữa, càng mở mang sáng
suốt gấp bội kiếp trước (A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất). Tâm vương giống như nước ao,
tánh vốn thanh tịnh. Trừ sạch tâm số (tâm sở), giống như khách trần thanh tịnh.
Vì thế, khi chứng tánh này là tịnh, sẽ có thể tự giác ngộ “tâm vốn
chẳng sanh”. Vì sao vậy? Do tiền tế và hậu tế[10] của tâm đều chẳng thể được! Ví
như sóng mòi trong biển cả, do từ duyên mà dấy lên, chẳng phải là trước đó
chẳng có thì sau đấy cũng chẳng có. Nhưng tánh nước chẳng phải vậy, khi sóng
mòi do duyên mà dấy lên, chẳng phải là trước đó không có tánh nước. Khi nhân
duyên gây ra sóng mòi chấm dứt, chẳng phải là sau đó không có tánh nước. Tâm
vương cũng lại như thế, chẳng có tiền tế và hậu tế, do tiền tế và hậu tế đều
đoạn. Tuy gặp gió cảnh giới từ duyên mà dấy lên hay diệt mất, tâm tánh vẫn
thường chẳng sanh diệt. Giác ngộ cái tâm này vốn chẳng sanh, tức là dần dần
nhập vào môn chữ A. Lúc bấy giờ, lại lìa một tầng chấp trước hư vọng vi tế
thuộc một trăm sáu mươi phiền não nhiều như cát bụi, thì gọi là “A-tăng-kỳ
kiếp thứ hai”. Vì thế, kinh nói: “Tri tự tâm tánh, thị siêu việt
nhị kiếp Du Kỳ hạnh” (Biết tâm tánh của chính mình, sẽ vượt thoát hạnh
Du Kỳ trong [A-tăng-kỳ] kiếp thứ hai). Trong ấy, bao gồm các ý nghĩa như vô vi
sanh tử làm duyên nhân để sanh hay hoại v.v… như các kinh luận Thắng Man, Bảo
Tánh, Phật Tánh Luận đã nói cặn kẽ. Nay do nói về ý nghĩa chủ yếu ở đây, cho
nên chẳng nói tường tận [các ý nghĩa đó]. Nhưng xét cả quá trình phát triển từ
đầu đến cuối trên đây, kể từ phát khởi một mảy điều thiện cho đến vượt thoát
hai thứ chướng hữu và vô đối với “nhân, pháp”, tuy điều được đề cao rành rành
là càng lúc càng sâu
dần hơn, hay khéo hơn, vẫn là đối trị cấu trược ở ngoài tâm, vẫn chưa khơi mở
các loại chuyện bí mật chẳng thể nghĩ bàn trong cái tâm này. Từ đây trở đi mới
nói ra. Nếu chẳng đối ứng để biện định như thế, thường tình [chúng sanh] sẽ
xuôi theo tập khí từ trước, chẳng thể nhận biết sự vi diệu ấy!
Kinh
dạy: “Phục thứ Bí
Mật Chủ! Chân Ngôn môn tu hành Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát, vô lượng vô số bách
thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp tích tập vô lượng công đức trí huệ, cụ tu chư
hạnh, vô lượng trí huệ phương tiện, giai tất thành tựu” (Lại này Bí Mật Chủ! Các Bồ Tát tu
hành Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, đã trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi
na-dữu-đa kiếp tích tập vô lượng công đức trí huệ, tu trọn đủ các hạnh, vô
lượng phương tiện trí huệ thảy đều thành tựu), tức là cái tâm muốn vượt thoát
[A-tăng-kỳ] kiếp thứ ba. Do muốn khiến cho kẻ thấy nghe đều tin ưa, tôn trọng,
bèn trước hết tán thán công đức ấy, có thể dễ nhận biết điều này! Như Bồ Tát
trong các giáo khác, hành phương tiện đối trị đạo, lần lượt dần dần trừ tâm
cấu, trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, có người đạt tới Bồ Đề, hoặc chẳng đạt.
Nay các vị Bồ Tát trong giáo này chẳng phải vậy, trực tiếp dùng Chân Ngôn làm
phương tiện, siêu nhập Bồ Đề tâm môn thanh tịnh. Nếu lúc thấy tâm này, hiểu đạo, phước
huệ do các Bồ Tát đã tu tập trong vô số kiếp sẽ tự nhiên trọn đủ. Ví như có
người dùng thuyền hay xe bôn ba, vượt qua đường ác hiểm nạn dài năm trăm
do-tuần[11]. Lại có một
người nương vào thần thông bay lên không trung để vượt qua, tuy chỗ trải qua và
chỗ đạt đến chẳng khác nhau, nhưng pháp để vận dụng có sai khác.
Lại
nữa, sở dĩ đức Thế Tôn trước hết rộng nói các tâm tướng như trên đây là vì dạy
những người hành quán hạnh trong Chân Ngôn môn, nếu lúc hành đến các cảnh giới
ấy, cần phải biết rõ, chớ nên chưa đạt tới mà nói là “đã đạt tới”, đó tức là
nấn ná giữa đường! Lại như lúc thái tử của Luân Vương mới sanh ra, các tướng
trọn đủ, chẳng bị thiếu khuyết. Tuy chưa thể tập luyện trọn khắp các tài nghệ,
thống ngự bốn châu, nhưng đã có thể nắm giữ bảy báu, thành tựu gia nghiệp của
bậc thánh vương. Vì lẽ nào vậy? Do [thái tử đã] đầy đủ bản thể của Luân Vương.
Hành giả Chân Ngôn vừa mới nhập Bồ Đề tâm thanh tịnh cũng lại giống như thế.
Tuy chưa thể trong vô số A-tăng-kỳ kiếp trọn đủ các hạnh Phổ Hiền, viên mãn
phương tiện đại bi, nhưng công đức bằng với các đức Như Lai ấy đã đều thành tựu. Vì lẽ nào vậy? Do đã trọn
đủ bản thể nơi Tỳ
Lô Giá Na Pháp Thân vậy. Ở đây, kinh dạy “vô lượng vô số bách thiên
câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức trí huệ, cụ tu chư hạnh, vô
lượng trí huệ phương tiện, giai tất thành tựu” (trong vô lượng vô số
trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức trí huệ, tu trọn
các hạnh, vô lượng phương tiện trí huệ, thảy đều thành tựu).
Lại
như vương tử mới sanh, đã làm chỗ ngưỡng vọng, quy hướng cho long thần và triệu
dân. Người mới phát Bồ Đề tâm thanh tịnh cũng giống như thế, đã làm chỗ đại quy
y cho trời, người và kẻ mê
mất chánh đạo trong thế gian. Nếu xét theo các bộ luận phán định dựa trên đường lối thông thường, thì khi chứng
tâm này, bèn gọi là Phật. Do vậy, hết thảy các vị Thanh Văn, Duyên Giác v.v…
như ngài Xá Lợi Phất đã dốc trọn trí lực mà chẳng thể dò lường được. Kinh
dạy: “Sở vị xuất quá nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật địa” (Đó
gọi là vượt ngoài hết thảy địa vị Thanh Văn và Bích Chi Phật). Do khi hành giả
đạt được cái tâm này, sẽ biết Tịnh Độ của Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng hủy, thấy
thọ lượng dài lâu của đức Phật, thân Bổn Địa và các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt
lên như Thượng Hạnh v.v… cùng tụ hội một chỗ. Dẫu là bậc tu đạo đối trị, gần đạt tới địa vị Bổ Xứ trong Tích Môn,
vẫn chẳng biết một ai [trong số các vị Bồ Tát thuộc Bổn Môn từ dưới đất vọt lên].
Vì thế, chuyện này được gọi là Bí Mật.
Lại
nữa, trong cái tâm thanh tịnh rốt ráo, vị Bồ Tát này có thể nhóm họp trọn khắp
chư Phật, Bồ Tát trong mười phương pháp giới, cũng có thể tự tới trọn khắp mười
phương, cúng dường các vị thiện tri thức, tìm cầu chánh pháp, chỉ riêng vị ấy
hiểu rõ. Chư thiên, người đời chẳng thể biết được! Do nhân duyên ấy, lại gọi là
Bí Mật. Trong hai [A-tăng-kỳ] kiếp trước, tuy nói là “độ Nhị Thừa”, nhưng các vị như Tu Bồ Đề v.v… do
nương theo oai thần của Phật mà có thể diễn nói “nhân và pháp đều
không”, nhưng đối với Nhất Thừa bí mật này, sanh lòng kinh nghi, chẳng
biết [thừa ấy] sẽ dẫn đến đâu, nên gọi là “trực quá Thanh Văn, Bích Chi
Phật địa” (thẳng
thừng vượt khỏi địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật). Khi đó, chư thiên có đại oai
đức, do thấy Bồ Tát tâm chẳng có chỗ nương tựa, đều sanh lòng kính tín. Vì vậy,
Thích Đề Hoàn Nhân nguyện như thế này: “Kim thử thượng nhân bất cửu
thành Phật, nhược bỉ thành Phật thời, ngã đương phụng Cát Tường thảo” (Nay
vị thượng nhân này không lâu sau sẽ thành Phật. Nếu lúc Ngài thành Phật, tôi sẽ
dâng cỏ Cát Tường[12] [để trải tòa ngồi]). Tứ thiên vương cũng sanh ý niệm như
sau: “Nhược thử Bồ Tát thành Phật thời, ngã đương hiến bát” (Nếu
lúc vị Bồ Tát này thành Phật, ta sẽ dâng bát). Phạm vương cũng sanh ý niệm như
thế này: “Nhược thử Bồ Tát thành Phật thời, ngã đương thỉnh chuyển pháp
luân” (Nếu lúc vị Bồ Tát này thành Phật, tôi sẽ thỉnh Ngài chuyển pháp
luân). Vì thế nói là “thân cận, kính lễ”.
Tán
thán công đức do nhập Chân Ngôn môn đã xong, hành giả lại dùng pháp gì để nhập
môn này? Vì thế, kế đó, kinh dạy: “Sở vị Không tánh” (nói đến
tánh Không). Tánh Không tức là tánh của tự tâm bình đẳng như hư không. Kinh văn
trong phần trên nói “vô lượng như hư không”, cho đến “Chánh
Đẳng Giác hiển hiện”, chính là sánh ví cái tâm này. Kiếp trước (trong
A-tăng-kỳ kiếp thứ
hai) đã ngộ “vạn pháp duy tâm, ngoài tâm chẳng có pháp”. Nay
quán cái tâm này chính là Tự Nhiên Trí của Như Lai, mà cũng là thân trọn khắp
hết thảy của đức Tỳ Lô Giá Na. Do cái tâm là như thế, các pháp cũng như thế.
Căn và trần đều nhập vào môn chữ A, cho nên nói: “Ly ư căn cảnh” (lìa
khỏi căn và cảnh). Do hình bóng chẳng ra ngoài cõi Thường Tịch Diệt Quang, nên
nói là “vô tướng”. Do trong Thật Tướng của tâm, Thật Tướng của
tâm trí giác, cảnh và trí đều là Bát Nhã Ba La Mật, nên nói là “vô cảnh
giới”. Nếu ở đây, dùng mười thí dụ thuộc phần này để đối ứng với mười
thí dụ trong phần trước, lại trở thành hý luận, nên nói: “Việt chư hý
luận” (vượt ngoài các hý luận).
Đoạn
trừ chủng tử phiền não, nghiệp và thọ mạng thuộc tầng thứ ba của một trăm sáu
mươi tâm vi tế, lại có mầm cây Phật nẩy sanh, nên nói: “Đẳng hư không
vô biên nhất thiết Phật pháp” (hết thảy Phật pháp như hư không vô
biên). Nương vào sự sanh khởi liên tục này, đã chẳng hoại nhân duyên, bèn nhập
pháp giới, cũng chẳng dao động pháp giới, tức là duyên khởi. Hãy nên biết nhân
duyên sanh diệt chính là pháp giới sanh diệt, pháp giới chẳng sanh diệt tức là
nhân duyên chẳng sanh diệt. Vì thế nói: “Ly hữu vi vô vi giới”. Dẫu
Như Lai xuất thế hay chẳng xuất thế, các pháp cũng vốn sẵn như thế mà trụ. Cho
nên nói: “Ly chư tạo tác” (lìa các tạo tác). Như trong kinh Bát Nhã nói: “Nhất
thiết pháp thú nhãn, thị thú bất quá” (hết thảy các pháp quy nhập vào
mắt, lại chẳng có một pháp nào vượt khỏi mắt)[13], giống như trăm sông đổ vào biển,
trọn chẳng đổ vào đâu khác. Vì thế, hãy nên biết Nhãn chính là Thật Tế bậc
nhất. Trong Thật Tế bậc nhất, mắt còn chẳng thể được, huống hồ tiến nhập hay
chẳng tiến nhập ư? Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế, cho nên nói: “Ly
nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý” (lìa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý).
Khi
hành giả đạt được huệ vi tế như thế, quán hết thảy các pháp nhiễm tịnh cho đến
chút phần giống như lân hư trần, không gì chẳng từ duyên sanh. Nếu là sanh từ duyên, tức là chẳng có
tự tánh. Nếu chẳng có tự tánh, tức là vốn bất sanh. “Vốn bất sanh” tức
là Thật Tế của cái tâm, nhưng Thật Tế của cái tâm cũng chẳng thể được. Vì thế
nói là “cực vô tự tánh tâm sanh” (sanh khởi cái tâm vô tự tánh
tột bậc). Cái tâm ấy so với hai [A-tăng-kỳ] kiếp trước, giống như hoa sen nở
xòe trọn hết. Nếu so với hai cái tâm sau đó, tức là quả lại thành hạt. Vì thế
nói “như thị sơ tâm, Phật thuyết thành Phật nhân cố, ư nghiệp phiền não
giải thoát, nhi nghiệp phiền não cụ y” (chư Phật nói sơ tâm như thế chính là cái nhân để thành Phật, tuy
nó giải thoát nghiệp phiền não, nhưng nghiệp phiền não đều nương trọn vào cái
tâm ấy). Ở đây nói “Phật thuyết” chính là đức Thế Tôn lấy mười
phương ba đời chư Phật làm chứng. Điều này giống hệt như nói “dĩ thử
nhất sự nhân duyên, vị chúng sanh khai tịnh tri kiến” (dùng một sự
nhân duyên này để mở ra tri kiến thanh tịnh cho chúng sanh). Khi hành giả giải
thoát hết thảy nghiệp phiền não, liền biết “hết thảy nghiệp phiền não,
không gì chẳng phải là Phật sự”, vốn tự chẳng có trói buộc, sẽ khiến
cho ai được giải thoát? Như lương y biến chất độc thành thuốc để dùng trừ các
bệnh. Lại như hư không chẳng ra ngoài các tướng mà muôn hình tượng đều nương
trọn vào đó. Như khi trụ trong sự giải thoát chẳng thể nghĩ bàn này, sẽ chính là A La Hán thật sự, chẳng chấp trước
hữu vi và vô vi, đáng nhận sự cúng dường rộng lớn của hết thảy thế gian. Vì
thế, kinh dạy: “Thế gian tông phụng, thường ưng cúng dường” (thế
gian tôn trọng, phụng sự, thường đáng nên cúng dường).
Lại
nữa, do A-xà-lê muốn giảng rõ sự cúng dường ấy, luận định chung ba [A-tăng-kỳ]
kiếp từ đầu đến cuối, liền nêu ra thí dụ về bảo châu: Ví như có Như Ý Bảo Châu
ở trong quặng đá, do người đời chẳng biết, vứt bên đường cái chẳng khác gì
ngói, sỏi. Nhưng người biết rõ chất báu do thấy có chút tướng vừa mới tỏ lộ ra
ngoài, liền nhận biết [trong quặng đá có bảo châu]. Trước hết, dùng đục sắt sắc bén để đục bỏ đá tạp. Đục gần đến vua chất
báu (Như Ý Bảo Châu),
đá sẽ mềm dần, lại dùng chất thuốc để hòa tan, khiến cho các chất cặn từ quặng
đá tiêu trừ, nhưng chẳng thương tổn chất báu. Lúc bấy giờ, thô cấu đã trừ, vẫn
còn tế cấu, bèn rửa bằng nước tro, chùi bằng vải mịn, dùng đủ mọi phương tiện để chất báu sáng
ngời. Đã tỏa ánh sáng, đặt trên tràng cao, có thể thuận theo hết thảy mong cầu
mà tuôn ra trọn khắp các vật. Lúc bấy giờ, người đời sanh ý tưởng kỳ đặc, tôn
trọng vật báu ấy như đại thiên, vì nó có thể thỏa mãn trọn vẹn các điều ước
nguyện. Nhưng chất báu ấy đồng thời ứng trọn khắp các tâm, khiến cho mỗi mỗi
[ước nguyện] sai khác đều đạt được, [vậy thì] các vật ấy đã có sẵn từ trước trong chất
báu, hay là trước đó chẳng có? Nếu có sẵn từ trước, viên châu bé nhỏ ấy sao có
thể chứa trọn khắp các vật? Nếu trước đó chẳng có, sao lại có thể lập tức tuôn
ra các vật? Tức là tánh của vật báu thế gian ấy đã là chẳng thể nghĩ bàn, huống
hồ vật báu Bồ Đề tâm của chúng sanh ư?
Vì
thế, lúc thiện tri thức vừa mới thấy tám tâm thế gian của chúng sanh chớm động,
liền biết đó là
của báu thật sự, biết lý “có thể gọt giũa”. Như người đã từng nhận biết nhiều
thứ báu nổi tiếng; do vậy, vừa trông
thấy liền biết ngay. Chư Phật, Bồ Tát cũng thế, từ lâu đã đích thân chứng
biết “do một mảy thiện mà tự đạt đến đạo đại Bồ Đề”. Vì thế,
soi xét tình kiến, căn cơ của chúng sanh, liền đại hoan hỷ, dùng phương tiện
khuyên dụ, dẫn dắt, khiến cho họ thọ Tam Quy, như đã nói phân biệt trong phần
trên. Ví như nhặt lấy tảng đá xù xì đặt ở trong nhà. Kế đó, dùng ba loại “tam
tâm” để dẹp trừ cội rễ nghiệp phiền não và chủng tử vô minh, giống như dùng đục
sắt sắc bén để đục đẽo, loại bỏ chất quặng thô tháp. Kế đó, quán tánh vô ngã của pháp vô
duyên thừa, như
dần dần [đục đẽo] tới chỗ mềm, bèn dùng dược vật để tiêu hủy [các chất quặng
thô] mà chẳng tổn thương [chất báu]. Kế đó, sanh khởi vô cực tự tánh tâm, như
dùng nước tro lau chùi, mài bóng, khiến cho bảo châu tột bậc sáng sạch. Lúc bấy giờ, đã sanh
trong nhà Phật, gọi là “đặt trên tràng cao, tuôn ra các thứ báu”. Do
nhân duyên ấy, kham nhận sự cúng dường rộng lớn của thế gian. Nếu hành giả trực
tiếp từ Chân Ngôn môn mà trông thấy chất báu trong tâm, như tiên nhân giỏi chú
thuật, dùng thần lực để giữ lấy. Tuy khéo, vụng, khó, dễ khác nhau, nhưng đạt được
vật báu trọn chẳng khác lối! Vì thế, kinh này nói cặn kẽ tâm tướng từ cạn đến
sâu, đều nhằm khai thị nhân duyên của Bồ Đề tâm từ đầu đến đuôi. Nếu chỉ xét
theo pháp tướng thông thường, ắt chẳng thể nói “bí mật to lớn của chư
Phật nay ta đều khai diễn”!
Kinh
dạy: “Bí Mật Chủ! Tín Giải Hạnh địa quán sát tam tâm, vô lượng Ba La
Mật Đa huệ quán, Tứ Nhiếp pháp, tín giải địa vô đối, vô lượng bất tư nghị, kiến
lập thập tâm, vô
biên trí sanh” (Bí Mật Chủ! Địa vị Tín Giải Hạnh quán sát ba tâm, vô lượng Ba La Mật huệ
quán, Tứ Nhiếp Pháp, địa vị tín giải chẳng đối đãi, vô lượng chẳng nghĩ bàn,
kiến lập mười tâm, sanh khởi vô biên trí). Đấy là cái Tông của kinh này. Từ Bồ
Đề tâm thanh tịnh cho đến địa vị Thập Trụ, đều là thuộc về hạnh Tín Giải,
chỉ có Như Lai được gọi là địa vị Nhất Thiết Trí rốt ráo. Như trong kinh Hoa
Nghiêm, Sơ Địa Bồ Tát có thể tin tưởng, nhập vào bổn hạnh của Như Lai, Tín thành tựu các Ba La Mật,
tín nhập các địa vị thù thắng, tin vào sức thành tựu, tin trọn đủ vô sở úy, tin
sanh trưởng Phật pháp bất cộng chẳng thể hoại, tin Phật pháp chẳng thể nghĩ
bàn, tin xuất sanh cảnh giới Phật chẳng có ngằn hạn, tin tùy nhập vô lượng cảnh
giới của Như Lai, tin thành tựu quả. Đối với các chuyện như thế, cái tâm ấy rốt
ráo chẳng thể phá hoại, lại còn chẳng bị xoay chuyển theo các duyên khác. Vì
thế, gọi là địa vị Tín Giải Hạnh, cũng gọi là Tu Hành Địa.
“Quán
sát tam tâm” tức là do Căn mà xét kỹ cái tâm. Nếu luận định chung
trong địa vị Tín Giải, sẽ là khi Sơ Địa Bồ Tát đạt được Bồ Đề tâm như hư không
vô cấu ấy, tự nhiên sẽ sanh khởi mười đại nguyện trong mười vô tận giới, cho
đến trọn đủ trăm vạn A-tăng-kỳ đại nguyện. Đó là lấy Bồ Đề tâm làm nhân. Từ Nhị
Địa trở đi, tu thêm đại bi vạn hạnh, tức là vô tận đại nguyện “mọc rễ” trong
mười pháp giới, cho đến dần dần tăng trưởng. Từ Đệ Bát Địa trở đi, đều gọi là
Phương Tiện Địa. Phật Tánh Luận giảng: “Cảnh giới từ Bát Địa trở lên
đều giống nhau, nhưng luận theo phương tiện mà giáng cấp vậy”. Nếu
quán mỗi một địa, cũng sẽ đều có ba tâm. Như dùng mười nhân duyên để được nhập
Sơ Địa, bèn gọi là “nhân duyên”. Đã an trụ rồi, sẽ dùng các
thứ đại bi vạn hạnh để tịnh trị địa vị ấy, gọi là Căn. Nói tới chuyện tịnh trị
quả tướng và nghiệp phương tiện trong mỗi địa thì gọi là “cứu cánh”. Những
điều khác đều chuẩn theo điều này. Vô lượng Ba La Mật Đa, Tứ Nhiếp Pháp được
nói trong kinh này tức là trị địa. Hành giả từ đây trở đi, chẳng còn có đối
đãi, vượt khỏi địa vị “tâm lượng chẳng thể nghĩ bàn”, có mười tâm vô biên trí
sanh khởi. Đấy chính là quả tướng của Sơ Địa. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Phát
thập đại nguyện dĩ, tắc đắc lợi ích tâm, nhu nhuyễn tâm, tùy thuận tâm, tịch
tĩnh tâm, điều phục tâm, tịch diệt tâm, khiêm hạ tâm, nhuận trạch tâm, bất động
tâm, vô trược tâm” (Đã phát mười đại nguyện rồi, liền đạt được lợi ích
tâm, nhu nhuyễn tâm, tùy thuận tâm, tịch tĩnh tâm, điều phục tâm, tịch diệt
tâm, khiêm hạ tâm, nhuận trạch tâm, bất động tâm, vô trược tâm). Kế đó, lại
thành tựu mười loại pháp nhằm tịnh trị các địa, tức là từ, bi, hỷ, xả, chẳng hề
chán bỏ, biết các kinh luận khéo giảng giải pháp thế gian, tàm quý, sức cái nhân vững chắc, cúng dường
chư Phật, y giáo tu hành.
Lại
nữa, đã trụ trong địa vị ấy, khéo biết chướng trong các địa, khéo biết mỗi địa
vị thành hoại, khéo biết tướng quả của mỗi địa, khéo biết tu tập như thế nào để
chứng đắc địa vị, khéo biết pháp thanh tịnh trong địa vị ấy, khéo biết chuyển
hạnh trong mỗi địa, khéo biết xứ phi xứ[14] trong mỗi địa, khéo biết trí
thù thắng trong mỗi địa, khéo biết bất thoái chuyển trong mỗi địa, khéo biết
tịnh trị hết thảy Bồ Tát địa, cho đến chuyển nhập Như Lai địa. Có nhiều loại
“mười thứ tâm” như thế, nếu rộng phân biệt, sẽ có trăm vạn A-tăng-kỳ độ môn,
cho nên nói là “vô biên trí sanh”. Nếu xét theo ba tâm trước, sẽ nói thành mười tâm.
Nếu
luận định thông thường về địa vị Tín Giải, thì Sơ Địa là chủng tử, Nhị Địa là
mầm, Tam Địa là nứt vỏ, Tứ Địa là lá, Ngũ Địa là hoa, Lục Địa là quả, Thất Địa
là thọ dụng chủng tử, Bát Địa là nương tựa vô úy; đó gọi là “quả trong
cái quả”. Cửu Địa sanh khởi trí huệ tiến lên cầu Phật địa, tức là cái
tâm tối thắng. Thập Địa thì tâm ấy quyết định. Hai tâm ấy chẳng phải là cảnh
giới khác, vẫn thuộc vào tâm thứ tám, nhưng xét theo phương tiện chuyển biến mà tách ra đó thôi!
Nếu xét trong mỗi địa, thì cũng tự có đủ mười tâm ấy. Vả nữa, như khi trụ trong
Sơ Địa, thành tựu pháp tịnh trị các địa, và biết tướng của các địa, tức là
trước đó đã thấu hiểu một địa. Nhờ vào đó làm nhân, trí huệ tăng trưởng, bèn
thấu hiểu hai địa. Dùng mười tâm để suy luận tương tự sẽ biết. Kinh Hoa Nghiêm
có rất nhiều “mười pháp môn”, cũng nên chuẩn theo thứ tự ấy để
rộng nói phân biệt. Nhưng điều được đề cao trong kinh này là từ Sơ Địa liền
nhập kim cang bảo tạng. Đối với mỗi điều được nói trong kinh Hoa Nghiêm và kinh
Thập Địa, theo như [Thiện Vô Úy] A-xà-lê
truyền dạy, đều cần phải giải thích theo hai loại:
-
Một là giải thích nông cạn, sơ lược.
-
Hai là giải thích theo lối bí mật, sâu xa.
Nếu
chẳng thấu đạt mật hiệu như thế, chỉ dựa theo văn tự để nói (tức là giải thích
nông cạn, sơ lược) thì nhân duyên sự tướng chỉ dính dáng đến phẩm Thập Trụ. Nếu
giải thích theo sự sanh khởi của mười sáu vị đại Bồ Tát thuộc kinh Kim Cang
Đảnh[15], sẽ tự chứng
biết.
Kinh
dạy: “Ngã nhất thiết chư hữu sở thuyết, giai y thử nhi đắc” (hết
thảy những điều ta nói trong các cõi đều dựa theo đây mà đạt được). Cảnh giới vô
tận trang nghiêm thuộc hết thảy các trí địa trên đây và vô lượng Tu Đa La khác,
hết thảy hạnh quả được đức Phật khen ngợi, không gì chẳng do điều này mà đạt
được. Vì thế, các kinh khác là rộng tán thán thân, lá, hoa, quả của thụ vương
(cây chúa) Sa La như thế; nay trong kinh này, chỉ nói đến chủng tử và nhân
duyên sanh trưởng của thụ vương ấy. Nếu lìa nhân duyên ấy mà có thể thành tựu
cái quả, sẽ chẳng có lẽ ấy! Vì thế, xưng tụng kinh Đại Nhật là vua, chẳng phải
vì lẽ này hay sao?
Kinh
lại nêu ra lợi ích để khuyên tu như sau: “Thị cố, trí giả đương tư duy thử Nhất Thiết
Trí Tín Giải địa, phục việt nhất thiết, thăng trụ thử địa” (vì
thế, người có trí hãy nên tư duy địa vị Nhất Thiết Trí Tín Giải này, lại vượt
khỏi hết thảy để tiến lên, trụ trong địa vị này), tức là vừa mới nhập địa vị
Tín Giải, lại vượt qua một tầng Tế Hoặc của một trăm sáu mươi tâm, gọi là “vượt
thoát đại A-tăng-kỳ kiếp thứ ba”. Khi hành giả mới quán tánh Không,
giác ngộ hết thảy các pháp đều vào trong Thật Tế của cái tâm, dưới là chẳng
thấy chúng sanh có thể độ, trên là chẳng thấy chư Phật để có thể cầu. Khi đó,
vạn hạnh ngưng nghỉ, gọi là “rốt ráo”. Nếu trụ vào đó, tức là chẳng lui sụt, chẳng đọa xuống
địa vị Nhị Thừa, nhưng chưa tiến lên, đạt tới địa vị Bồ Tát, thì gọi là Pháp Ái
Sanh, cũng gọi là tâm vô ký. Nhưng do thế lực của Bồ Đề tâm và sức gia trì của
Như Lai, lại có thể phát khởi bi nguyện. Khi đó, mười phương chư Phật đồng thời
hiện tiền để khuyến dụ. Do được chư Phật dạy bảo, [hành nhân] chuyển sanh cực
vô tự tánh tâm, cho đến Thật Tế của tâm cũng chẳng thể được. Tuy giải thoát hết
thảy các nghiệp phiền não, nhưng nghiệp phiền não vẫn còn đầy đủ. Đạt tới địa
vị chẳng thể nghĩ bàn này, mới gọi là “thật sự lìa khỏi địa vị Nhị Thừa”. Tức
là đối với ý nghĩa của ba câu trước đó, lại khơi mở Phật địa là phương tiện tâm
thượng thượng. Khi đạt tới cái tâm thứ tư ấy, gọi là Nhất Thiết Trí địa rốt
ráo, nên nói là “tứ phần chi nhất độ ư tín giải” (vượt thoát
một phần tư trong tín giải)
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Nguyện cứu thế giả
diễn thuyết tâm tướng, Bồ Tát hữu kỷ chủng đắc vô úy xứ?” Như thị thuyết dĩ, Ma
Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Kim Cang Thủ ngôn: - Đế thính! Cực thiện tư niệm!
Bí Mật Chủ! Bỉ ngu đồng phàm phu tu chư thiện nghiệp, hại bất thiện nghiệp,
đương đắc thiện vô úy. Nhược như thật tri ngã, đương đắc thân vô úy. Nhược ư
thủ uẩn sở tập ngã thân, xả tự sắc tượng quán, đương đắc vô ngã vô úy. Nhược
hại uẩn trụ pháp phan duyên, đương đắc pháp vô úy. Nhược hại pháp trụ vô duyên,
đương đắc pháp vô ngã vô úy. Nhược phục nhất thiết Uẩn, Giới, Xứ, năng chấp, sở
chấp, ngã, thọ mạng đẳng, cập pháp vô duyên Không, tự tánh vô tánh, thử Không
trí sanh, đương đắc nhất thiết pháp tự tánh bình đẳng vô úy.
(經)爾時執金剛祕密主白佛言:世尊!願救世者演說心相,菩薩有幾種得無畏處?如是說已,摩訶毘盧遮那世尊告金剛手言:諦聽,極善思念。祕密主!彼愚童凡夫修諸善業、害不善業,當得善無畏。若如實知我,當得身無畏。若於取蘊所集我身捨自色像觀,當得無我無畏。若害蘊住法攀緣,當得法無畏。若害法住無緣,當得法無我無畏。若復一切蘊界處、能執所執、我壽命等及法無緣空、自性無性,此空智生,當得一切法自性平等無畏。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn!
Nguyện đấng cứu thế diễn nói tâm tướng, Bồ Tát có mấy loại vô úy xứ?” Nói như
thế xong, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ rằng: - Lắng nghe! Hãy
suy niệm cực khéo! Này Bí Mật Chủ! Phàm phu giống như trẻ nít ngu muội, tu các thiện nghiệp,
trừ bỏ bất thiện nghiệp, sẽ đạt được sự không sợ hãi tốt lành. Nếu biết ngã
đúng như thật, sẽ đạt được thân vô úy. Nếu đối với cái thân do thủ uẩn nhóm họp
của chính mình mà lìa bỏ cái thấy [chấp trước] đối với hình sắc của chính mình,
sẽ đạt được vô ngã vô úy. Nếu trừ khử sự nắm níu đối với pháp uẩn trụ, sẽ đạt
được pháp vô úy. Nếu trừ khử pháp trụ vô duyên, sẽ đắc pháp vô ngã vô úy. Nếu
lại đối với hết thảy Uẩn, Giới, Xứ, cái có thể chấp, cái bị chấp, ngã, thọ mạng
v.v… và Pháp Vô Duyên Không mà biết là tự tánh vô tánh,
do Không trí ấy sanh khởi,
sẽ đạt được sự vô úy bình đẳng nơi tự tánh của hết thảy các pháp).
Đoạn
này vẫn nhằm đáp câu hỏi về tâm tướng (tướng trạng của cái tâm) trong phần
trước. Do ngài Kim Cang Thủ đã nghe [đức Thế Tôn] dạy các Bồ Tát hãy tiến thẳng
lên địa vị Bồ Tát trong Chân Ngôn môn, nên hỏi đức Thế Tôn: “Khi các vị Bồ Tát
ấy hành đạo, sẽ có mấy chỗ không sợ hãi?” Đức Phật lại dựa theo ba [A-tăng-kỳ]
kiếp sai biệt như đã nói trên đây để giải thích tương ứng.
[Vô
Úy Xứ trong] tiếng Phạn là A Thấp Phạ Sa (Assāsaniyā),
phải nên dịch sát nghĩa là Tô Tức (蘇息,
hồi phục hơi thở). Như người bị kẻ có sức mạnh nắm giữ, bóp họng ngộp thở, sắp
chết ngất, bỗng được buông ra, lại được hồi tỉnh. Chúng sanh cũng
giống như thế, bị vọng tưởng nghiệp phiền não trói buộc, các duyên tiếp
xúc (các giác quan) đều bị đóng chặt, đến lúc này, lục xứ như được tái sanh,
nên gọi là Tô Tức Xứ (chỗ được phục hồi hơi thở). Cũng như khi vượt qua đường
hiểm ác, cái tâm thơ thới, chẳng sợ hãi, nên gọi là Vô Úy Xứ. Đức Phật
dạy: “Bí Mật Chủ! Bỉ ngu đồng phàm phu tu chư thiện nghiệp, hại bất
thiện nghiệp, đương đắc thiện vô úy” (Bí Mật Chủ! Phàm phu như trẻ nít
ngu muội, tu các nghiệp lành, trừ khử nghiệp chẳng lành, sẽ đạt được vô úy tốt
lành): “Thiện” bao gồm hai nghĩa cạn và sâu. Ở đây, có ý nói
về Thập Thiện Nghiệp Đạo. Như người đời do nhân duyên Thập Bất Thiện Đạo mà hụp
lặn, trôi giạt trong đường ác chẳng cùng tận. Sau đó, do đạt được tám tâm thuận
thế, dần dần thọ Tam Quy Ngũ Giới, trong vô lượng đời, sanh trong loài người
hoặc chư thiên. Sau đó, đạt tới Niết Bàn, tránh khỏi nỗi khổ cùng cực trong tam
đồ, thì gọi là Tối Sơ Tô Tức Xứ. Nếu hành giả Chân Ngôn vừa mới nhập
tam-muội-da, nương theo Tam Mật để cúng dường, tu hành, địa vị sẽ ngang bằng
[với Tối Sơ Tô Tức Xứ].
Kinh
dạy: “Nhược như thật tri ngã, đương đắc thân vô úy” (nếu đúng
như thật biết ngã, sẽ đạt được thân vô úy): Như lúc hướng về thân để tu quán,
thấy thân này là cái được kết hợp bởi ba mươi sáu vật[16], năm thứ bất tịnh xấu ác lộ ra đầy
ắp, trọn chẳng vì thế mà sanh lòng tham ái. Kế đó, lại quán “thọ, tâm, pháp”,
đạt được chẳng lìa “quán bốn thứ điên đảo nơi tánh của ngã”, đối với các thứ
kiềm chế, trói buộc từ cái thân mà đạt được Tô Tức Xứ. Nếu khi các tướng thuộc
bổn tôn tam-muội của hành giả Chân Ngôn hiện tiền, sẽ có địa vị bằng với địa vị
này.
Kinh
nói: “Nhược ư thủ uẩn sở tập ngã thân, xả tự sắc tượng quán, đương đắc
vô ngã vô úy” (Nếu đối với cái thân do thủ uẩn nhóm họp, xả tự sắc
tượng quán, sẽ đắc vô ngã vô úy), tức là khi quán “chỉ có Uẩn, không có ngã”, đối với Ấm, Giới, Nhập, sẽ phân tích, truy tìm đủ
mọi lẽ, đều chẳng thể có được ngã. “Xả thử tự sắc tượng” (xả sắc tượng của chính mình): Ví
như do cây mà có bóng cây hiển hiện. Nếu chẳng có cây, bóng cây sẽ do đâu mà
sanh? Nay Ngũ Uẩn còn do
duyên sanh, đều vô tự tánh, huống hồ trong cái được tích tập ấy mà có Ngã ư? Như trong phần trên đã
nói, cho tới chứng cái tâm trạm tịch, lìa hết thảy các lỗi, thì sẽ đối với chỗ
kiềm chế, trói buộc của Ngã,
bèn đạt được Tô Tức Xứ. Nếu hành giả Chân Ngôn trong hết thảy các giai đoạn
thuộc cảnh giới Du Già, đều có thể quán tâm “chẳng thể được”, chẳng sanh ái và
mạn, thì địa vị sẽ bằng
với địa vị này.
Kinh
dạy: “Nhược hại Uẩn trụ pháp phan duyên, đương đắc pháp vô úy” (nếu
trừ bỏ sự nắm níu đối với pháp Uẩn trụ, sẽ đắc pháp vô úy), tức là hành giả tâm
trụ trong Uẩn, muốn phát khởi lìa bỏ; khi đó, từ các thí dụ như huyễn, dương
diễm v.v… mà quán sát các Uẩn chính là Không,
lìa tám tâm thuận tùng hay trái nghịch, chứng tịch nhiên giới. Do lìa sự trói buộc, kiềm chế
của Uẩn, bèn đạt được Tô Tức Xứ đối với pháp. “Pháp” là nói
mười câu duyên sanh. Nếu hành giả Chân Ngôn nhận biết cảnh giới Du Kỳ trong
hiện tại đều như gương, hoặc như trăng trong nước, vô tánh, vô sanh, địa vị sẽ
bằng với địa vị này.
Kinh
dạy: “Nhược hại pháp trụ vô duyên, đương đắc pháp vô ngã vô úy” (nếu
trừ khử pháp trụ vô duyên, sẽ đạt vô ngã, vô úy đối với pháp), tức là tâm vô
duyên thừa, quán tánh của pháp là vô ngã, ở ngoài tâm thì trí có hình bóng hay
không đều là chẳng
thể được, tâm vương tự tại, nhận biết vốn chẳng sanh, lìa khỏi sự kiềm chế,
trói buộc của pháp, sẽ đối với pháp vô ngã mà đạt được Tô Tức Xứ. Nếu hành giả
Chân Ngôn khi tâm được tác dụng tự tại trong đạo Du Già, địa vị sẽ ngang
bằng với địa vị này.
Kinh
dạy: “Nhược phục nhất thiết Uẩn, Giới, Xứ, năng chấp, sở chấp, ngã, thọ
mạng đẳng, cập Pháp Vô Duyên Không, tự tánh vô tánh. Thử Không trí sanh,
đương đắc nhất thiết pháp tự tánh bình đẳng vô úy” (Nếu lại đối với
hết thảy Uẩn, Giới, Xứ, cái có thể chấp, cái bị chấp, ngã, thọ mạng v.v…
và Pháp Vô Duyên Không, [mà biết là] tự tánh vô tánh. Do sanh khởi Không trí ấy,
sẽ đạt được vô úy bình đẳng trong tự tánh của hết thảy các pháp). Tức là khi
quán tánh Không rốt ráo của tự tâm, Ngã, Uẩn pháp và vô duyên đều có cùng một
tánh, tức là tự tánh vô tánh. “Thử Không trí sanh” (sanh khởi Không trí ấy) tức
là lúc đó, cực vô tự tánh tâm sanh khởi. Đối với nghiệp phiền não v.v… đều
chẳng bị trói buộc, mà cũng chẳng giải thoát. Vì thế nói là “tự tánh của hết thảy
các pháp đều bình đẳng”. Lúc đó, đối với sự kiềm chế, trói buộc của
hữu vi giới và vô vi giới, bèn đạt được Tô Tức
Xứ, tức là Bồ Đề tâm như hư không vô cấu của hành giả Chân Ngôn. Nhưng cái tâm
ấy dù tại triền (còn bị phiền não ràng buộc), hay xuất triền (thoát khỏi phiền
não), đều rốt ráo vô tướng, dùng ngũ nhãn của Như Lai để quán kỹ, vẫn chẳng thể
biết tướng mạo của nó được, huống hồ kẻ trong sanh diệt [mà toan hiểu biết rành
rẽ] ư? Nay sở dĩ nói rộng sáu món vô úy xứ trong ba kiếp có rất nhiều tâm
tướng, đều là dựa theo hình tướng bên ngoài, hòng nói rõ sự tu chứng sâu hay
cạn. Trong phần trước đã nói do thấy tướng trạng của khói, có thể suy ra mà
biết tánh chất của lửa; chỉ biết tâm cấu đã hết, thì hý luận chẳng còn, tức là
món vô úy xứ thứ sáu, còn muốn biểu thị như thế nào nữa ư?
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Nhược Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát, thâm tu quán sát
thập duyên sanh cú, đương ư Chân Ngôn hạnh thông đạt, tác chứng. Vân hà vi
thập? Vị như huyễn, dương diệm, mộng, ảnh, Càn Thát Bà thành, hưởng, thủy
nguyệt, phù bào, hư không hoa, toàn hỏa luân. Bí Mật Chủ! Bỉ Chân Ngôn môn tu
Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát đương như thị quán sát.
(經)祕密主!若真言門修菩薩行諸菩薩,深修觀察十緣生句,當於真言行通達作證。云何為十?謂如幻、陽焰、夢、影、乾闥婆城、響、水月、浮泡、虛空華、旋火輪。祕密主!彼真言門修菩薩行諸菩薩,當如是觀察。
(Kinh: Bí
Mật Chủ! Nếu các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, tu tập sâu xa quan
sát mười câu duyên sanh, sẽ thông đạt, tác chứng Chân Ngôn hạnh. Thế nào là
mười? Chính là như huyễn, ánh nắng gợn, mộng, hình bóng, thành Càn Thát Bà,
tiếng vang, trăng trong nước, bọt nước nổi, hoa đốm trên hư không, vòng lửa
xoay. Bí Mật Chủ! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn ấy hãy nên
quan sát như thế).
Đây
là giải đáp đại lược câu hỏi về tu hành trong đoạn trước. Như trong đoạn kinh
văn nói về phương tiện vạn hạnh trong phần sau, không gì chẳng nhờ vào mười câu
duyên sanh này để tịnh trừ cấu nhơ trong tâm. Vì thế, hãy nên biết đây là ý chỉ
trọng yếu nhất, hành giả Chân Ngôn phải nên đặc biệt lưu ý tư duy. Nhưng
luận định chung mười câu duyên sanh trong phẩm này thì đại lược có ba loại:
-
Một, do tâm chìm đắm trong Uẩn, do muốn đối trị thật pháp, mà quán mười câu
duyên sanh ấy, tức “là Không, là huyễn” như đã nói trong phần
trước.
-
Hai, do tâm chìm đắm trong pháp, do muốn đối trị sự nắm níu cảnh giới, mà quán
mười câu duyên sanh này, tức “Uẩn A Lại Da chính là huyễn nơi tâm” như
đã nói trong phần trước.
-
Ba, do chấp trước sâu đậm mà đắm chìm trong Thật Tế của tâm, do muốn lìa hữu vi giới, vô vi giới, mà quán
mười câu duyên sanh này, như trong phần trên đã nói: “Giải thoát hết
thảy các nghiệp phiền não, mà nghiệp phiền não đều nương trọn vào đó”, tức
là huyễn chẳng thể nghĩ bàn.
Mười
thí dụ trong kinh Ma Ha Bát Nhã cũng bao hàm trọn ba ý ấy. Ở đây nói “thâm
tu quán sát” (tu quán sát sâu xa), tức là nói tới tầng thứ ba. Hơn
nữa, trong Du Già, hành giả dùng tự tâm để cảm, Phật tâm là ứng. Do nhân duyên cảm ứng, ngay lập tức Tỳ Lô
Giá Na Phật hiện thân mà chúng sanh thích thấy, tuyên nói pháp thích hợp cho họ nghe, nhưng tâm ta cũng rốt ráo tịnh, mà
tâm Phật cũng rốt ráo tịnh. Nếu coi tâm ta là tự, thì tâm Phật là tha, nay cảnh giới này là do tự
sanh, hay tha sanh, hay [tự và tha] cùng sanh, hay chẳng có nhân mà sanh? Dùng
các thứ môn trong Trung Luận để quán, sanh chẳng thể được, mà hình và tiếng
rành rành, tức là pháp giới. Luận huyễn thì chính là huyễn, luận pháp giới thì
chính là pháp giới, luận trọn khắp hết thảy mọi nơi thì là trọn khắp hết thảy
mọi nơi. Do luận theo huyễn, nên gọi là “huyễn chẳng thể nghĩ bàn”.
Lại
nữa, nói “thâm tu” tức là đã đắc tịnh tâm trở lên, từ đại bi
mà sanh căn, cho đến phương tiện rốt ráo. Đối với mỗi một duyên khởi trong ấy, đều nên dùng mười thí
dụ để quán. Do điều chứng ngộ sâu dần, nên nói là “quán sát”. Lại
như nghĩa Tứ Đế, trực tiếp dạy trong thế giới Sa Bà đã có vô lượng vô biên tên
gọi sai biệt, huống hồ các phương tiện nhằm thích ứng các căn cơ trong vô tận
pháp giới, [các danh xưng của Tứ Đế] há có thể cùng tận ư? Nay hành giả trong
một niệm tịnh tâm, thông đạt Tứ Đế nhiều như cát bụi như thế, Không thì rốt ráo
chẳng sanh, Hữu thì tận hết tánh tướng, Trung thì toàn bộ cái Thể đều là
thường. Do ba pháp chẳng có tướng nhất định, nên gọi là “huyễn chẳng
thể nghĩ bàn”. Giống như Tứ Đế, [biện định] hết thảy các pháp môn cũng
phỏng theo lệ đó. Vì thế, chỉ có Như Lai mới có thể thấu hiểu cùng tận mười thí
dụ ấy, thấu đạt nguồn cội của chúng. Trong kinh này, ngay sau phần nói về vô
cấu Bồ Đề tâm, bèn nêu ra mười thí dụ, bao quát trọn khắp từ đầu đến cuối các
địa. Đã là do gặp duyên mà tạo thành phép Quán, chẳng thể nói lặp lại nhiều
lần, nay đành dựa theo [cách giải thích trong bộ] Thích Luận để nói đại lược
chỗ quy túc vậy!
(Kinh) Vân
hà vi huyễn? Vị như chú thuật, dược lực năng tạo, sở tạo chủng chủng sắc tượng,
hoặc tự nhãn cố, kiến hy hữu sự triển chuyển tương sanh, vãng lai thập phương.
Nhiên bỉ phi khứ, phi bất khứ. Hà dĩ cố? Bổn tánh tịnh cố. Như thị Chân Ngôn
huyễn, trì
tụng thành tựu, năng sanh nhất thiết.
(經)云何為幻?謂如呪術藥力能造所造種種色像,惑自眼故,見希有事展轉相生、往來十方,然彼非去非不去。何以故?本性淨故。如是真言幻持誦成就,能生一切。
(Kinh: Thế
nào là huyễn? Tức là như chú thuật, hoặc do sức thuốc có thể tạo tác các thứ
hình sắc, mê hoặc mắt mình, thấy các sự hy hữu lần lượt sanh ra, qua lại mười
phương. Nhưng chúng nó chẳng đi, chẳng phải là không đi. Vì sao vậy? Do bổn
tánh thanh tịnh. Chân ngôn là huyễn cũng giống như thế, nhưng trì tụng thành
tựu sẽ có thể sanh ra hết thảy).
Đức
Phật nói “dược lực chẳng thể nghĩ bàn”, như người do sức thuốc
mà có thể bay lên hư không, ẩn thân, đi trong nước, bước trong lửa. Đối với các
chuyện ấy, các vị luận sư chẳng thể kiến lập các nguyên nhân để giải thích
nguyên do được, mà cũng chẳng thể sanh nghi, bảo là “nhất định phải nên như thế
này”, hoặc “chẳng nên như thế nọ”. Cảnh giới vượt khỏi sự trù tính, suy lường
như thế, chỉ có người đích thân sử dụng thuốc ấy, chấp trì vận dụng thì mới
chứng biết đó thôi! Lại như do nhân duyên của thuốc hay chú thuật, có thể thị
hiện tạo ra đủ loại hình sắc, tuy trong các duyên, dẫu tìm cầu cặn kẽ từng điều, đều chẳng thấy sanh xứ
(chỗ sanh khởi) của chúng, nhưng chúng vẫn hiện tiền rành rẽ đối trước năm tình
(năm căn). Tuy lần lượt sanh ra lẫn nhau, qua lại mười phương, nhưng cũng chẳng
phải là đến đó, mà cũng chẳng phải là không đến đó. Chuyện này cũng chẳng phải
là cảnh để suy tính, dò lường, suy xét được!
Thích
Luận nói: “Đức Phật hỏi Đức Nữ: ‘Ví như huyễn sư huyễn hóa đủ mọi sự, ý
bà nghĩ sao? Cái do huyễn tạo tác là ở bên trong mà có hay chăng?’ Đáp rằng:
‘Thưa không!’ Lại hỏi: ‘Là ở bên ngoài mà có hay chăng? Trong và ngoài đều có
hay chăng? Từ đời trước tới đời này, từ đời này tới đời sau hay chăng? Cái do
huyễn tạo ra có sanh, có diệt hay chăng? Thật sự có một pháp do huyễn tạo tác
hay chăng?’ [Đức Nữ] đều đáp rằng: ‘Không ạ!’ Đức Phật bảo: ‘Há bà có thấy,
nghe kỹ nhạc do huyễn tạo tác hay không?’ Đáp: ‘Con cũng thấy, cũng nghe’. Đức
Phật nói: ‘Nếu huyễn là Không, hư dối, chẳng thật, vì sao từ huyễn mà có thể
tạo tác kỹ nhạc?’ Đức Nữ đáp: ‘Bạch đại đức! Đó là huyễn tướng vốn sẵn như thế,
tuy chẳng có căn bản mà có thể thấy, nghe’. Đức Phật nói: ‘Vô minh cũng như
thế, tuy chẳng phải là bên trong có, cho đến chẳng có sanh diệt, nhưng do vô
minh làm nhân duyên mà các hành sanh ra. Nếu vô minh tận thì hành cũng tận, cho
tới nói rộng [các chi còn lại trong Thập Nhị Nhân Duyên, cũng đều như thế]”. Nay
trong Chân Ngôn môn này, sánh ví người trì tụng cũng lại giống như thế, như
kinh văn trong phần sau sẽ nói cặn kẽ. Nương vào Tam Mật tu hành, được thành
tựu hết thảy các chuyện lạ lùng, đặc biệt, chẳng nghĩ bàn! Tuy trong mỗi sự đều
tìm cầu cặn kẽ, rốt cuộc đều lìa bốn câu (có, không, chẳng có chẳng không, cũng
có cũng không). Pháp vốn sẵn là như thế, chẳng khác tịnh tâm, nhưng tự tại thần biến rành rành chẳng sai!
Chuyện này các vị đại luận sư là những người khéo biện luận, lợi căn đều chẳng
thể dò lường được, chỉ riêng
người có phương tiện đầy đủ để thành tựu Tất Địa tự chứng biết đó thôi!
(Kinh) Phục
thứ, Bí Mật Chủ! Dương diễm tánh Không, bỉ y thế nhân vọng tưởng thành lập, hữu
sở đàm nghị. Như thị Chân Ngôn tướng duy thị giả danh.
(經)復次祕密主!陽焰性空,彼依世人妄想成立有所談議,如是真言相唯是假名。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Tánh của ánh nắng gợn là Không, do nó nương vào vọng tưởng của
người đời mà thành lập những điều bàn luận. Các tướng trong Chân Ngôn cũng
giống như thế, chỉ là giả danh).
Thích
Luận nói: “Do ánh nắng [chiếu qua] bụi bị gió cuốn, xao động trong đồng
trống như ngựa hoang, kẻ vô trí thoạt nhìn ngỡ là nước. Chúng sanh cũng thế. Do
ánh nắng kết sử phiền não dao động các bụi Hành, bị gió tà ức niệm xoay chuyển trong
đồng hoang sanh
tử, kẻ không có trí huệ cho rằng tướng này là nam, tướng nọ là nữ. Lại nữa, nếu
nhìn từ xa thì ngỡ là nước, tới gần chẳng có tướng nước. Kẻ cách xa thánh pháp
cũng giống như thế, chẳng biết vô ngã và các pháp là Không, đối với Ấm, Giới,
Nhập vốn là các pháp tánh Không mà sanh ra tưởng ý tưởng là người v.v… Nếu thân
cận thánh pháp, ắt biết Thật Tướng của các pháp, Khi đó, các thứ vọng tưởng hư
dối đều bị trừ sạch”. Kinh này có ý nói: Như người đời nhìn đồng
trống từ xa, người nhìn từ xa chỉ thấy tướng nóng hừng hực, bèn cưỡng lập giả
danh, chứ tìm cầu thì sẽ là thật sự chẳng có. Vì thế nói là “vọng tưởng
thành lập, hữu sở đàm nghị” (do vọng tưởng mà thành lập mà có các điều
bàn luận). Như hành giả Chân Ngôn, từ trong Du Già, thấy các thứ cảnh giới lạ
lùng, đặc biệt, cho đến hải hội của chư Phật trang nghiêm vô tận, lúc đó, hãy nên quán [các tướng ấy] như
ánh nắng gợn, biết rõ đó chỉ
là giả danh, lìa khỏi khinh mạn, chấp trước, chuyển tới gần tâm địa, sẽ
ngộ “các thứ nhân duyên thần biến gia trì chỉ là tướng nắng gợn của pháp giới”,
cho nên nói “như thị Chân Ngôn tướng duy thị giả danh” (tướng
Chân Ngôn như thế chỉ là giả danh).
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Như
mộng trung sở kiến trú nhật, Mâu Hô Lật Đa, sát-na, tuế thời đẳng trụ, chủng
chủng dị loại thọ chư khổ lạc, giác dĩ đô vô sở kiến. Như thị mộng Chân Ngôn
hạnh, ưng tri diệc nhĩ.
(經)復次祕密主!如夢中所見晝日牟呼栗多,剎那歲時等住,種種異類受諸苦樂,覺已都無所見。如是夢真言行,應知亦爾。
(Kinh: Lại
nữa, Bí Mật Chủ! Như những cảnh được thấy trong mộng, tuy chỉ tồn tại trong một Mâu Hô Lật Đa[17], hoặc sát-na của ban ngày, mà như kéo dài cả năm,
và thấy các thứ dị loại hứng chịu các thứ khổ lạc. Tỉnh giấc thì đều chẳng thấy
gì. Hãy nên biết hạnh Chân Ngôn cũng giống như giấc mộng như thế).
Thích
Luận nói: “Như trong mộng đều chẳng có sự thật, mà cho là thật sự có.
Tỉnh giấc biết là không, bèn tự cười xòa. Con người cũng như thế, ở trong giấc
ngủ kết sử, thật sự chẳng có gì mà chấp trước. Khi đắc đạo, đã tỉnh giấc, bèn
biết là không, cũng sẽ tự bật cười”. Lại như do sức của giấc ngủ,
chẳng có pháp mà thấy có pháp, chẳng có chuyện vui vẻ mà vui vẻ, chẳng có
chuyện giận dữ mà giận dữ, chẳng có chuyện sợ hãi mà sợ hãi! Chúng sanh cũng
thế, do sức của giấc ngủ vô minh, chẳng nên giận dữ, lo sợ, mà sanh lòng giận
dữ, lo, sợ v.v… Vì thế, nay lại nói các chuyện chẳng thể nghĩ bàn thuộc về
mộng. Như trong mộng, tự thấy trụ thọ một ngày, hai ngày, cho tới vô lượng năm,
có đủ loại quốc độ và tộc loại chúng sanh, hoặc lên cung trời, hoặc ở trong địa
ngục để hưởng vui, chịu khổ. Khi tỉnh giấc thì chỉ là trong vòng một niệm!
Trong cái tâm khi đã tỉnh giấc, đối với pháp nhân duyên thuộc về giấc ngủ, tìm
cầu bốn câu (có, không, vừa
có vừa không, chẳng có chẳng không) đều chẳng thể được, nhưng nghĩ nhớ
chuyện trong mộng rành rành chẳng sai. Dùng một niệm làm ngàn vạn năm, dùng một
tâm làm vô lượng cảnh, những người có trí trong thế gian chẳng thể suy đoán, dò
lường tột cùng cội nguồn của chuyện này, mà cũng chẳng thể có chỗ đáng nghi, chỉ riêng người nằm
mộng đích thân chứng biết.
Nay
giấc mộng Du Già của hành giả Chân Ngôn cũng giống như thế, hoặc trong khoảnh
khắc thấy trọn khắp vô lượng cảnh giới được gia trì, hoặc chẳng đứng lên khỏi
chỗ ngồi mà trải qua nhiều kiếp, hoặc dạo khắp các cõi Phật, thân cận, cúng
dường, lợi ích chúng sanh. Chuyện này nếu quán sát trong các nhân duyên, [sẽ
thấy] đều chẳng có chỗ dấy lên, không ra ngoài một niệm tịnh tâm, nhưng vẫn
phân biệt chẳng sai lầm. Ai có thể nghĩ bàn nguyên do của chuyện này? Thật sự
chỉ riêng người đã chứng tự biết mà thôi! Hành giả đạt được cảnh giới như thế,
chỉ nên dùng thí dụ về mộng để quán, tâm chẳng nghi ngờ, lấy làm lạ, mà cũng
chẳng sanh tâm chấp trước, tức là dùng giấc mộng hiện trọn khắp sắc thân để trang
nghiêm vô tận. Vì thế nói “thâm tu thập cú” (tu sâu mười câu)
vậy!
(Kinh) Phục
thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ ảnh dụ giải liễu Chân Ngôn năng phát Tất Địa, như diện
duyên ư kính, nhi hiện diện tượng, bỉ Chân Ngôn Tất Địa đương như thị tri.
(經)復次祕密主!以影喻解了真言能發悉地,如面緣於鏡而現面像,彼真言悉地當如是知。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Dùng thí dụ về hình bóng để hiểu rõ Chân Ngôn có thể phát khởi
Tất Địa, như do soi mặt vào gương mà hiện ra vẻ mặt, hãy nên biết Chân Ngôn Tất
Địa cũng giống như thế).
“Ảnh” được
nói ở đây chính là thí dụ “hình bóng trong gương” được nói trong Thích Luận.
Luận ấy viết: “Như hình bóng trong gương, chẳng do gương tạo ra, chẳng
do mặt tạo ra, chẳng do người cầm gương tạo ra, chẳng phải tự nhiên mà có, cũng
chẳng phải không có nhân duyên mà có. Vì sao chẳng phải do gương tạo? Nếu mặt
chưa soi vào, gương sẽ chẳng có hình bóng. Vì sao chẳng phải do mặt tạo ra? Do
không có gương, sẽ không có hình bóng. Vì sao chẳng do người cầm gương tạo ra?
Do không có gương, không có mặt, sẽ không có hình bóng. Vì sao chẳng phải tự
nhiên tạo ra? Nếu chẳng có gương, chẳng có mặt, sẽ chẳng có hình bóng. Phải đợi
có gương, có mặt rồi mới có hình bóng. Cũng chẳng phải là không có nhân, vì nếu
chẳng có nhân duyên, nó phải nên thường có, hoặc thường không. Dù bỏ gương, bỏ
mặt đi, [hình bóng] cũng phải nên tự xuất hiện. Do vậy, chẳng phải là không có
nhân duyên. Hãy nên biết các pháp cũng giống như thế, do ngã chẳng thể được,
hết thảy các pháp sanh bởi nhân duyên sẽ chẳng tự tại. Do các pháp thuộc vào
nhân duyên, nên chẳng phải là tự tạo tác. Nếu tự chẳng có, thì tha cũng chẳng
có. Vì thế, chẳng phải do cái khác tạo tác. Nếu do cái khác tạo tác, ắt sức tội
phước sẽ bị mất. Cũng chẳng phải là “cộng tác” (do tự tác và tha tác cùng tạo
thành), [vì nếu hiểu là như thế] sẽ mắc lỗi [chấp có] nhị biên. Cũng chẳng phải
là không có nhân, như nghiệp nhân trong đời trước, hạnh thiện ác trong đời này
làm duyên, do vậy mà có khổ, vui. Hết thảy các pháp ắt có nhân duyên, nhưng do
ngu si nên chẳng biết đấy thôi. Như trẻ nít trông thấy hình bóng trong gương,
tâm yêu thích, khi [hình bóng] mất đi, bèn phá vỡ gương để tìm kiếm, người
trí bật cười. [Kẻ mê muội trong thế gian] mất đi sự vui bèn tìm kiếm cũng giống
như thế, cũng bị bậc thánh nhân đắc đạo cười cợt”.
Nay
trong môn Chân Ngôn này, dùng tịnh thân trong Tam Mật của Như Lai làm gương,
hành vi nơi thân trong Tam Mật của chính mình làm hình bóng trong gương. Do
nhân duyên mà có Tất Địa sanh ra, giống như vẻ mặt [hiện ra khi soi mặt vào
gương]. Nếu lúc Tất Địa của hành giả thành tựu, cho đến dấy khởi năm món thần
thông, trụ thọ dài lâu, diện kiến mười phương quốc độ, dạo các cõi Phật, đều
dùng thí dụ này để quan sát chuyện ấy từ tự sanh ra, hay từ tha sanh ra? Nếu
nói là “do Tam Mật của người khác gia trì, có thể trao cho [chúng sanh] cái quả
ấy”, thì khi chúng sanh chưa tu hành, Phật cũng do lòng đại bi bình đẳng [sẽ
trao cho], cớ sao chẳng khiến cho họ thành tựu? Nếu bảo là “tự tu hành đúng như
lời dạy, sẽ có thể đạt được cái quả ấy”, do nhân nào mà quan sát thân Tam Mật
như cái gương thanh tịnh để cầu gia bị vậy? Nếu cùng do cả hai (tự và tha), sẽ
mắc lỗi nhị biên. Vì sao vậy? Nếu nói cái tâm ta làm nhân, đợi có các duyên thì
mới được thành tựu, tức là trong cái nhân đã sẵn có cái quả Tất Địa từ trước ư?
Hay là trước đó chẳng có? Nếu đã có sẵn từ trước, các duyên đều trở thành vô
dụng. Nếu trước đó chẳng có, các duyên lại có tác dụng gì? Nhưng Tất Địa thành
tựu ấy cũng lại chẳng phải là không có nhân duyên. Vì thế, Đại Trí Độ Luận có
bài kệ nói về hình bóng trong gương như sau: “Chẳng có, cũng chẳng
không, cũng lại chẳng có không, lời ấy cũng chẳng nhận. Như vậy gọi Trung Đạo”. Chớ
nên như trẻ nít hư vọng nẩy sanh chấp giữ. Nếu quán như thế, tâm hành giả sẽ
chẳng có gì để đạt được, chẳng sanh hý luận; cho nên nói “ưng như thị
tri” (hãy nên biết như thế).
(Kinh) Phục
thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ Càn Thát Bà thành thí, giải liễu thành tựu Tất Địa cung.
(經)復次祕密主!以乾闥婆城譬解了成就悉地宮。
(Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Dùng
thí dụ về Càn Thát Bà để hiểu rõ cung điện thành tựu Tất Địa).
Thích
Luận viết: “Khi mặt trời mới mọc, thấy cửa thành, lầu gác, cung điện,
người đi đường ra vào [tòa thành Càn Thát Bà]. Mặt trời mọc lên cao, [các cảnh
tượng ấy] diệt mất. Thành ấy chỉ có thể mắt trông thấy, nhưng nó chẳng thật
sự có. Có người thoạt đầu chưa từng thấy, cho là chỗ vui sướng thật sự, rảo
bước đến đó. Tới gần
bèn mất dấu. Mặt trời mọc lên cao, [tòa thành ấy] diệt mất. Đói khát, mệt mỏi
cùng cực, thấy hơi nóng như ngựa hoang, cho là nước. Lại tìm đến đó, thậm chí
cầu tìm mệt mỏi cùng cực mà chẳng trông thấy, bèn tư duy tự ngộ, cái tâm khát
ngưỡng dứt bặt”. Hành giả cũng thế. Nếu dùng trí huệ
“vô ngã, vô thật pháp” [để quán chiếu], lúc bấy giờ, ý nguyện điên đảo sẽ dứt
bặt. Trong kinh Thanh Văn chẳng có thí dụ thành Càn Thát Bà này. Lại dùng tòa
thành để sánh ví cái thân, nhằm nói các duyên ấy thật sự có, nhưng thành là giả danh, nhằm
phá cái chấp “tôi, ta” vậy. Bồ Tát lợi căn, thâm nhập các pháp Không, cho nên
dùng thành Càn Thát Bà làm thí dụ. “Tất Địa cung” được
nói ở đây, có thượng, trung, hạ:
-
Thượng là cõi Phật mật nghiêm, vượt ngoài tam giới, hàng Nhị Thừa chẳng thể
thấy nghe.
-
Trung là mười phương thanh tịnh, trang nghiêm.
-
Hạ là cung điện của chư thiên, Tu La v.v…
Nếu
khi hành giả thành tựu ba phẩm Trì Minh Tiên, an trụ trong cung Tất Địa như
thế, hãy nên dùng thí dụ này để quan sát. Như do ánh nắng và hơi bốc lên từ biển làm nhân
duyên, [mà có huyễn tượng] chỗ cư trụ trang nghiêm, tráng lệ, đài gác, người
vật rạng rỡ đáng ưa, [gọi là “thành
Càn Thát Bà”]. Chớ nên giống như kẻ ngu muội, xằng bậy nẩy sanh tham
chấp, cầu mong cho là thật. Do nhân duyên này, trong các loại ngũ trần thù
thắng, nhiệm mầu, tịnh tâm sẽ chẳng vướng mắc!
(Kinh) Phục
thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ hưởng dụ giải liễu Chân Ngôn thanh, như duyên thanh hữu
hưởng, bỉ Chân Ngôn giả đương như thị giải.
(經)復次祕密主!以響喻解了真言聲,如緣聲有響,彼真言者當如是解。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Dùng thí dụ về tiếng vọng để hiểu rõ âm thanh Chân Ngôn, như
do âm thanh mà có tiếng vọng, người tu Chân Ngôn hãy nên hiểu như thế).
Thích
Luận nói: “Như hang động hay khe núi trong núi thẳm, hoặc chỗ khe suối
sâu kín, hoặc trong tòa nhà lớn trống trải, do âm thanh của tiếng nói va chạm nhau,
sẽ từ trong âm thanh ấy lại có tiếng phát ra, bèn gọi là tiếng vọng. Kẻ vô trí
cho là có thật. Bậc trí suy nghĩ: ‘Âm thanh này không do ai tạo ra, chỉ là do
âm thanh [ban đầu] chuyển biến, bèn có tiếng vọng lừa gạt tai người’. Khi người
sắp nói, trong họng có gió, gọi là Ưu Đà Na, nhập trở vào bụng. Khi tiếng vang
phát ra, va chạm bảy chỗ là đỉnh đầu, răng, môi, lưỡi, họng, ngực mà phát
ra, thì gọi là “nói năng”. Kẻ ngu chẳng hiểu, bèn sanh ra Tam Độc. Bậc trí biết
rõ, tâm chẳng chấp trước, chỉ tùy thuận Thật Tướng của các pháp”.
Hành
giả Chân Ngôn ở trong Du Già, nếu nghe đủ loại âm thanh thuận lòng hay trái ý
thuộc tám gió, hoặc các vị thánh nhân dùng vô lượng pháp âm để dạy bảo trong
hiện tiền, hoặc do lưỡi thanh tịnh mà có thể dùng một âm thanh trọn khắp thế
giới. Khi gặp cảnh giới ấy, cũng nên dùng thí dụ về tiếng vọng để quán sát.
Chúng chỉ từ các duyên thuộc Tam Mật mà có. Chuyện ấy chẳng phải sanh, chẳng
phải diệt, chẳng phải có, chẳng phải không. Vì thế, chớ nên xằng bậy sanh hý
luận trong ấy. Lúc bấy giờ, sẽ tự nhập pháp môn Âm Thanh
Huệ.
(Kinh) Phục
thứ, Bí Mật Chủ! Như nhân nguyệt xuất cố, chiếu ư tịnh thủy, nhi hiện nguyệt
ảnh tượng. Như thị Chân Ngôn thủy nguyệt dụ, bỉ trì minh giả đương như thị
thuyết.
(經)復次祕密主!如因月出故照於淨水而現月影像,如是真言水月喻,彼持明者當如是說。
(Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Như
do mặt trăng lộ ra, chiếu vào nước sạch, mà hiện ra bóng trăng. Cũng như thế, Chân
Ngôn ví như trăng trong nước, người trì minh (trì chú) hãy nên nói như thế).
Thích
Luận nói: “Mặt trăng xoay vần trên hư không, hiện bóng trong nước. Vầng
trăng pháp tánh chân thật ở trong hư không ‘như như pháp tánh Thật Tế’, mà tâm
thủy của phàm phu có tướng ngã và ngã sở hiện ra. Lại như trẻ nít thấy trăng
trong nước, bèn vui thích toan vớt lấy, người lớn trông thấy cười xòa. Kẻ vô
trí cũng thế, do Thân Kiến cho nên thấy có ‘tôi, ta’. Do chẳng có Thật Trí nên
thấy đủ loại pháp. Đã thấy rồi bèn hoan hỷ, muốn giữ lấy các tướng. Bậc thánh
nhân đắc đạo cười xòa. Lại như chỗ nước trong lặng, trông thấy bóng trăng; nước
xao động sẽ chẳng thấy. Trong nước lặng của cái tâm vô minh, sẽ thấy các bóng
dáng kết sử ‘tôi, ta’ kiêu mạn. Dùng gậy trí huệ quấy tâm thủy, sẽ chẳng thấy nữa! Do vậy nói: Các Bồ
Tát biết pháp như trăng trong nước”.
Hành
giả trì chú cũng giống như thế, do phương tiện Tam Mật lắng trong tự tâm, hải
hội mật nghiêm của chư Phật đều hiện trong ấy. Hoặc tự dùng thân Như Ý Châu để
hiện trong tâm thủy của hết thảy chúng sanh; lúc đó, hãy nên quán kỹ: “Tướng
mật nghiêm ấy sanh từ tịnh tâm của ta ư? Hay là sanh từ thân thanh tịnh của
Phật? Tự tha Thật Tướng còn tự rốt ráo bất sanh, huống hồ do nhân duyên trái
nghịch mà có cái được sanh ư”. Lại như hết thảy sông, ngòi, giếng, ao, các đồ
đựng lớn nhỏ, trăng cũng chẳng đến, mà nước cũng không đi, nhưng do một vầng
trăng thanh tịnh mà có thể vào trọn khắp các chỗ có nước. Ta nay cũng giống như
thế, tâm chúng sanh cũng chẳng đến, tự tâm cũng chẳng đi, nhưng thấy, nghe, đạt
được lợi ích đều chân thật, chẳng hư huyễn. Vì thế, hãy nên dùng gậy trí huệ để
khuấy, liền biết là chẳng thật! Chớ nên như trẻ nít, cứ muốn lập phương tiện để
giữ lấy, coi là vật yêu thích để chơi đùa. Đã có thể lắng tịnh ý niệm ấy, sẽ
lại như như bất động, vì người khác diễn nói. Cho nên nói là “trì minh
giả đương như thị thuyết” (người trì chú hãy nên nói như thế).
(Kinh) Phục
thứ, Bí Mật Chủ! Như thiên giáng vũ, sanh bào, bỉ Chân Ngôn Tất Địa chủng chủng
biến hóa, đương tri diệc nhĩ.
(經)復次祕密主!如天降雨生泡,彼真言悉地種種變化,當知亦爾。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Như trời đổ mưa, sanh ra bong bóng, hãy nên biết các thứ biến
hóa nơi Chân Ngôn Tất Địa cũng như thế).
Kinh
Thanh Văn ví Thọ như bọt nước, còn kinh Bát Nhã dùng bong bóng làm thí dụ, tuy thật
sự là vô tánh, nhưng nhân duyên vẫn là thật pháp. Vì vậy, trong mười câu
[“duyên sanh” của kinh Bát Nhã] có [thí dụ]“như hóa”, mà chẳng nói
tới thí dụ “bong bóng”. Nay thí dụ trong kinh này có ý nghĩa khác hẳn. Như tiết
Hạ, trời đổ mưa, tùy theo giọt mưa to hay nhỏ mà sanh ra các bong bóng, hình
loại đều khác, nhưng tánh nước vẫn là một vị, tự làm nhân duyên. Tìm cầu bốn
câu (có, không, vừa có vừa không, chẳng phải có chẳng phải không), [sẽ thấy
chúng] chẳng do pháp nào khác sanh ra. Vì vậy, toàn bộ cái Thể của các bong
bóng ấy là từ duyên. Bong bóng nổi lên tức là nước khởi lên, bong bóng vỡ tan
tức là nước diệt. Vì thế, điều được thí dụ ở đây chính là sự biến hóa trong cái
tâm. Như hành giả dùng ngay tự tâm để làm Phật, lại còn được vị Phật trong tâm
chỉ bày phương tiện để ngộ, chuyển nhập vô lượng pháp môn. Lại dùng tâm làm
Mạn-đồ-la, dùng cảnh này làm duyên cho tâm, sẽ có thể thực hiện đủ loại biến
hóa chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, hành giả dùng thí dụ bong bóng nước để quán,
biết rõ “chẳng lìa tự tâm”, cho nên chẳng sanh chấp trước.
Thích
Luận lại nói: “Người tu Định có mười bốn món biến hóa. Trời, rồng, quỷ
thần cũng có thể biến hóa, như hóa sanh trọn chẳng có vật nhất định, chỉ do tâm
sanh liền có, tâm diệt [thì các vật được biến hóa ấy] cũng diệt. Pháp ấy không
có đầu, giữa, cuối, sanh thì chẳng từ đâu tới, mà diệt cũng là chẳng đi về đâu.
Hãy nên biết các pháp cũng như thế. Lại như tướng biến hóa, thanh tịnh như hư
không, chẳng đắm nhiễm, chẳng bị tội hay phước nhuốm bẩn. Các pháp cũng thế,
pháp tánh, như như, Thật Tế tự nhiên thường tịnh. Ví như bốn con sông lớn nơi
Diêm Phù Đề, mỗi sông có năm trăm sông nhỏ làm quyến thuộc, nước của các con
sông ấy đủ loại bất tịnh, hễ đổ vào biển cả, thảy đều thanh tịnh”. [Đoạn
trích dẫn này] có cùng một ý nghĩa với thí dụ về bong bóng nước vậy!
(Kinh) Phục
thứ, Bí Mật Chủ! Như không trung vô chúng sanh, vô thọ mạng, bỉ tác giả bất khả
đắc, dĩ tâm mê loạn cố, nhi sanh như thị chủng chủng vọng kiến.
(經)復次祕密主!如空中無眾生、無壽命,彼作者不可得;以心迷亂故,而生如是種種妄見。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Như trong hư không chẳng có chúng sanh, chẳng có thọ mạng,
chẳng có tác giả để có thể đạt được, do tâm mê loạn mà sanh ra đủ mọi cách nhìn
hư vọng như thế).
Thích
Luận nói: “Như hư không tức là nó chỉ có tên gọi, chẳng có thật pháp.
Hư không chẳng phải là pháp có thể thấy, do nhìn từ xa thì mắt thấy nó màu xanh
thẫm. Các pháp cũng giống như thế, không vô sở hữu. Do con người xa cách vô lậu Thật Trí
mà vứt bỏ Thật Tướng, thấy đủ mọi thứ vật khác nhau như kẻ khác, ta, nam, nữ,
nhà cửa, thành quách v.v… Tâm chấp trước như trẻ nít ngửa mặt nhìn trời xanh,
cho đó là màu sắc thật sự [của bầu trời]. Có người bay lên xa tột bậc thì chẳng
thấy gì nữa. Lại như hư không tánh thường thanh tịnh, người ta cho rằng tăm tối
là bất tịnh. Các pháp cũng như thế, tánh ấy thường thanh tịnh, do bị dâm dục,
nóng giận v.v… che lấp, mà người ta bảo là bất tịnh”. Kinh này nói “tâm
mê loạn” là như người do các thứ nhân duyên như bệnh tật, hoặc phi
nhân v.v… [khuấy nhiễu] mà tâm mê loạn, hư vọng thấy trong hư không thanh tịnh
có đủ loại hình tướng nhân vật, hoặc là đáng sợ hãi, hoặc đáng tham đắm. Nếu
khi đạt được bổn tâm, sẽ biết khi các chuyện ấy sanh thì chẳng nhuốm bẩn hư
không. Khi [các chuyện
ấy] diệt thì cũng chẳng phải là [hư không] hồi phục thanh tịnh, [chuyện ấy] vốn
chẳng ngăn ngại hư không, mà cũng chẳng khác hư không. Khi hành giả tu quán
hạnh, nếu có đủ loại ma
sự, đủ loại cảnh
phiền não, đều nên trụ tâm trong thí dụ này “như hư không thanh tịnh”. Tuy
trong vô lượng kiếp, ở trong địa ngục, lúc đó, ý chẳng vướng mắc, như người đắc
thần thông ở nơi hư không hiển sắc, tự tại phi hành, chẳng bị vọng tưởng “nhân,
pháp” nhuốm bẩn!
(Kinh) Phục
thứ, Bí Mật Chủ! Thí như hỏa tẫn, nhược nhân chấp trì tại thủ, nhi dĩ toàn
chuyển không trung, hữu luân tượng sanh.
(經)復次祕密主!譬如火燼,若人執持在手,而以旋轉空中,有輪像生。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Ví như tàn lửa, nếu có người cầm trong tay xoay tròn trên
không, sẽ có hình tượng như một vòng lửa).
Như
người cầm đuốc lửa, xoay chuyển trên hư không, tạo thành đủ loại tướng, hoặc
vuông, hoặc tròn, tam giác, bán nguyệt, lớn, nhỏ, dài, ngắn, tùy ý mà làm. Trẻ
nhỏ ngu muội trông thấy, cho là có thật, bèn sanh ý niệm chấp trước. Nhưng thật
ra trọn chẳng có pháp nào sanh, chỉ do sức tay nhanh chóng, có thể chuyển một
ngọn lửa thành vô lượng tướng. Nếu hành giả Chân Ngôn đối với Du Già, tùy tâm
vận dụng, không gì chẳng thành tựu, cho tới trong một môn chữ A mà xoay chuyển
vô ngại thành vô lượng pháp môn. Lúc bấy giờ, hãy nên quán theo thí dụ này: Chỉ
do khéo vận dụng sức nhanh chóng nơi tâm Bồ Đề thanh tịnh nhất thể mà khiến
thành ra như thế, chớ nên từ trong đó mà nẩy sanh đủ loại kiến giải, cho đó là
thù thắng, nhiệm mầu để rồi nẩy sanh hý luận! Thích Luận không có thí dụ về
vòng lửa xoay, nhưng có thí dụ riêng về hình bóng, nói rằng: “Như hình
bóng có thể trông thấy, mà chẳng thể nắm bắt. Các pháp cũng như thế, tuy [có thể] thấy,
nghe, hay, biết bởi tròng mắt, tai v.v… nhưng đều thật sự chẳng thể được. Lại
như hình bóng do phản chiếu ánh sáng bèn hiện, chẳng có ánh sáng thì không hiện; các kết sử phiền não do
ngăn che ánh sáng chánh kiến, nên có ngã tướng và pháp tướng. Lại như hình
bóng, người đi bèn đi, người động bèn động, người đứng bèn đứng. Hình bóng của
nghiệp thiện ác cũng như thế. Lúc đi sang đời sau thì nó cũng đi theo. Khi đời
này trụ thì nó cũng trụ, do báo bất đoạn! Khi tội phước chín muồi thì sẽ hiện
ra, nhưng hình bóng ấy chẳng có vật, chỉ tùy thuộc cách nhìn của ai”. Như
xoay đuốc lửa nhanh chóng, sẽ chuyển thành vòng lửa, cũng chẳng phải là thật sự
có. Các thí dụ có ý nghĩa đại lược tương đồng!
(Kinh) Bí
Mật Chủ! Ưng như thị liễu tri Đại Thừa cú, tâm cú, vô đẳng đẳng cú, tất định
cú, Chánh Đẳng Giác cú, tiệm thứ Đại Thừa sanh cú, đương đắc cụ túc pháp tài,
xuất sanh chủng chủng công xảo đại trí, như thật biến tri nhất thiết tâm tướng.
(經)祕密主,應如是了知大乘句、心句、無等等句、必定句、正等覺句、漸次大乘生句,當得具足法財、出生種種工巧大智,如實遍知一切心相。
(Kinh: Này
Bí Mật Chủ! Hãy nên biết rõ câu Đại Thừa, câu tâm, câu không gì sánh bằng, câu
nhất định, câu Chánh Đẳng Giác, câu Đại Thừa lần lượt sanh khởi như thế, sẽ đạt
được trọn đủ pháp tài, xuất sanh đủ loại đại trí hay khéo, như
thật biết trọn khắp hết thảy các tâm tướng).
“Câu” trong tiếng Phạn là Bát Đàm (Pada), ý
nghĩa như đã giải thích trong phần trước. Mười thí dụ này đều là duyên khởi rất
sâu của người học Ma Ha Diễn, chẳng phải là chỗ đặt chân của Thanh Văn và Duyên
Giác. Vì thế gọi là “Đại Thừa cú”. Thật tánh của tâm trọn
chẳng có pháp nào để có thể chỉ bày rõ ràng, cũng chẳng thể trao cho người
khác, chỉ là lúc quan sát sâu xa như thế, vẹt mây ngăn chướng, sẽ tự chứng biết
mà thôi! Vì thế gọi là “tâm cú”. Hết thảy các pháp chẳng thể sánh ví tương tự trí
huệ của Như Lai được, mà cũng chẳng có gì vượt hơn được, nên gọi là “vô
đẳng”. Nhưng Thật Tướng của tâm, giống như hộp và nắp tương
xứng, chẳng chênh lệch, nên
gọi là “vô đẳng đẳng”. Nếu dùng mười duyên sanh để biết rõ tâm
xứ, sẽ an trụ trong đó, nên nói là “vô đẳng đẳng cú”. Chư Phật
do ý nghĩa của mười duyên sanh này, nhất định sẽ sư tử hống, nói ra ấn Thật
Tướng nơi Như Lai tánh tâm. Nếu có ai có thể tin hiểu, giả sử hết thảy các ma
trong mười phương thế giới đều hóa thân làm Phật để nói Tương Tự
Bát Nhã, trọn chẳng thể thay đổi cái tâm ấy, khiến cho pháp tướng chẳng như
thị. Vì thế gọi là “tất định cú”. Dùng Trung Đạo chánh quán
ấy, lìa hữu vi giới và vô vi giới, tâm vô tự tánh tột bậc sanh khởi, tức là vị
Phật trong tâm hiển hiện. Vì thế nói là “Chánh Đẳng Giác cú”. Do
tu quán sát sâu xa, như vào biển cả lần lần sâu dần, cho đến Tỳ Lô Giá Na Phật
dùng thượng thượng trí quán mới có thể thấu hiểu cùng tận nguồn cội. Vì thế nói
là “tiệm thứ Đại Thừa sanh cú”.
Hãy
nên biết sáu câu như thế, theo thứ tự giải thích lẫn nhau, theo thứ tự sanh ra
nhau. Tỳ Lô Giá Na Phật liền dùng pháp giới chẳng thể nghĩ bàn thuộc mười câu
duyên sanh ấy để làm vô tận trang nghiêm tạng, từ các pháp giới môn nhiều như
số vi trần trong mười thế giới, thường xuất sanh các báu Căn, Lực, Giác, Đạo,
Thiền Định, Giải Thoát để thí trọn khắp chúng sanh, vẫn chẳng thiếu hụt. Vì thế
nói là “cụ túc pháp tài” (trọn đủ pháp tài). Trí nghiệp của
hết thảy Như Lai do vậy mà trọn đủ, vì thế nói là “xuất sanh chủng
chủng công xảo đại trí huệ” (sanh ra đủ loại đại trí huệ khéo léo).
Nếu trong một niệm tâm, thấy rõ ý nghĩa mười duyên sanh, thì trên là sẽ tột
cùng vô tận pháp giới, dưới là tột cùng chúng sanh giới vô tận. Hết thảy các
tâm tướng trong đó đều có thể hiểu rõ rành rành do chúng đều từ duyên khởi, tức
Không, tức Giả, tức Trung. Vì thế nói là “như thật biến tri nhất thiết
tâm tướng” (đúng như thật biết trọn khắp hết thảy tâm tướng). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Hành
giả mới tu quán hạnh, khi cảnh giới hiện tiền, do sức của nội nhân và ngoại
duyên, tự nhiên có trí duyên khởi phát sanh. Chẳng giống như đường lối thông
thường, khổ công dốc sức tu Định tột bậc rồi sau đó mới thông triệt được”. Trong
bản tiếng Phạn có nói: “Tự thử dĩ hậu, thứ thuyết Chân Ngôn giả trì
tụng thứ đệ, như pháp Tất Địa, như pháp quả sanh” (từ đây trở về sau,
kế đó, sẽ nói thứ tự trì tụng của người hành Chân Ngôn, Tất Địa đúng như pháp,
sanh khởi cái quả đúng như pháp). Đấy là do người truyền pháp ghi lại, cho nên
chẳng phải là điều được nói trong chánh kinh. Đại ý của [đoạn văn ấy] là: Đã
nói các tâm tướng của Bồ Đề tâm thanh tịnh xong, từ đấy trở đi, bèn nói về
phương tiện tấn tu, và cái quả được sanh bởi Tất Địa.
2. Phẩm thứ hai: Nhập Mạn-đồ-la Cụ Duyên
Chân Ngôn (Nhập Mạn-đồ-la Cụ Duyên Chân Ngôn phẩm đệ nhị, 入漫荼羅具緣真言品第二)
Phẩm
thứ hai là Nhập Mạn-đồ-la Cụ Duyên Chân Ngôn. Phẩm trước dựa theo các thứ tâm
tướng để biện định hết thảy trí tâm đã xong, nhưng dùng phương tiện nào để có
thể đạt tới diệu quả ấy? Do vậy, phẩm kế tiếp bèn nói về các chi phần để trọn
đủ các duyên hòng hành pháp tiến nhập Mạn-đồ-la, và các chân ngôn cần thiết [để
tác pháp. Những điều ấy] đều được nói cặn kẽ trong phẩm này. Ví như đã biết sữa
và lạc có tánh của đề-hồ, liền dạy chuẩn bị đầy đủ các vật dụng và phương tiện
để khuấy đảo, vì từ duyên mà khởi. Hãy nên biết chẳng khác mười câu duyên sanh
vậy.
Lại
nữa, trong kinh Thanh Văn, coi Tỳ Ni (Vinaya, Luật Tạng) là tạng bí mật, phải chọn lựa
đối tượng và tuyển chọn đại chúng rồi mới truyền trao. Nếu [là kẻ] chưa phát
tâm thọ trì luật nghi, chẳng hợp lắng nghe, tu tập. Ma Ha Diễn cũng coi Trì
Minh (hành trì Chân Ngôn) là tạng bí mật, người chưa vào Mạn-đồ-la chẳng thích
hợp đọc tụng, thọ trì, ngược lại còn giống như kẻ trộm nghe bố-tát[18] chuốc lấy tội nặng. Vì lẽ nào
vậy? Như người đời từ ái nuôi nấng con thơ, tuy lòng chẳng keo tiếc gì, nhưng
chẳng ban cho chúng nó [hai thanh gươm báu] Can Tương và Mạc Da, do chúng nó
chẳng biết phương tiện vung, múa, ắt sẽ tổn thương thân thể. Nay pháp môn này
cũng giống như thế, do chỉ thú “tức tâm thành Phật” khó biết,
sợ chúng sanh trong đời vị lai sẽ khinh mạn pháp, chẳng thể tìm hỏi thiện tri
thức, chưa được Tam Mật gia trì, mà tự khởi tâm suy đoán, chấp vào văn tự, tự
tiện tu học, đổ công dốc sức đã lâu mà chẳng thể thành tựu, liền ngược ngạo
báng bổ kinh này chẳng phải do đức Phật nói.
Hơn
nữa, kinh văn trong kinh này có hai cách giải thích “sơ sài, nông cạn” và “sâu
xa, bí mật”, mà trong cách giải thích “sâu xa, bí mật” lại có sâu và cạn, kẻ tự
tiện giở xem chơi, do chẳng hiểu danh hiệu bí mật, quở là nhân duyên sự tướng,
sanh tâm khinh mạn, coi thường, tự nói: “Ta hành chân đạo, cần gì dùng
tới chuyện thuộc chú thuật!” Do nhân duyên như thế, cảm lấy nghiệp quỹ
pháp (ngăn trở chẳng cho pháp lưu truyền), trong vô lượng kiếp đọa vào đường
ác. Vì thế, đối với người tu học Chân Ngôn, trước hết, phải dạy họ nhập Mạn-đồ-la. Danh
nghĩa Mạn-đồ-la sẽ được giải thích trong phần sau.
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: - Hy hữu Thế Tôn! Thuyết
thử chư Phật tự chứng Tam Bồ Đề bất tư nghị pháp giới siêu việt tâm địa, dĩ
chủng chủng phương tiện đạo, vị chúng sanh loại như bổn tánh tín giải, nhi diễn
thuyết pháp. Duy nguyện Thế Tôn thứ thuyết tu Chân Ngôn hạnh Đại Bi Thai Tạng
sanh đại Mạn-đồ-la vương, vị mãn túc bỉ chư vị lai thế vô lượng chúng sanh, vị
cứu hộ an lạc cố.
(經)爾時執金剛祕密主白佛言:希有世尊!說此諸佛自證三菩提不思議法界超越心地,以種種方便道,為眾生類如本性信解而演說法。惟願世尊次說修真言行大悲胎藏生大漫荼羅王,為滿足彼諸未來世無量眾生、為救護安樂故。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: - Đức Thế Tôn hy hữu, nói
tâm địa siêu việt pháp giới chẳng thể nghĩ bàn do chư Phật tự chứng Tam Bồ Đề
này, dùng các thứ đạo phương tiện, vì các loài chúng sanh, đúng như sự tín giải trong bổn tánh
của họ mà diễn nói pháp. Kính mong đức Thế Tôn kế đó hãy nói cách tu Chân
Ngôn hành Đại
Bi Thai Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la vương, nhằm thỏa ý, vì cứu giúp, an vui vô
lượng chúng sanh trong đời vị lai).
Đây chính là ngài
Kim Cang Thủ do nương vào thần lực của đức Phật mà lãnh ngộ phần kinh văn trên
đây. Trước
hết, Ngài tán
thán đức Thế Tôn hết sức kỳ đặc, vì đức Phật trọn đủ đại phương tiện, nên mới có thể nói Tam Bồ Đề do chư
Phật tự chứng, tức là: Tự
tâm tự giác pháp giới chẳng thể nghĩ bàn, vượt ngoài hết thảy các tâm địa, đích xác là
chẳng nương tựa vào đâu. Như người đời giở chân, cất bước, đều nương vào đất; Bồ Tát cũng như thế, nương vào tâm mà
thực hiện. Vì thế, gọi tâm ấy là “địa”. Do
tâm hễ còn có chỗ để nương vào, sẽ chưa thể gọi là Chánh Biến Tri. Như Lai đã
vượt ngoài sự hý luận vi tế ấy, các sự tiến nhập (tu chứng) đều ngưng dứt, cho
nên gọi là “siêu việt tâm địa”. Tuy chẳng thể diễn tả sự tịch
diệt rốt ráo bằng ngôn từ, nhưng có thể dùng đủ loại phương tiện đạo, vì các
loài chúng sanh, đúng
như sự tín giải trong bổn tánh của họ để diễn nói pháp, tức là lãnh ngộ, thấu
hiểu dấu tích của sự
trang nghiêm vô tận nơi cái
tâm Nhất Thiết Trí. Pháp giới chẳng nghĩ
bàn được sánh ví như đài hoa sen; các thứ phương tiện đạo được ví như cánh
sen. Kinh
văn nói về sự lãnh ngộ, thấu hiểu ấy tuy giản lược, nhưng đã nêu bày ý chỉ mầu
nhiệm “tông thông” không gì chẳng trọn vẹn!
Kế
đó là thỉnh Phật, “duy nguyện Thế Tôn thứ thuyết tu Chân ngôn hạnh Đại
Bi Thai Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la Vương” (kính mong đức Thế Tôn kế đó
hãy nói hạnh Chân Ngôn của Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la Vương). Nay xét theo
thai tạng (bào thai) để làm thí dụ. Hành giả vừa mới phát tâm Nhất Thiết Trí,
giống như do nhân duyên cha mẹ hòa hợp, chủng tử của thức nương gá vào thai.
Lúc bấy giờ, sẽ dần dần tăng trưởng, được gió hạnh nghiệp khéo hun đúc. Cho đến
khi mới sanh ra, các căn, trăm thể thảy đều trọn đủ, bắt đầu sanh trưởng trong
dòng họ của cha mẹ. Ví như [hành giả] nương vào Chân Ngôn môn, học đại bi vạn
hạnh, tịnh tâm hiển hiện. Lại nữa, đứa trẻ ấy dần dần trọn đủ nhân và pháp, học
tập các tài khéo. Đã thông đạt tài khéo rồi, sẽ thực hiện các sự nghiệp. Như
trong tịnh tâm, phát khởi phương tiện tu tập, đối trị trong địa vị của
chính mình, tùy duyên lợi vật (lợi ích các loài chúng sanh), tế độ chúng sanh.
Vì thế gọi là “Đại Bi Thai Tạng sanh”. Lại nữa, thoạt đầu nhập
Bồ Đề tâm thanh tịnh môn, thấy pháp, hiểu đạo, giống như chủng tử của thức
[tiến nhập] Ca La La[19]. Trước khi [hành nhân] đạt tới Thất
Địa, được đại bi vạn hạnh bao bọc, nuôi dưỡng, giống như ở trong thai tạng. Từ
địa vị Vô Công Dụng Hạnh trở đi, dần dần học theo phương tiện của Như Lai, như
trẻ nít đã sanh ra, học tập các tài khéo. Khi đã đạt tới địa vị Nhất Thiết Trí
của Như Lai, giống như tài khéo đã thành tựu, bèn theo đuổi việc cai trị. Vì
thế gọi là “Đại Bi Thai Tạng sanh”.
Lại
còn là một loại bí mật Mạn-đồ-la, nay dùng hoa sen để sánh ví ý nghĩa Mạn-đồ-la
ấy. Như hạt sen còn ở trong vỏ cứng, tánh của cành, nhánh, hoa, lá đã rành rành
trọn đủ, giống như cái tâm chủng tử của thế gian. Từ đấy, dần dần tăng trưởng,
cho đến khi mới trổ thành búp sen, thì gương sen và hạt sen được ẩn giấu trong
cánh sen, như cái tâm xuất thế gian vẫn còn ở trong Uẩn. Lại do được cánh sen
bao bọc, chẳng bị các duyên “gió, lạnh” tổn thương, tua, nhụy màu sắc thanh
tịnh ngày đêm được vun bồi. Ví như Đại Bi Thai Tạng đã thành tựu, [hoa sen] được chiếu rạng, nở xòe dưới ánh mặt trời,
giống như phương tiện đã trọn đủ.
Nay
trong ý nghĩa của Diệu Pháp Liên Hoa Mạn-đồ-la ở đây, cái tâm thường hằng nơi
bổn địa của đức Tỳ Lô Giá Na được cụ thể hóa thành đài sen, bốn vị
Phật (Vô Lượng Thọ, Bảo Tràng, Khai Phu Hoa Vương, và Thiên Cổ Lôi Âm), bốn vị
Bồ Tát (Phổ Hiền, Văn Thù, Quán Âm, Di Lặc) là đề hồ quả đức, như các hạt sen
đã đều kết thành. Các kim cang huệ sai biệt trí ấn nhiều như số vi trần trong
mười thế giới giống như tua, nhụy. Các Đại Bi vạn hạnh Ba La Mật môn nhiều như
số vi trần trong mười thế giới ví như hoa tạng. Vô lượng Ứng Thân trong tam
thừa lục đạo giống như rễ, thân, cành, lá, xen lẫn tỏa rạng. Do các đức như thế
vây quanh trọn khắp, nên gọi là Mạn-đồ-la. Nhưng do được Như Lai gia trì, từ
đức tự chứng nơi Bồ Đề của Phật, hiện ra thân thai tạng nơi tám cánh sen (Trung
Đài Bát Diệp). Từ Kim Cang mật ấn, hiện ra tầng nội quyến thuộc thứ nhất như
Kim Cang Thủ v.v… Từ đại bi vạn hạnh, hiện ra tầng đại quyến thuộc thứ hai
gồm các vị Ma Ha Tát Đỏa. Từ phương tiện phổ môn, hiện ra tầng thứ ba gồm các
thân theo từng loại mà hết thảy chúng sanh thích thấy. Nếu dùng cách quán đảnh của Luân Vương để so
sánh thì tầng thứ ba giống như người đứng đầu trong vạn quốc, tầng thứ hai như trăm quan
thuộc triều đình, tầng thứ nhất như người phù tá thuộc tông thất, trung đài như
vị vua khoanh tay. Vì thế, Thường Trí trong hoa đài là đại Mạn-đồ-la vương.
Nếu
từ Bổn mà hiện Tích, thì từ mỗi môn của Trung Đài, đều lưu xuất các loại môn thuộc tầng thứ nhất. Từ mỗi môn
thuộc tầng thứ nhất, đều lưu xuất các loại môn thuộc tầng thứ hai. Từ mỗi môn
thuộc tầng thứ hai, đều lưu xuất các loại môn thuộc tầng thứ ba. Nếu do tu hành cái
nhân mà đạt tới quả, thì sự thành tựu được dẫn nhiếp thuộc tầng thứ ba có thể
thông tới tầng thứ hai, sự thành tựu được
dẫn nhiếp nơi tầng thứ hai có thể thông tới tầng thứ nhất, sự thành tựu được
dẫn nhiếp ở tầng thứ nhất có thể thấy trong Thai Tạng. Do vậy bèn nói, tuy sự
tín giải nơi bổn tánh của các loài chúng sanh vô lượng vô biên, nhưng nghĩa lợi[20] được thực hiện bởi pháp môn
Mạn-đồ-la này vẫn bao
gồm trọn hết, không
gì thừa sót. Do vậy nói: “Vị mãn túc bỉ chư vị lai thế vô lượng chúng sanh, vị
cứu hộ an lạc cố” (vì thỏa mãn vô lượng chúng sanh
trong đời vị lai, vì cứu giúp an vui).
(Kinh) Nhĩ
thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ư đại chúng hội trung, biến quán sát dĩ, cáo
Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Đế thính, Kim Cang Thủ! Kim thuyết tu hành
Mạn-đồ-la hạnh, mãn túc Nhất Thiết Trí trí pháp môn”. Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na
Thế Tôn bổn tích thệ nguyện thành tựu vô tận pháp giới, độ thoát vô dư chúng
sanh giới cố, nhất thiết Như Lai đồng cộng tập hội, tiệm thứ chứng nhập Đại Bi
Tạng, phát sanh tam-ma-địa. Thế Tôn nhất thiết chi phần, giai tất xuất hiện Như
Lai chi thân, vị bỉ tùng sơ phát tâm, nãi chí Thập Địa chư chúng sanh cố, biến
chí thập phương, hoàn lai Phật thân bổn vị, bổn vị trung trụ, nhi phục hoàn
nhập.
(經)爾時薄伽梵毘盧遮那於大眾會中遍觀察已,告執金剛祕密主言:諦聽。金剛手!今說修行漫荼羅行滿足一切智智法門。爾時毘盧遮那世尊本昔誓願成就無盡法界度脫無餘眾生界故,一切如來同共集會,漸次證入大悲藏發生三摩地,世尊一切支分皆悉出現如來之身,為彼從初發心乃至十地諸眾生故,遍至十方還來佛身本位,本位中住而復還入。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ở trong đại chúng hội, quán sát trọn khắp
xong, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Lắng nghe! Kim Cang Thủ! Nay ta nói
pháp môn tu hành Mạn-đồ-la hạnh trọn vẹn trí Nhất Thiết Trí”. Lúc bấy giờ, do
thệ nguyện vốn có xưa kia của Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn là “thành tựu vô tận pháp
giới, độ thoát chúng sanh giới chẳng sót”, hết thảy Như Lai đều cùng nhóm họp,
lần lượt chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa. Nơi hết thảy chi phần
của đức Thế Tôn, thảy
đều xuất hiện thân Như Lai, vì các chúng sanh từ sơ phát tâm cho đến Thập Địa
mà đến trọn khắp mười phương, trở lại bổn vị nơi thân Phật, trụ trong bổn vị
rồi lại nhập trở vào).
Kinh
dạy: “Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ư đại chúng hội trung, biến
quán sát dĩ, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Đế thính, Kim Cang Thủ! Kim
thuyết tu hành Mạn-đồ-la hạnh, mãn túc Nhất Thiết Trí trí pháp môn” (Lúc
bấy giờ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ở trong đại chúng hội, quán sát trọn khắp
xong, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Kim
Cang Thủ! Hãy lắng nghe! Nay ta sẽ nói pháp môn tu hành Mạn-đồ-la hạnh, trọn
vẹn trí Nhất Thiết Trí”): “Đại hội” ở
đây chính là chúng sanh đáng nên độ, được
nhiếp thọ bởi
Pháp Giới Mạn-đồ-la. Nay đức Phật muốn nói hạnh thâm mật, nhằm khiến cho đạo cơ
chẳng sai lạc, bèn dùng huệ nhãn quán sát. Tức là [chúng sanh] do được huệ nhãn
ấy gia trì, mầm thiện từ đời trước không gì chẳng được khai phát. Giống như
ruộng tốt đã được rải hạt giống tốt, kham được mưa đúng thời tưới tắm. “Tu
hành” ở đây, tiếng Phạn là Na Da (Naya), có nghĩa là Thừa hoặc Đạo. Ý
nói từ một niệm thiện căn cho đến khi thành Phật, trong khoảng giữa ấy, pháp
được vận dụng và đạo được hành trong mỗi địa vị, đều được gọi chung là Na Da.
Các vị thiện tri thức trong Mạn-đồ-la như người tạo cỗ xe, đắp đường, và hướng
dẫn, chúng sanh ngồi xe ấy để đi, gọi là “tu Mạn-đồ-la hạnh”. Hạnh
này trong tiếng Phạn là Chiết-lợi-da.
Lại
như kinh văn trong phần sau có nói: “Tiên vị đệ tử trạch trị bình địa” (Trước
hết, vì đệ tử chọn lựa, sửa sang cuộc đất bằng phẳng), nếu luận theo sự tướng
bên ngoài thì như cách giải thích thông thường. Nếu vì phàm phu điên đảo chấp
ngã, chọn lấy một niệm chủng tử tâm, giữ gìn trai giới, sửa trị, khiến cho [tâm
người ấy] bình thản, chánh đáng, thì cũng gọi là “trị địa” (sửa
sang cuộc đất). Cho đến vì Nhất
Sanh Bổ Xứ Bồ Tát chọn lựa trừ khử trần cấu cực vi tế nơi cha mẹ vô minh trong tâm, cũng gọi là “trị
địa”. Do vậy bèn nói: Ý nghĩa “trị địa” được nói
trong mỗi câu kinh văn thuộc phần sau đều có mấy tầng. Giống như mười câu duyên
sanh, đều lần lượt chuyển thành sâu hơn, chẳng thể cùng tận! Ngài Chấp Kim Cang
khuyến thỉnh như thế, đức Phật lại dùng cái ấn ấy để ấn chứng, sau đó rộng nói, cho nên bảo là “mãn túc Nhất Thiết Trí
trí pháp môn” (pháp môn trọn vẹn trí Nhất Thiết Trí). Nếu địa này
chẳng mãn, sẽ chẳng thể cứu giúp, an vui trọn khắp hết thảy chúng sanh được!
Kinh
dạy: “Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bổn tích thệ nguyện thành tựu vô
tận pháp giới, độ thoát vô dư chúng sanh giới cố, nhất thiết Như Lai đồng cộng
tập hội, tiệm thứ chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa” (Lúc
bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn do thệ nguyện vốn sẵn có từ xưa kia là “thành tựu vô tận pháp giới, độ thoát chúng
sanh giới chẳng sót”, hết thảy các Như Lai
đều cùng nhóm họp, lần lượt chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa): Do
Như Lai vốn khi hành Bồ Tát đạo, đã lập thệ nguyện như thế này: “Ta sẽ
thành tựu hết thảy các Phật pháp giới, thảy đều độ thoát chúng sanh giới chẳng
thừa sót”. Nay sở nguyện đã mãn, nhưng chúng sanh đáng độ chẳng tận.
Do chúng sanh vô tận, tức là pháp giới cũng vô tận. Giới có ba loại, tức là
pháp giới, tâm giới, và chúng sanh giới. Lìa pháp giới, chẳng có chúng sanh
giới nào khác; chúng sanh giới chính là pháp giới. Lìa tâm giới, chẳng có pháp
giới nào khác; pháp giới chính là tâm giới. Hãy nên biết ba loại ấy chẳng hai,
chẳng khác. Vì muốn diễn giải ý
nghĩa của pháp giới, kế đó nói tới “vô dư chúng sanh giới”. Do
chúng sanh giới chưa được giải thoát hết thảy, tức là pháp giới chưa được thành
tựu trọn khắp, nên Như Lai siêng tu sự nghiệp, chẳng hề ngưng nghỉ. Tức là do
nhân duyên bổn nguyện này, hết thảy Như Lai cùng nhau tụ tập. Như trong tăng
chúng có đại sự nhân duyên như kết giới, thuyết giới v.v… Tăng chúng liền nhóm lại
cùng nhau ấn chứng, tiến hành. Do có cùng một giới, cùng một cách nhìn, chẳng
nên có chúng khác. Nay sắp nói pháp môn “trọn vẹn trí Nhất Thiết Trí”, cũng là đại sự nhân duyên của chư
Phật, do [chư Phật] có cùng một bổn thệ, cùng một pháp giới, nên thảy đều nhóm
họp, cùng dùng thần lực gia trì.
“Tiệm
thứ chứng nhập” (lần lượt chứng nhập): Như lúc vô úy sơ khởi, dùng âm
thanh và chữ [trong chân ngôn] để quán tu Mạn-đồ-la hạnh. Loại vô úy thứ hai
thì tu Mạn-đồ-la hạnh trong hữu tướng quán. Loại vô úy thứ ba thì tu Mạn-đồ-la
hạnh, trong tâm chỉ có Uẩn, không có ngã.
Loại vô úy thứ tư thì tu Mạn-đồ-la hạnh trong tâm pháp duyên. Loại vô úy thứ
năm, tu Mạn-đồ-la hạnh trong tâm vô duyên. Loại vô úy thứ sáu, tu Mạn-đồ-la
hạnh trong tâm bình đẳng. Từ Ly Cấu Địa trở đi, đều tu Mạn-đồ-la hạnh trong
quán tâm thuộc mỗi địa vị của chính mình. Đại lược phân chia theo hạnh vị, bèn
có mười sáu tầng sâu cạn khác nhau. Trong mỗi hạnh vị ấy, đều có Bồ Đề chủng tử
tâm, có nhân duyên tăng trưởng Đại Bi Thai Tạng, có cái quả thọ dụng của huệ phương tiện nghiệp như
trong phần trước đã nói: “Từ mỗi môn đều lưu xuất các loại môn”. Trong
đó, từ nhân hướng tới quả, phương tiện Tam Mật lần lượt khác nhau, dung hội tột
bậc tới biển cả tâm vương thì mới là “có cùng một vị, chẳng khác”. Nay
mười phương chư Phật vốn khi hành Bồ Tát đạo, mỗi vị đều nương theo một pháp
môn để đạt tới địa vị Nhất Thiết Trí. Do sắp nói nhân duyên phát khởi các hạnh
Phổ Môn, [chư Phật] bèn cùng nhập Đại Bi Thai Tạng tam-muội này, từ đạo do
chính mình vốn đã tu hành, lần lượt chứng nhập, mỗi mỗi quán sát. Như khi Bồ
Tát tu Thiền, trong Cửu Thứ Đệ Định, xuất nhập nghịch thuận, vượt ngoài định
hay tán, phấn tấn du hý, không gì chẳng tự tại. Các vị Như Lai ấy lần lượt
chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa cũng giống như thế: Hoặc quán vô
tận pháp giới, lấy hết thảy các tâm làm một tâm, dùng hết thảy các môn làm một
môn. Hoặc quán chúng sanh giới chẳng thừa sót, dùng một tâm làm hết thảy các
tâm, lấy một môn làm hết thảy các môn. Nếu vận dụng mười sáu tầng huyền nghĩa
ấy, sẽ là ngang dọc đều nhiếp trọn mười hai bộ loại kinh, tức là lần lượt xoay
chuyển vô tận vậy!
Kinh
dạy: “Thế Tôn nhất thiết chi phần, giai tất xuất hiện Như Lai chi thân” (trong
hết thảy các chi phần của đức Thế Tôn, thảy đều xuất hiện thân Như Lai). Trong
phần trước, khi hiện trang nghiêm tạng, mỗi thân Phổ Môn đều trọn khắp mười
phương, tùy duyên ứng hợp căn cơ của chúng sanh. Nay do muốn nói địa vị viên
mãn trong Mạn-đồ-la, lại dựa theo thượng, trung, hạ thể của thân Phật để phân
chia theo bộ loại:
1)
Từ rốn trở xuống, thị hiện sanh thân của Phật Thích Ca, thị hiện giống như pháp
của loài người, các thứ hình sắc, oai nghi của Nhị Thừa và sáu đường, tiếng
nói, đàn, tòa mỗi mỗi khác biệt, và các quyến thuộc lần lượt khác nhau, khắp
trong tám phương, đúng theo thứ tự của bổn vị trong Mạn-đồ-la mà trụ.
2)
Từ rốn trở lên tới họng, xuất hiện vô lượng các Bồ Tát Thập Trụ, mỗi vị đều duy trì thân
Tam Mật, cùng vô lượng quyến thuộc, khắp trong tám phương đều theo thứ tự của
bổn vị trong Mạn-đồ-la mà trụ. Nhưng trong ấy có hai tầng:
a.
Từ tim trở xuống là các đại quyến thuộc trì đại bi vạn hạnh số nhiều như vi
trần trong mười cõi Phật.
b.
Từ tim trở lên là các nội quyến thuộc trì kim cang mật huệ số nhiều như vi trần
trong mười cõi Phật, được gọi chung là “đại tâm chúng”.
3)
Từ họng đến đỉnh đầu, xuất hiện thân Phật thuộc quả đức Tứ Trí tam-muội.
Tức
là tám thân ấy, ở trong hết thảy các thế giới, đồ chúng, cõi nước, danh hiệu, thân
nghiệp, các chuyện thọ dụng, thảy đều bất đồng, cũng ở trong tám phương theo
thứ tự của bổn vị trong Mạn-đồ-la mà trụ.
Kinh
dạy: “Vị bỉ tùng sơ phát tâm nãi chí Thập Địa chư Bồ Tát” (vì
các Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến Thập Địa), tức là khi mới phát Bồ Đề tâm
thanh tịnh, thấy Mạn-đồ-la này đã trọn khắp pháp giới. Thăng lên Đệ Nhị Trụ,
lại càng sâu rộng hơn, lại càng mở rộng, sáng suốt hơn, cho đến Đệ Thập Nhất
Địa, cái thấy mới viên mãn cùng cực. Xếp đặt phận vị như thế xong, đều tới khắp
mười phương, ở trong pháp giới môn của chính mình mà thực hiện sự nghiệp Chân
Ngôn, thị hiện tấn tu theo thứ tự, làm vị dạy bảo chủ yếu cho đại chúng. Tướng
ấy hiện tiền rành mạch, vô ngại. Kinh văn được nói trong phần sau chỉ nhằm nêu
bày cái tâm này, gán cho nó một danh tự để lưu thông đó thôi! Lại còn tùy
loại mà hiện thân trọn khắp. [Kinh văn] lại còn nói “tất hiện Như Lai thân” (đều hiện thân Như Lai), nhằm nêu rõ Bổn và Tích đều chẳng thể
nghĩ bàn, gia trì bất nhị, há có muốn khiến cho độc nhất một pháp giới dấy lên các
thứ hình tượng ư? Khi hành giả đã hiểu như thế, sẽ thấy Tỳ Lô Giá Na và quỷ,
súc sanh tôn quý như nhau. Cái tâm bình đẳng, chẳng có tướng “hơn, kém”, liền
từ một môn mà nhập, đều thấy tâm vương. Vì thế, [chư Phật] thực hiện Phật sự
xong, kinh nói: “Biến chí thập phương, hoàn lai nhập Phật thân bổn vị,
bổn vị trung trụ nhi phục hoàn nhập” (tới trọn khắp mười phương, trở
lại nhập vào bổn vị nơi thân Phật, trụ trong bổn vị rồi lại nhập vào), ý nói
hết thảy các phương tiện rốt ráo đồng quy.
(Kinh)
Thời Bạc Già Phạm phục cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Đế thính, Kim Cang
Thủ! Mạn-đồ-la vị sơ a-xà-lê ưng phát Bồ Đề tâm, diệu huệ từ bi, kiêm tổng
chúng nghệ, thiện xảo tu hành Bát Nhã Ba La Mật, thông đạt tam thừa, thiện giải
chân ngôn thật nghĩa, tri chúng sanh tâm, tín chư Phật, Bồ Tát, đắc truyền giáo
quán đảnh đẳng, diệu giải mạn-đồ-la họa, kỳ tánh điều nhu, ly ư ngã chấp. Ư
Chân Ngôn hạnh, thiện đắc quyết định, cứu tập Du Già, trụ dũng kiện Bồ Đề tâm.
Bí Mật Chủ! Như thị pháp tắc A-xà-lê, chư Phật, Bồ Tát chi sở xưng thán.
(經)時薄伽梵復告執金剛祕密主言:諦聽。金剛手!漫荼羅位初阿闍梨應發菩提心,妙慧慈悲兼綜眾藝,善巧修行般若波羅蜜,通達三乘,善解真言實義,知眾生心,信諸佛菩薩,得傳教灌頂等妙解漫茶羅畫,其性調柔離於我執,於真言行善得決定,究習瑜伽,住勇健菩提心。祕密主,如是法則阿闍梨,諸佛菩薩之所稱讚。 (Kinh: Khi
đó, Bạc Già Phạm lại bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lắng nghe, Kim Cang
Thủ! Điều trước hết trong Mạn-đồ-la là vị A-xà-lê hãy nên phát Bồ Đề tâm,
diệu huệ, từ bi, kiêm thông thạo mọi nghề, khéo léo tu hành Bát
Nhã Ba La Mật, thông đạt tam thừa, khéo hiểu ý nghĩa chân thật của chân ngôn,
biết tâm chúng sanh, tin tưởng chư Phật, Bồ Tát, đã được truyền giáo pháp, quán
đảnh v.v… thông hiểu cách vẽ Mạn-đồ-la, bẩm tánh thuần hòa, mềm mỏng, lìa khỏi
Ngã Chấp, khéo đạt được quyết định nơi hạnh Chân Ngôn, nghiên cứu, tu tập Du
Già, trụ trong Bồ Đề tâm mạnh mẽ. Bí Mật Chủ! Vị A-xà-lê đúng pháp tắc như thế
được chư Phật, Bồ Tát khen ngợi).
Từ
đây trở đi cho đến lúc phần dạy răn quán đảnh đã xong, Kim Cang Thủ hỏi [đức
Thế Tôn, hành nhân] sẽ đạt được mấy loại khối phước, bèn bạch Phật rằng: “Tùng
kim dĩ hậu, ngã đương cúng dường thị thiện nam tử, thiện nữ nhân. Hà dĩ cố? Bỉ
thiện nam tử, thiện nữ nhân đồng kiến Phật Thế Tôn cố” (Từ nay trở đi,
con sẽ cúng dường thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy. Vì sao vậy? Do [thấy] thiện
nam tử, thiện nữ nhân ấy, giống như thấy Phật Thế Tôn). Phần này nói tới nhiều
chi phần[21] để nhập
Mạn-đồ-la. Lại từ phần Đại Lực Minh Phi cho tới cuối phẩm thứ hai, sẽ nói về các chân ngôn
cần thiết để tác pháp trong đàn tràng. Đối với các chi phần [để nhập mạn-đồ-la], trước hết là chi
phần (tiểu đoạn) nói về [phẩm đức của] A-xà-lê. Vì lẽ nào vậy? Đức Phật
nói “kinh
này phải được thọ trì từ thầy, chớ nên tự tiện tu hành”. Nếu chẳng có minh sư, sẽ chẳng thể
nhờ vào đâu để được truyền thọ! Nhưng do hiểu hai loại nghĩa mà được gọi là A-xà-lê; tức là chia thành “nông cạn, sơ sài” và
“cao sâu” [để luận định]. Nếu thấy người học chưa có cơ duyên tin hiểu sâu xa,
bèn thuận theo đường lối thông thường, dựa theo kinh văn để giải thích. Nếu
[người đến học] đã thành tựu trí huệ, lợi căn, ắt nên diễn nói thông suốt chỗ
sâu xa, bí mật để dạy bảo. Nay tôi dùng hai cách phân định ấy để giải thích ý
nghĩa A-xà-lê.
Nếu đối
với các loại chi phần của Mạn-đồ-la này, cho đến hết thảy chân ngôn, thủ ấn, quán
hạnh và Tất Địa của hết thảy chư tôn (các vị Phật, Bồ Tát, thánh chúng trong
Mạn-đồ-la) thảy đều thông đạt, sẽ có thể truyền giáo, quán đảnh, bèn gọi là
A-xà-lê (Ācārya). Nếu vượt khỏi tám tâm trái nghịch hay tùy
thuận, chứng tịch nhiên giới, thì gọi là A-xà-lê. Nếu tâm vương của chính mình
tự tại, hiểu rõ “tự tâm vốn bất sanh” thì gọi là A-xà-lê. Nếu
sanh khởi cực vô tự tánh tâm, được nhập các hải hội Mạn-đồ-la như trên,
thì gọi là A-xà-lê. Từ đây trở đi, lại có mười tầng hạnh sâu, cho đến là bậc
thượng thủ cao tột nhất trong những người thấu hiểu Tam Mật, như ngài Kim Cang
Tát Đỏa (Vajrasattva),
thì gọi là A-xà-lê. Lại nữa, đức Tỳ Lô Giá Na được gọi là A-xà-lê. Vì thế, khi
thực hiện sự nghiệp đầu tiên của bậc A-xà-lê, cần phải quán chiếu thân mình
giống hệt Kim Cang Tát Đỏa và Tỳ Lô Giá Na, dùng thân ngữ mật ấn để gia trì,
bèn gọi là “thiện trụ sư vị” (khéo trụ trong địa vị làm thầy).
Nếu không, chẳng có gì có thể thành được! Đối với các hạnh sâu khác, [độc giả]
có thể tự lãnh hội. Kế đó, [chánh kinh] nói về các đức của bậc A-xà-lê.
Kinh
dạy: “Ưng phát Bồ Đề tâm” (hãy nên phát Bồ Đề tâm), tức là
sanh thệ nguyện quyết định, một mực dốc chí mong cầu trí Nhất Thiết Trí, ắt sẽ
phổ độ pháp giới chúng sanh. Tâm ấy giống như tràng, cờ, dẫn dắt các hạnh. Ví
như chủng tử là căn bản của muôn đức. Nếu chẳng phát cái tâm ấy, cũng như [thần
thức] chưa gá vào Ca La La, Đại Bi Thai Tạng dưỡng dục bằng cách nào? Tự mình
chẳng thể kiến lập thiện căn, còn toan làm thầy của người khác ư? Hãy nên ước
theo từng địa vị để
giải thích sâu xa, bí mật, cho đến Tỳ Lô Giá Na thì mới gọi là “vô tận
pháp giới rốt ráo phát tâm” vậy.
Kinh
nói: “Diệu huệ từ bi”, Bát Nhã có hai loại, tức Bát Nhã do hòa
hợp với Lục Ba La Mật và Thật Tướng Bát Nhã. Ở đây có ý nói đến câu thứ nhất
(tức “Bát Nhã do hòa hợp với Lục Ba La Mật”). Trí huệ ấy giống như
xảo phong (gió nghiệp thức), có thể đúc nặn cái tâm của Ca La La, khiến cho
trăm thể [của phôi thai] được thành tựu. Hành giả do có trí huệ, sẽ có thể khéo
biết “thông, tắc”, phán đoán đúng sai, ứng xử phù hợp quy củ
trong hết thảy các sự nghiệp thuộc Mạn-đồ-la, tâm chẳng ngờ vực, vướng mắc, bèn
kham làm bậc A-xà-lê. Nói tóm lại, nếu trí nghiệp viên mãn giống như Tỳ Lô Giá
Na thì gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”. “Từ bi” tức là tâm thương
xót, thấu xương lọt tủy, các hành vi đều nhằm kiến lập chúng sanh, ắt đều khiến
cho họ thành tựu niềm vui sướng vô tận trong pháp giới, độ thoát nỗi khổ của
chúng sanh giới chẳng sót. Nếu chẳng có cái tâm ấy, sẽ như thai tạng chẳng thể
kết thành, sao có thể dưỡng dục cho được? Cho đến Tỳ Lô Giá Na Phật do bổn
nguyện, trụ trong thế giới gia trì, hiện trọn khắp Bi Sanh Mạn-đồ-la, thì gọi
là “thâm bí A-xà-lê”.
“Kiêm
tổng chúng nghệ” (Gồm thâu các tài nghệ) tức là khéo thông thạo các
thứ tài nghệ trong thế gian, như thanh luận (Thanh Minh), nhân luận (Nhân Minh
Học), mười tám minh xứ[22], sáu mươi bốn kỹ năng, toán số,
phương dược (thuốc men, y thuật), xem tướng, các nghề khéo. Vì đối với những
điều cần thiết trong Mạn-đồ-la, đều chẳng cần phải nhờ cậy ai khác; do vậy, có
bản lãnh thực hiện, chẳng phạm lỗi
thiếu khuyết. Sau đấy, kham làm bậc A-xà-lê. Lại nữa, trong khi hành pháp như
thế, trọn chẳng mâu thuẫn với Thật Tướng, gọi là “diệu thiện chúng
nghệ”. Lại nữa, trong hết thảy các tổng trì, tam-muội môn, đạo phẩm,
các độ, tứ biện tài, tứ nhiếp, lực, vô úy v.v… đều đạt được thiện xảo, ắt có
thể tùy ý tạo tác bí mật Mạn-đồ-la, bèn gọi là “diệu thiện chúng nghệ”.
“Thiện
xảo tu hành Bát Nhã Ba La Mật” (khéo léo tu hành Bát Nhã Ba La Mật)
tức là tu sâu xa, quán sát mười câu duyên sanh, thấy Trung Đạo rất sâu, chiếu
bất khả đắc Không. Chuyện ấy như trong kinh Ma Ha Bát Nhã đã nói chi tiết. Nếu
hành giả đối với văn tự và quán tâm, khéo thông đạt, lìa khỏi kiến chấp, bèn
đáng làm bậc thế gian A-xà-lê cho người khác. Lại nữa, trí huệ trong
[A-tăng-kỳ] kiếp đầu tiên cùng hành giống như Nhị Thừa, chẳng phải là Bát Nhã sâu
xa. Trí huệ trong [A-tăng-kỳ] kiếp thứ hai thì do cùng nghe với hàng Nhị Thừa,
cũng chẳng phải là Bát Nhã rất sâu. Trong [A-tăng-kỳ] kiếp thứ ba, tâm giống
như hư không, trí huệ vô biên, hết thảy Nhị Thừa đều chẳng thể nghĩ bàn, bèn
gọi là Bát Nhã rất sâu, kham làm bậc A-xà-lê bí mật hạnh. Trong bí mật, lại lần
lượt chuyển thành sâu dần, cho đến đức Phật vì hàng Thập Địa nói Bát Nhã, tức
chẳng phải là cảnh giới của Cửu Địa, chỉ có Đại Tỳ Lô Giá Na được gọi là “cứu
cánh A-xà-lê”.
“Thông
đạt tam thừa” tức là khéo thông đạt văn nghĩa của tam tạng giáo pháp
trong Đại Thừa và Tiểu Thừa. Có thể cật vấn, có thể đáp, kham hun đúc, thành
tựu Tam Học, dẹp trừ ác tà (ác kiến, tà kiến) cho đệ tử, bèn có thể làm
A-xà-lê. Nếu chẳng phải vậy, sẽ có thể bị khuất phục bởi các luận nghị sư khác,
tức là chẳng có sức truyền pháp, sẽ sanh khởi cái tâm bất tín cho người khác.
Lại nữa, tông chỉ trong kinh này theo chiều ngang thống nhiếp hết thảy các giáo pháp của Phật,
như nói “duy Uẩn vô ngã, tâm xuất thế gian trụ trong Uẩn”, tức
là thống nhiếp Tiểu Thừa Tam Tạng trong các bộ. Như nói “quán Uẩn A Lại
Da, thấu hiểu tự tâm vốn bất sanh”, tức là thống nhiếp ý nghĩa “tám
thức, ba vô tánh” trong các kinh. Như nói mười câu duyên sanh thuộc
cực vô tự tánh tâm, tức là các thứ cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thuộc Hoa
Nghiêm và Bát Nhã đều được gộp trong đó. Như nói “biết tự tâm đúng như
thật thì gọi là Nhất Thiết Chủng Trí” tức là Như Lai bí tạng Nhất Thừa
thuộc Phật tánh đều được gộp trong đó. Đối với các thứ thánh ngôn, không gì
chẳng thống nhiếp các điều tinh yếu. Nếu có thể trì tâm ấn ấy, rộng khai hết
thảy các pháp môn, thì gọi là “thông đạt tam thừa”. Lại nữa,
Chân Ngôn môn nương vào ấn Tam Mật mà đạt tới địa vị tam bình đẳng[23] của
Phật thì gọi là “thông đạt tam thừa”. Tầng lớp cạn sâu như
trong phần trước đã nói.
“Thiện
giải chân ngôn thật nghĩa” (khéo hiểu nghĩa chân thật của chân ngôn),
như trong Chân Ngôn môn có các thứ chân ngôn, các thứ thân ấn (ấn khế được biểu hiện nơi
thân hành giả), các thứ Bổn Tôn, cho đến các vật đầy đủ duyên, mỗi mỗi chi
phần, âm, chữ, hình sắc, các tướng khác biệt, biết pháp như thế sẽ dùng
để “tịch tai” (寂災, chấm
dứt tai ương), pháp như thế dùng để tăng ích, pháp như thế dùng để hàng phục,
như Trì Minh Tạng Tô Tất Địa v.v… đã rộng nói phân biệt. Đấy là thông đạt thật
nghĩa của Chân Ngôn. Vì lẽ nào vậy? Mỗi chân ngôn đều là lời mầu nhiệm cùng tột
của Như Lai. Như trong chân ngôn có chữ Chất-đa (Citta), dịch ở mức độ nông cạn
thì chỉ là “tâm”. Nếu giải thích theo lối sâu xa, bí
mật, Chất (質)
chính là chữ Giá (遮)
kèm theo âm thanh tam-muội[24]. “Giá” có
nghĩa là “không biến đổi”. “Không biến đổi” chính là Phật
tánh, Phật tánh cũng gọi là Bát Nhã Ba La Mật, còn gọi là Thủ Lăng Nghiêm
tam-muội. Vì thế, Định Huệ trọn đủ. Chữ Đa có nghĩa “hết thảy các pháp
như như, giải thoát, chẳng thể được”. Nếu nói cái tâm như thế, bèn gọi
là “diệu cực chi ngữ” (lời
tuyệt diệu).
Lại
nữa, như thân ấn, tay trái nghĩa là tam-muội, tay phải là nghĩa Bát Nhã, mười
ngón tay nghĩa là mười Ba La Mật trọn đủ, cũng nhằm sánh ví ý nghĩa ngũ luân
của Nhất Thiết Trí. Như trong hình tượng Bổn Tôn, nữ là Thiền Định, nam là trí
huệ, màu vàng là thân kim cang, trắng là đại bi, đỏ là đại huệ, xanh là đại
không, đen là đại lực, cho đến trong hết thảy các duyên, đều có ý nghĩa Đệ Nhất
Thật Tế, há có nên dựa theo văn tự để hiểu hay chăng? Nếu thông đạt thật nghĩa
như thế, đáng nên làm A-xà-lê, dựa theo Thập Địa để nói về hạnh sâu vậy!
“Tri
chúng sanh tâm” (biết tâm chúng sanh), do A-xà-lê khéo biết tác dụng
của ba bộ thượng, trung, hạ, các thứ tánh loại sai biệt, và trụ trong Du Già,
dùng phương tiện gia trì, có thể biết rõ tâm hạnh của chúng sanh. Như có người
đến cầu pháp, thầy phải nên bảo người ấy: “Ngươi hãy ở yên đó, ta sẽ tư duy”,
thầy liền cầm danh tự của người ấy, vào trong tĩnh thất (căn phòng thanh vắng,
yên tĩnh), đúng như pháp trì tụng, quán nhân duyên của người ấy. Do được Bổn
Tôn gia trì, sẽ thấy tướng mạo. Nếu là ngoại đạo muốn đến trộm pháp, hoặc tìm tòi cơ hội [để phá hoại, gây trở ngại] mà giả vờ thân cận; lúc bấy giờ, Bổn Tôn hoặc hiện hình
tướng ngoại đạo v.v… [A-xà-lê] quán kỹ hình tướng ấy, sẽ tự nhiên biết được,
hãy nên phương tiện từ chối, khuyên nhủ rằng: “Thiện nam tử! Phàm là người cầu pháp, trước hết
hãy nên trừ dứt hết thảy các tâm ác kiến, xảo ngụy. Lại nữa, chư Bồ Tát vì độ
chúng sanh, có thể thực hiện đủ mọi khổ hạnh khó hành. Ông nay có thể làm các
sự khó thực hiện ấy hay chăng?” Lại còn tùy theo cái duyên của chính
mình mà tạo lợi ích. Nếu trong cảnh giới, thấy Bổn Tôn ở trong Mạn-đồ-la, dẫn
đệ tử, trao quán đảnh, hoặc giao phó, các thứ tướng lành như thế, thì phải nên nhiếp thọ [đệ tử ấy]. Lại nữa, nếu Bổn Tôn bỏ
hình sắc vốn có mà hiện màu đỏ [thì người cầu học] là kẻ tánh nhiều sân khuể,
màu đen là si nhiều, màu vàng là tham nhiều, màu trắng là thiện nhiều, xanh
nhạt thì phần nhiều là vô ký. Và trong Mạn-đồ-la, [sau khi rải hoa cúng dường
lên Mạn-đồ-la], quán sát hoa rơi vào chỗ nào, từ các tướng vi tế thượng, trung,
hạ, cũng có thể biết tâm cơ người ấy là pháp khí hay chẳng phải pháp
khí. Nhưng chớ nên chấp trước tướng như thế, cũng dùng mười câu duyên sanh để
quán sát. Hiểu rõ mỗi chuyện như thế, sẽ kham trụ trong địa vị làm thầy.
Lại
nữa, giải thích theo kiểu sâu xa, bí mật, “biết tâm chúng sanh” chính
là như thật biết tự tâm. Do có thể biết tự tâm, sẽ có thể biết rõ tâm của người
khác. Như trong nhà sẵn có kho báu, sẽ khéo xem xét các vật báu khác, cho đến
các căn tánh ưa thích, nhân duyên từ đầu đến cuối, tâm sở, động tác, hý luận,
không gì chẳng thông đạt rành rẽ. Đó gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”.
Đối
với “tín chư Phật, Bồ Tát”, [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Hết thảy các thiện
pháp lấy tín làm đầu, nên [tín] được nói trước hết”. Nay thuận theo
cách nói thông dụng trong tiếng Phạn, [điều này] lại thông với các địa vị sau,
chỉ là không nói trong các phần sau đó thôi! Tức là trong tông này, khi mới
nhập pháp môn, ý rất nông cạn, khó biết. Vả nữa, Thật Tướng của tam thừa không gì
chẳng lìa văn tự, nhưng đối với chân ngôn, cần phải là miệng tụng Phạn văn, tâm
cũng quán tưởng, hoặc duỗi gập các chi tiết nơi thân phần[25] giống
như đùa bỡn, hoặc tu tam-muội, bèn quán các hình tượng nữ nhân hoặc phẫn nộ
v.v… Hoặc dùng nước rưới lên đỉnh đầu, hoặc tạo tác hỏa đàn. Nếu toan dùng tâm
thức để suy đoán, so đo, sẽ lại chẳng thể thấy dấu tích gia trì. Chẳng phải là
kẻ tự trọn đủ lòng tin sâu xa, há có thể chẳng ngờ vực ư?
Lại
nữa, vị hành giả ấy đối với các duyên sự tướng đó, đều dùng lòng tin sâu chắc
để hành. Nếu đã siêng khổ nhiều mà chưa đạt được lợi ích trong hiện tại, lúc
đó, bèn tự tư duy: “Do ta công hạnh chưa đến mức, hoặc do Hoặc chướng
cấu nhiễm bởi Tam Độc nặng nề. Như giặt áo, dùi lửa, chỉ đừng bỏ phế giữa
chừng, tự sẽ thuần tịnh tận mắt thấy quang minh vậy”. Lại nên tư duy
các thí dụ về huyễn, như do dược vật hòa hợp mà được bay lên không, sống lâu,
dẫu kẻ lợi căn trí huệ cũng chẳng suy nghĩ mà biết được. Chỉ cốt sao khéo hiểu thuật ấy, không ai chẳng thành
tựu! Do thâm tâm tịnh tín lìa nghi hoặc, dần dần đạt được pháp nghiệm hiện
tiền! Lại do pháp nghiệm hiện tiền, tín giải chuyển cao hơn thành chẳng thể
ngăn trở, phá hoại. Nếu chẳng phải vậy, sẽ giống như kẻ chẳng có tay, dẫu đến
được kho báu mà trọn chẳng đạt được gì, huống hồ dự vào địa vị A-xà-lê ư? Lại
nữa, trong một niệm tâm của chúng sanh, có thân
thọ lượng dài lâu của Như Lai, tịch quang hải hội, cho đến các vị Bất Thoái Bồ
Tát cũng chẳng thể biết. Hãy nên biết pháp này càng khó tin gấp bội. Vì thế,
trong hội Pháp Hoa, bậc Bổ Xứ cầu thỉnh ba lượt, Như Lai răn dè bốn lượt rồi mới diễn nói. Nay kinh này có
phương tiện để tu nhập, thậm chí có thể thành tựu trong một đời. Nếu có thể
tiếp nhận chắc thật, chẳng nghi ngờ, đạt đến Tín địa, hoặc đạt tới tín giải, bèn gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”.
“Đắc
truyền giáo quán đảnh, thiện giải Mạn-đồ-la họa” (được truyền giáo
quán đảnh, khéo hiểu cách vẽ Mạn-đồ-la): Quán đảnh có hai loại, tức là từ trong
pháp đệ tử, đã được quán đảnh rồi, bèn tấn tu theo thứ tự, cho đến khi thành
tựu các đức của bậc A-xà-lê. Lúc bấy giờ, A-xà-lê hoan hỷ, bèn vì học trò tạo
Mạn-đồ-la, truyền giáo, quán đảnh, đúng như pháp khuyên nhủ: “Phật tử!
Con ở trong tạng bí mật, đã tùy thuận tu học, hiểu trọn đủ rồi, kham có thể dạy
bảo người khác. Nay con đã được lợi lành, thậm chí các vị hiền thánh cũng đều
khen ngợi. Nay đã quán đảnh xong, con hãy nên dùng cái tâm chân tịnh để truyền
trì, hoằng dương, khiến cho tạng bí mật của Như Lai rất lâu chẳng diệt!” Thuận
theo lẽ đáng nên mà an ủi, khuyên dụ đủ mọi lẽ như thế, sẽ đáng nên làm bậc
Mạn-đồ-la A-xà-lê cho người khác.
Lại
nữa, trong Du Già, hành giả thành tựu các đức của A-xà-lê, lúc bấy giờ, bậc
thâm hạnh A-xà-lê vì người đó tạo Tâm Mạn-đồ-la. Khi đó, đệ tử thấy biết rành
rẽ, được đức Đại
Tỳ Lô Giá Na dùng nước đại bi để thực hiện tâm quán đảnh. Chuyện ấy sẽ được nói
trong phần sau. Cho đến khi Ba La Mật được viên mãn trong mỗi địa, mười
phương chư Phật hiện tiền quán đảnh, trao cho chức vị Phật, đều gọi là “được
truyền giáo quán đảnh”. Đã được truyền giáo quán đảnh, chớ nên làm kẻ
cuối cùng đoạn dứt dòng giống [nhà Phật], mà phải nên nối tiếp sự nghiệp của
tiên sư, độ các đệ tử. Đây chính là phương tiện tối sơ, tức là cần phải hiểu
hình tượng Mạn-đồ-la. Do đó, kế tiếp bèn nói [“thiện giải Mạn-đồ-la họa”].
Tức là đối với mỗi phương vị, mỗi tướng mạo trong ấy, sắp xếp điều hòa các màu,
tô vẽ trang nghiêm, đều phải nên tự thấu hiểu rành rẽ, đừng nhìn vào phương
tiện khác, [người như thế] bèn kham làm A-xà-lê. Lại nữa, có thể từ trong tâm
Bồ Đề thanh tịnh, dùng huệ phương tiện để vẽ vời đại Mạn-đồ-la vương trang
nghiêm vô tận, bèn gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”.
“Kỳ
tánh điều nhu, ly ư ngã chấp” (Bẩm tánh điều phục, mềm mỏng, lìa Ngã
Chấp): Đối với Ngã Chấp ở đây, trong bản tiếng Phạn ghi là chữ “quán
đảnh”, A-xà-lê (ngài Thiện Vô Úy) truyền dạy rằng: “Chữ này có
ý nghĩa không tương ứng, phải nên nói là ly ngã chấp”. Tánh người ấy
điều nhu, tức là an trụ trong oai nghi truyền giáo, trụ nhẫn nhục địa, nhu hòa,
khéo tùy thuận, chẳng bộp chộp, lỗ mãng. Tuy chủng tộc, hình sắc, đa văn, trí
huệ, không gì chẳng lỗi lạc hơn người, nhưng cũng chẳng sanh tâm kiêu căng,
ngạo mạn, có thể rủ lòng từ giúp đỡ, khuyên dụ kẻ mới học, thậm đối với các
chủng tánh hèn kém, nhỏ nhoi, cũng chẳng có ý tưởng coi họ là kém cỏi, hay mang
lòng ghen ghét, chỉ một dạ dùng pháp để tự điều phục mình, nương theo pháp mà
trụ. Điều nhu như thế tức là lìa Ngã Chấp. Đó là cách giải thích theo lối chuyển
tướng.
Lại
nữa, “điều nhu” tức là “bách luyện thuần lạp” (trăm
lần tinh luyện, sáp sẽ tinh thuần). Do điều nhu, thuận theo sự khéo léo mà
không gì chẳng thực hiện. Nay hành giả tịnh trị cái tâm ấy, do hết thảy chất
quặng thô thiển đã hết, tùy theo sự khéo léo nơi “tay” trí huệ mà không gì chẳng
thực hiện được. Do vậy, có thể trụ trong địa vị nhẫn nhục, tùy duyên thích ứng
chúng sanh. Lại nữa, nhập đạo trong pháp môn của chư Phật, Bồ Tát, giống như
thượng tộc. Nhập đạo trong pháp môn của chư thiên, rồng, quỷ, giống như hạ tộc.
Tức là dùng thân này để làm “tôn đặc tướng hải” (biển tướng tôn quý, đặc biệt) của Đại Nhật Như Lai, giống như sắc
tướng, hình mạo bậc nhất, so với kẻ chẳng thể thực hiện, giống như chiếc áo dơ
bẩn rách nát vậy. Luôn nhất tâm nghe chư Phật thuyết pháp, phân biệt chẳng sai,
thì gọi là “đa văn”. So với kẻ lục căn ám tắc thì gọi là “thiểu
văn”. Vô lượng trí huệ tự nhiên nở bùng, gọi là “trí huệ”. Vô
minh Tam Độc là ngu si. Do các pháp như thế rốt ráo bình đẳng, chớ nên có tâm
cao thấp, nên gọi là “điều nhu”. Chỉ có mình đức Phật đáng gọi
là “bậc
hết thảy điều nhu, khéo trụ trong pháp A-xà-lê” vậy.
“Ư
Chân Ngôn hạnh, thiện đắc quyết định” (khéo đạt được quyết định nơi
hạnh Chân Ngôn): Điều phục, tạo lập các thứ phương tiện trong Mạn-đồ-la, tâm
đạt được quyết định, lìa các lưới nghi; đó
gọi là “hộ thân như thế, kết giới như thế, nghênh thỉnh như thế, tịnh
hóa các vật cúng để dâng hiến như thế”. Dùng chân ngôn và thủ ấn như
thế để gia trì, cho tới lúc trì tụng, tấn tu, và thành tựu Tất Địa, cũng có vô lượng pháp theo thứ tự. Những điều như thế được nói cặn kẽ trong kinh
văn thuộc phần sau và phần nói về thứ tự cúng dường, chẳng thể nhắc lại nhiều
lượt. Như khi tác pháp, và các chọn lựa khác, nếu gặp chuyện mâu thuẫn, trở
ngại, sẽ lại chần chừ quan
sát, hoặc lục lọi kinh sách để kiểm nghiệm, thì chẳng gọi là “bậc A-xà-lê khéo thực hiện”.
Lại
nữa, A-xà-lê do đạt được quyết định nơi Du Già, làm bất cứ điều gì cũng đều
tương ứng với tam-muội. Như khi dâng hoa, liền tương ứng với hoa tam-muội, Bổn
Tôn hiện tiền rành rẽ trong ấy. Nếu lúc cúng hương, đèn, hương bôi, nước Át-già[26] v.v…
cũng sẽ tương ứng với hương tam-muội cho đến hương thủy tam-muội. Mỗi vị Bổn
Tôn cũng tùy theo từng sự mà hiện tiền. Trong mỗi một duyên như thế, đều là
nhập pháp giới môn, đều thấy thiện tri thức, lần lượt vận dụng tương ứng với
lý, chẳng còn đụng chuyện sẽ phải lần lữa rồi mới tác quán. Hãy nên biết người
ấy kham làm bậc bí mật A-xà-lê.
“Cứu
tập Du Già” (nghiên cứu, tu tập Du Già) là khéo tu pháp tương ứng, tức
là đối với sự thành tựu thượng, trung, hạ trong ba bộ Chân Ngôn (Phật Bộ, Liên
Hoa, Kim Cang Bộ), đều nhất nhất thông đạt, đều tương ứng với chánh lý, gọi
là “khéo tu Du Già”. Lại còn trong pháp Tức Tai, liền có thể
dùng phương tiện ấy để tăng ích và hàng phục. Hoặc trong pháp Tăng Ích, có thể
dùng phương tiện ấy để hàng phục, tức tai. Trong pháp Hàng Phục, liền có thể
dùng phương tiện ấy để tức tai, tăng ích. Thuận theo pháp tương ứng, đều có thể
khéo phân biệt, thì gọi là “khéo tu Du Già”. Lại còn trong
Mạn-đồ-la, đối với các thứ Bổn Tôn tam-muội, hình sắc, chữ [chân ngôn], ấn,
tánh loại, oai nghi, và khi cúng dường thành tựu, vận tâm quán sát phương tiện,
đều đã tu tập tương ứng, cũng khéo hiểu biết chướng ngại và tướng Tất Địa trong
ấy, bèn có thể truyền pháp. Lại nữa, trong tam-muội phát sanh từ Đại Bi Thai
Tạng, có đủ loại pháp giới môn, đủ loại thiện tri thức như Thiện Tài đồng tử
theo thứ tự tìm cầu. Hoặc trong pháp môn như thế này, đã khéo tu hành, nhưng
đối với các môn khác, chưa thể thông hiểu, tu tập. Nếu khi nhập thế giới Phổ
Môn, sẽ có thể trong một niệm mà tương ứng trọn đủ, gọi là “thâm hạnh
A-xà-lê”.
“Trụ
dũng kiện Bồ Đề tâm” (trụ trong tâm Bồ Đề mạnh mẽ): “Dũng
kiện” nghĩa là hùng hậu, mạnh mẽ, chẳng khiếp nhược. Sở dĩ cần tu cái
tâm này là vì hành giả Chân Ngôn từ lúc chưa thấy Chân Đế tới nay, sẽ có các cảnh thuận nghịch, hoặc
hiện các thứ hình sắc đáng sợ, hoặc phát ra âm thanh lạ, cho tới chấn động đại
địa, hoặc có Tỳ Na Dã Ca[27] đại
lực hiện hình gây chướng nạn. Lúc bấy giờ, [hành giả] an tâm bất động, chẳng hề
thoái khuất, nương theo pháp giáo mà tịnh trừ. Do hành giả thấy Bồ Đề tâm thanh
tịnh có đại nghĩa lợi, tự nhiên xuất sanh nhập tử, chẳng
hề có ý tưởng sợ hãi, các ma sự đó chẳng thể gây chướng ngại được! Lại nữa, khi
chưa thấy Bồ Đề tâm, trong Du Già, sẽ có đủ loại tướng hiện, tức là đất, nước,
lửa, gió, hư không, các màu xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… các thứ tướng mạo khác
lạ. Lúc bấy giờ, do tâm chẳng hiểu rõ, cho nên chẳng thể biện định chân thật,
cũng chớ nên sanh ý tưởng thoái chuyển, chỉ nên nghĩ như thế này: “Chuyện
này chẳng phải là không có nhân duyên. Nếu khi ta kiến Đế, hiểu rõ Bồ Đề tâm vô
ngại, tự sẽ hiểu vậy”. Lại nên dùng mười câu duyên sanh để quán, tâm
chẳng lấy, bỏ, chỉ nên dũng mãnh tấn tu, hành Bồ Tát đạo. Đã chứng Bồ Đề tâm,
liền biết trong quá khứ vào lúc nào đó đã có tướng như thế, lại trong một lúc
nào đó, cũng có sự tướng như thế, đều là vì nhân duyên như thế, không gì chẳng
soi xét điềm tiên khởi, biết rõ khởi đầu và kết thúc của nó. Lại nữa, khi hành
giả chiếu kiến tâm, hiểu rõ đạo, liền đạt được sức kiên cố trong vô tận đại
nguyện, cho đến như kim xí điểu vương Tỳ Lô Giá Na cúi nhìn biển cả pháp giới
như nhìn vào gương sáng, vẫy cánh Chỉ Quán, bắt lấy rồng “trời, người”. Đó chính là
Bồ Đề tâm dũng kiện vậy.
“Bí
Mật Chủ! Như thị pháp tắc A-xà-lê, chư Phật Bồ Tát chi sở xưng thán” (Bí
Mật Chủ! A-xà-lê [trọn đủ] pháp tắc như thế, được chư Phật, Bồ Tát khen ngợi):
Do các đức đều đầy đủ, [vị A-xà-lê ấy] liền có thể lưu thông Mật giáo, chẳng
đoạn Phật chủng; đó gọi là “Phật chi chân tử” (đứa con chân
thật của Phật), sanh từ hạnh Chân Ngôn, thường được các vị thánh khen ngợi. Nếu
đệ tử tu Du Già hạnh, sẽ có thể thấy trời rồng tám bộ cung kính cúng dường vị thượng
nhân ấy, hoặc thấy mười phương chư Phật ca ngợi danh hiệu, khuyến phát đại
chúng, như Thích Ca Mâu Ni Phật nói nhân duyên cầu pháp của Tát Đà Ba Luân[28] Bồ
Tát.
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ
A-xà-lê nhược kiến chúng sanh kham vi pháp khí, viễn ly chư cấu, hữu đại tín
giải, cần dũng thâm tín, thường niệm lợi tha, nhược đệ tử cụ như thị tướng mạo
giả, A-xà-lê ưng tự vãng khuyến phát, như thị cáo ngôn.
(經)復次祕密主!彼阿闍梨,若見眾生堪為法器,遠離諸垢、有大信解、勤勇深信、常念利他,若弟子具如是相貌者,阿闍梨應自往勸發,如是告言:
(Kinh: Lại nữa, Bí Mật Chủ! Vị
A-xà-lê đó nếu thấy chúng sanh kham làm pháp khí, xa lìa các cấu, có tín giải
to lớn, tín tâm siêng năng, dũng mãnh, thường nghĩ lợi ích người khác, nếu đệ tử trọn đủ
tướng mạo như thế, A-xà-lê hãy nên tự đến khuyên lơn người ấy phát khởi, bảo
như thế này).
Kinh
dạy: “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ A-xà-lê nhược kiến chúng sanh kham vi
pháp khí, viễn ly chư cấu, hữu đại tín giải, cần dũng thâm tín, thường niệm lợi
tha” (Lại này Bí Mật Chủ! Nếu vị A-xà-lê ấy thấy chúng sanh kham làm
pháp khí, xa lìa các cấu, có tín giải to lớn,
siêng năng, dũng mãnh, tin sâu, thường nghĩ lợi ích người khác), tức là nói về nghi thức nhiếp thọ đệ tử trong chi phần nói về A-xà-lê.
Chúng sanh ở đây có hai loại: Hoặc là đã phát Bồ Đề tâm, tới chỗ thiện tri thức
cầu thỉnh hành pháp Chân Ngôn; hoặc chưa phát Bồ Đề tâm, nhưng thầy tự soi xét,
biết người ấy có thể làm pháp khí, có thể trì pháp ấy. Hoặc là trong Du Già,
thầy thấy căn duyên của người ấy, hoặc được chư Phật, Bồ Tát chúc lụy “hãy vì
người ấy quán đảnh, dạy bảo”. Hoặc đích thân thấy các vị thánh vì người ấy thực
hiện pháp quán đảnh rồi mới phó chúc [A-xà-lê] dạy bảo người ấy. Có các tướng như thế thì
mới có thể truyền pháp. Như thức ăn dở tệ trong làng nghèo chẳng thể đựng trong
đồ chứa bằng chất báu, diệu dược của Luân Vương không thể khiến cho kẻ bạc
phước tự tiện dùng được, vì chẳng thể tiêu, hoặc có thể bị đoản mạng. Cần phải
là hộp và nắp tương xứng thì mới trao và nhận đều được đúng lẽ!
Lại
như áo hèn tệ, hờm đóng dày cộp, chẳng thể nhuộm màu ngay được. Trước hết, hãy
nên dạy giặt
sạch, sau đó sẽ có thể đổ công tô, nhuộm. Chúng sanh cũng thế, nếu trước đó đã
nhuốm bẩn bởi cấu ô tập khí, sẽ chẳng nhuốm màu pháp giới được. Vì thế, cần
phải xa lìa các cấu. Do vậy, người có đại tín giải, tín giải ở đây trong tiếng
Phạn là A Tỳ Mục Để (Abhimukti), tức là thấy rõ lý ấy, tâm chẳng ngờ lo. Như
đào giếng dần dần thấy bùn, tuy chưa thấy nước, ắt biết đã gần [tới mạch nước].
Vì thế nói là “tín giải”.
Tiếp
đó nói là “thâm tín”, tín ấy trong tiếng Phạn là Xả La Đà (Śraddhā), tức là lòng tin dựa theo sự, dựa theo
người. Như nghe bậc trưởng giả nói như vậy, có thể là biểu lộ vượt ngoài lẽ thường
tình, nhưng do vị ấy chưa từng lừa dối, liền nhận lãnh sâu xa, hành theo, thì
cũng gọi là Tín, có cùng một nghĩa với “tín chư Phật, Bồ Tát” trong
phần trên. Trong tiếng Phạn [để biểu lộ hai loại lòng tin khác nhau ấy], vốn có
hai danh xưng, nhưng tiếng Hán thì không có gì khác biệt. Vì thế, cùng nói là
Tín mà thôi! Nếu có người nghe nói pháp giới chẳng thể nghĩ bàn như thế, do đã
gieo cội lành từ xưa, do tinh thần sáng suốt, bén nhạy, liền có thể tiếp nhận lời nói của
người ấy, biết trong tâm chúng sanh quyết có lý ấy; đó gọi là “tín giải”. Lại
do đời trước đã từng thân cận thiện tri thức, có duyên sâu đậm với Tam Bảo, tuy
chẳng thể so lường, suy tính, nhưng liền có thể tin tưởng sâu xa, nên nói
là “thâm tín”.
“Cần
dũng” là
tên gọi khác của Tinh Tấn. Thích Luận nói: “Thí như đào giếng, do thấy
đất bùn ướt, càng thêm tinh tấn, ắt mong được nước. Lại như dùi lửa, đã thấy
khói, càng thêm gắng sức, ắt được lửa”. Vì thế, sau tín giải, bèn nói tới
cần dũng. Vì lẽ nào vậy? Nay trí huệ tự nhiên này phải do Du Già, mà Du Già ắt
cần tới sức đại tinh tấn. Vì thế, Thích Luận nói: “Trí huệ Thiền Định
chẳng thể dùng phước để nguyện cầu, cũng chẳng do thô quán mà có thể đạt được.
Cần phải thân tâm siêng ròng, gấp rút, chẳng lười nhác, thì mới có thể
hoàn thành. Như đức Phật đã nói: ‘Giả sử máu, thịt, mỡ, tủy đều cạn sạch, chỉ
còn da, xương, gân, chẳng xả tinh tấn. Như thế cho tới khi đắc định huệ, đạt
được hai chuyện ấy thì mọi việc đều hoàn thành”. Vì thế, cần phải là
người có tánh tinh tấn thì mới có thể truyền thọ. Lại nữa, tinh tấn là căn bản
của hết thảy các thiện pháp, có thể dấy động phước đức từ đời trước, như mưa tưới
nhuần hạt giống, khiến cho nó ắt sanh trưởng. Nếu chẳng có cái tâm siêng năng,
dũng mãnh, dẫu có nghiệp đã gieo từ đời trước, sẽ chẳng có cách nào phát khởi, thậm chí lợi
lạc trong đời này còn chẳng thể đạt được, huống hồ đạo Bồ Đề ư? Do vậy, do nhân
duyên phát khởi hạnh, bèn đạt được thâm tín. Do thâm tâm, liền có thể dốc chí
cầu pháp thù thắng, gánh vác chúng sanh, cần phải dùng Đại Bi Thai Tạng để nuôi
nấng, khiến cho được tăng
trưởng. Vì thế, nói người có tánh thường nghĩ lợi ích người khác thì mới có thể
truyền thụ.
Lại
nữa, A-xà-lê trong Du Già, thấy, nghe chư Phật, Bồ Tát khen ngợi người trọn đủ
đức như thế, hoặc thấy [người ấy] đối trước các vị thánh, chí thành siêng năng
khẩn cầu, mong mỏi đạo yếu, trải qua nhiều thời gian mà trọn chẳng lười nhác,
thoái chuyển, thực hành chuyện lợi tha, cứu độ, nhiếp thọ chúng sanh. Bổn Tôn
xót thương bảo [A-xà-lê] hãy truyền dạy. Các trường hợp như thế, có thể suy ra
mà biết. Hơn nữa, bậc thâm hạnh A-xà-lê do sáu căn thanh tịnh, sẽ thấy nhân
duyên chướng đạo và thành đạo từ vô lượng kiếp đến nay của đệ tử chẳng sai lầm,
lại cũng đều biết chỗ căn duyên nhiếp thọ của phổ môn Mạn-đồ-la, bèn gọi
là “thiện quán đệ tử” (khéo quán đệ tử).
Kinh
dạy: “Nhược đệ tử cụ như thị tướng mạo giả, A-xà-lê ưng tự vãng khuyến
phát, như thị cáo ngôn” (nếu đệ tử trọn đủ tướng mạo như thế, A-xà-lê
nên tự đến khuyến phát, bảo như thế này), có hai nghĩa:
-
Một, do trừ tâm nghi của đệ tử, chỉ sợ do vô trí mà [đệ tử] ngờ vực, hối hận,
khiến cho [cơ duyên tu đạo] vĩnh viễn bị mất mát, cho nên chẳng truyền trao bừa
bãi cho người khác. Ắt phải là người đáng được truyền, thầy sẽ tự cầu mà truyền
trao, chẳng đợi người ấy đến thỉnh.
-
Hai, vì trừ cái tâm keo tiếc của A-xà-lê, thậm chí ở nơi lửa bùng cháy không
gián đoạn, nếu có thể lưu thông [Mật pháp] thì thầy cũng sẽ tới đó, huống hồ đối với
người có duyên tốt lành đến cầu mà chẳng ban cho ư?
(Kinh)
Phật tử! Thử Đại Thừa, Chân Ngôn hành đạo pháp, ngã kim chánh khai diễn, vị bỉ
Đại Thừa khí, quá khứ Đẳng Chánh Giác, cập dữ vị lai thế, hiện tại chư Thế Tôn,
trụ nhiêu ích chúng sanh. Như thị chư hiền giả, giải chân ngôn diệu pháp, cần dũng
hoạch Chủng Trí, tọa vô tướng Bồ Đề. Chân ngôn thế vô tỷ, năng tồi bỉ đại lực,
cực phẫn nộ ma quân, Thích Sư Tử cứu thế. Thị cố, nhữ Phật tử, ưng dĩ như thị
huệ, phương tiện tác thành tựu, đương hoạch Tát Bà Nhã. Hành giả bi niệm tâm,
phát khởi linh tăng quảng, bỉ kiên trụ thọ giáo.
(經)佛子此大乘,真言行道法,我今正開演,為彼大乘器。過去等正覺,及與未來世,現在諸世尊,住饒益眾生。如是諸賢者,解真言妙法,勤勇獲種智,坐無相菩提。真言勢無比,能摧彼大力,極忿怒魔軍,釋師子救世。是故汝佛子,應以如是慧,方便作成就,當獲薩婆若。行者悲念心,發起令增廣,彼堅住受教。 (Kinh:
Phật tử! Đại Thừa này, hành đạo pháp Chân Ngôn, ta nay chánh khai diễn, vì căn
khí Đại Thừa. Quá khứ Đẳng Chánh Giác, cùng với đời vị lai, hiện tại các Thế
Tôn, vì lợi ích chúng sanh. Các hiền giả như thế, hiểu diệu pháp Chân
Ngôn, siêng gắng đắc Chủng
Trí, ngự vô tướng Bồ Đề. Chân ngôn đời khôn sánh, có thể dẹp ma quân, đại lực,
cực phẫn nộ. Thích Sư Tử cứu đời. Vì thế, Phật tử ơi, nên dùng huệ như thế,
phương tiện tạo thành tựu, sẽ đắc Tát Bà Nhã. Hành giả tâm bi niệm, phát khởi
khiến tăng rộng, kiên trì trụ thọ giáo).
Kế
đó, có năm bài kệ nói về phương tiện khuyến phát. Bài kệ thứ nhất nói: “Phật
tử, thử Đại Thừa, Chân Ngôn hành đạo pháp, ngã kim chánh khai diễn, vị bỉ Đại
Thừa khí” (Này Phật tử! Pháp hành đạo Chân Ngôn này, ta nay sẽ khai
diễn, vì người có căn khí Đại Thừa ấy), ý nói: Phật tử các vị hãy nên biết,
pháp tắc và nghi quỹ hành đạo của Đại Thừa Chân Ngôn này, do các vị là người có
thể kham tin nhận, ta nay sẽ chánh thức nói ra.
Bài
kệ kế tiếp: “Quá khứ Đẳng Chánh Giác, cập dữ vị lai thế, hiện tại chư
Thế Tôn, trụ nhiêu ích chúng sanh. Như thị chư hiền giả, giải Chân Ngôn diệu
pháp, cần dũng hoạch Chủng Trí, tọa vô tướng Bồ Đề” (đấng Đẳng Chánh
Giác trong quá khứ, cùng với các đức Thế Tôn trong đời vị lai và hiện tại, luôn
tạo lợi ích cho chúng sanh. Các vị hiền giả ấy hiểu diệu pháp Chân Ngôn, do
tinh tấn mà đạt được Nhất Thiết Chủng Trí, ngự trong vô tướng Bồ Đề), tức là mở
ra hết thảy các môn phương tiện của mười phương ba đời chư Phật, chỉ dùng một
đạo để thành Phật, trọn chẳng có đạo nào khác, do Phật Phật đạo đồng. Nay lại
dẫn chư Phật để chứng minh, chuyện này như trong kinh Pháp Hoa đã nói cặn kẽ.
Lại nói “trụ nhiêu ích”, tức là nhiều cách tạo lợi ích, an lạc cho
chúng sanh. Đó chính là trụ xứ của Như Lai. “Chư hiền giả” tức
là các Như Lai. Do hạnh nguyện Phổ Hiền thảy đều viên mãn cùng cực, nên dùng từ
ngữ này để xưng tụng. Đều là do đã hiểu diệu pháp Chân Ngôn này, đạt được sự
siêng năng, dũng mãnh to lớn, thành tựu Nhất Thiết Trí. Do kệ tụng nói giản
lược, nên nói là Chủng Trí. Ngồi trong các pháp tịch diệt, tức là Bồ Đề, chẳng
phải là đã thành, nay thành, hay sẽ thành, không có cách nào để quán, chẳng do
điều gì khác mà đạt được, há có tướng gì ư? Bồ Đề ấy chẳng thể nói để chỉ bày
cho người khác được! Vì thế, bài kệ kế tiếp sẽ dùng hình tích bên ngoài để nói
rõ.
Kệ
rằng: “Chân ngôn thế vô tỷ, năng tồi bỉ đại lực, cực phẫn nộ ma quân,
Thích Sư Tử cứu thế” (thế lực của Chân Ngôn không sánh bằng, có thể dẹp tan ma quân đại lực,
tột bậc phẫn nộ. Thích Sư Tử là đấng cứu đời), ý nói: Tuy [Chân Ngôn] không có
tướng nhất định, nhưng có trọn đủ hết thảy oai lực, có thể hàng phục
các ma, chế ngự các ngoại đạo, mở cửa cam lộ, chuyển đại pháp luân. Hết thảy
trời, người thấy dấu tích như thế, bèn gọi Ngài là “Thích Ca Sư Tử cứu thế gian giả” (đấng sư tử Thích Ca cứu thế gian),
như thấy khói liền biết lửa, cho nên sẽ tin nhận.
Bài
kệ kế đó nói: “Thị cố, nhữ Phật tử, ưng dĩ như thị huệ, phương tiện tác
thành tựu, đương hoạch Tát Bà Nhã” (vì thế, Phật tử các ngươi, hãy nên
dùng huệ như thế để làm phương tiện tạo thành tựu, sẽ đạt được Tát Bà Nhã), tức
là khuyến phát (khuyên lơn,
phát khởi) hành
nhân, khiến cho họ cầu cái quả ấy. Nay các vị may mắn đều có tâm, sao chẳng
chứng vậy? Chỉ nên dùng diệu huệ này để thành tựu, chẳng lâu sau, sẽ tự thành
Nhất Thiết Trí. Trong phần trước, ngài Kim Cang Thủ đã hỏi thẳng đức Tỳ Lô Giá
Na: “Vân hà đắc Nhất Thiết Trí trí?” (làm thế nào để đạt được
trí Nhất Thiết Trí). Đức Phật cũng trả lời thẳng thừng: “Như thật tri
tự tâm, thị danh Nhất Thiết Trí trí” (Đúng như thật mà biết tự tâm thì
gọi là trí Nhất Thiết Trí). Ý nghĩa dạy bảo ở đây cũng giống như thế, nhưng nêu
thẳng thừng vô tướng Bồ Đề để khuyên bảo tu chứng, trọn chẳng có hạnh vị sai
biệt để phạm sai lầm trong ấy được! Tuy phẩm trước đã nói cặn kẽ các tướng, lập
các thứ danh tự trang nghiêm, tới phần luận định về tâm xứ thì ý nghĩa cũng đều
như thế.
(Kinh) Đương
vị trạch bình địa, sơn lâm đa hoa quả, duyệt ý chư thanh tuyền. Chư Phật sở
xưng thán, ưng tác viên đàn sự. Hoặc tại hà lưu xứ, nga nhạn đẳng trang nghiêm.
Bỉ ưng tác huệ giải, Bi Sanh Mạn-đồ-la, Chánh Giác, Duyên đạo sư, thánh giả,
Thanh Văn chúng, tằng du thử địa phần, Phật thường sở xưng dự. Cập dư chư
phương sở: Tăng phường, A Luyện Nhã, hoa phòng, cao lâu các, thắng diệu chư trì
uyển, chế-để, hỏa thần từ, ngưu lan, hà than trung, chư thiên miếu, không thất,
tiên nhân đắc đạo xứ. Như thượng chi sở thuyết, hoặc sở ý nhạo xứ, lợi ích đệ
tử cố, đương họa Mạn-đồ-la.
(經)當為擇平地。山林多華果,悅意諸清泉,諸佛所稱歎,應作圓壇事。或在河流處,鵞雁等莊嚴,彼應作慧解,悲生漫荼羅。正覺緣導師,聖者聲聞眾,曾遊此地分,佛常所稱譽;及餘諸方所,僧坊阿練若,華房高樓閣,勝妙諸池苑;制底火神祠,牛欄河潬中,諸天廟空室,仙人得道處。如上之所說,或所意樂處,利益弟子故,當畫漫荼羅。
(Kinh: Nên chọn chỗ đất bằng,
núi rừng nhiều hoa quả, các suối trong đẹp ý, được chư Phật khen ngợi, hãy làm
viên đàn sự. Hoặc tại chỗ sông chảy, nơi ngỗng, nhạn trang nghiêm, hãy nên sanh
huệ giải, Bi Sanh Mạn-đồ-la, Chánh Giác duyên đạo sư, thánh giả, các Thanh Văn,
từng đến cuộc đất ấy, được Phật thường khen ngợi. Và các nơi chốn khác, tăng
phường, A Luyện Nhã, phòng đẹp, lầu gác cao, các vườn ao đẹp đẽ, tháp Phật,
miếu thần lửa, chuồng bò, bến sông, miếu thờ trời, nhà trống, chỗ tiên nhân đắc
đạo. Các chỗ như nói trên, hoặc chỗ được ưa thích, do lợi ích đệ tử, nên vẽ
Mạn-đồ-la).
Bài
kệ kế đó là “Hành giả bi niệm tâm, phát khởi linh tăng quảng, bỉ kiên
trụ thọ giáo, đương vị trạch bình địa” (hành giả do tâm bi niệm, hãy
phát khởi khiến cho cái tâm ấy được tăng rộng thêm, do người ấy tiếp nhận giáo
pháp, trụ vững vàng trong ấy, [A-xà-lê] hãy nên vì người ấy chọn lựa cuộc đất),
ý nói A-xà-lê đã có được đệ tử, kế đó là chi phần nói về chọn lựa cuộc đất [để làm đàn
tràng]. Đối với chữ “hành giả” ở đây, bản tiếng Phạn ghi là
Chân Ngôn giả (người hành Chân Ngôn), nhưng do mỗi câu kệ chẳng thể có sáu chữ,
cho nên lược bớt, chỉ giữ lấy ý. Nếu trong các phần sau có chỗ nào giống như
thế, sẽ chẳng phiền rườm lời [nhắc lại] nữa. Tức là người tu Chân Ngôn nhiều
lượt dùng thiện pháp như thế để phát khởi cái tâm, khiến cho ý thích của hành
nhân dần dần tăng rộng thêm. Biết người ấy tiếp nhận lời dạy vững vàng, chẳng
còn dời đổi, thầy mới vì người ấy làm Mạn-đồ-la. Hoặc từ trong Du Già, do đã
thấy căn duyên của người ấy; sau
đấy mới chọn cuộc đất.
Các
kinh Kim Cang Đảnh Đại Bổn và Tô Tất Địa đã nói cặn kẽ các tướng đất [thích hợp
để làm đàn tràng], nhưng ý nghĩa chánh yếu là: Nay thế giới này chẳng phẳng
phiu, ngay ngắn như
các cõi thanh tịnh khác, chỉ tùy thuộc các chỗ thù thắng như sẽ nói trong phần
kinh văn tiếp theo mà chọn nơi ngay ngắn, đoan nghiêm, có thể tạo cái đàn tròn,
là chỗ có thể thực hiện (tác pháp) không bị trở ngại, liền sử dụng chỗ ấy. Lại
nữa, nay tạo các đàn tràng ở chỗ nào cũng đều được, như tâm địa bình chánh trọn
khắp hết thảy mọi nơi của đức Tỳ Lô Giá Na thì mới làm Đại Bi Mạn-đồ-la. Nhưng
đối với chỗ thù thắng như đã nói ở đây, hễ có chút phần ngay ngắn, có thể dọn
dẹp thanh tịnh, bèn ở nơi đó, mở ra vạn đức Mạn-đồ-la. Tầng lớp sâu cạn thì như
trong phần trước đã rộng nói.
Kệ
nói: “Sơn lâm đa hoa quả, duyệt ý chư thanh tuyền, chư Phật sở xưng
thán, tác viên đàn sự nghiệp” (Chỗ núi rừng nhiều hoa quả, chỗ có các
con suối trong đẹp ý, được chư Phật khen ngợi thì nên
thực hiện sự nghiệp của cái đàn tròn): Trong các chỗ thù thắng, núi rừng là tốt
nhất. Tuy là chỗ u tịch đoan nghiêm, có nhiều ngọn núi cao, nhưng nếu không có hoa
quả, suối chảy, người ta sẽ chẳng ưa thích, tức là các duyên nhiều lẽ bị thiếu khuyết, cũng chẳng kham
làm [đàn tràng] tại
đó. Vì thế, cần phải [là nơi chốn] có đủ loại hoa thơm, quả ngọt, lại còn có
suối, ao thanh tịnh, là chỗ đáng ưa thích, tức là nơi được Phật khen ngợi, sẽ
có thể thực hiện sự nghiệp Mạn-đồ-la. Hoặc hành giả trong tam-muội, thấy chỗ
thù thắng như thế, nếu nghe bậc tôn thánh khen ngợi đáng nên thực hiện ở chỗ
đó. Những điều sau đó cũng theo lệ đó.
Hơn
nữa, núi trong tiếng Phạn là Na Già (Naga), có nghĩa là “bất động”. Tức
là vị A-xà-lê trong Du Già, quán các hành nhân ấy trụ trong tứ tánh pháp (tự tánh, tha tánh, cộng tánh, phi tha
phi tự tánh),
thực hiện thiện sự, tâm kiên cố bất động, tức là kính trọng, phụng sự sư
trưởng, hiếu dưỡng cha mẹ v.v….
Hễ có tám tâm hoa quả nẩy mầm, có chỗ có thể sanh ra tịnh pháp, sẽ có thể kiến
lập Mạn-đồ-la. Lại nữa, Bồ Đề tâm thanh tịnh an trụ trong đế lý kiên cố bất
động. Gió lớn từ tám phương chẳng thể lay động, hoa quả phương tiện đại bi đầy
ắp khắp nơi, thường lưu xuất tịnh pháp lợi lạc chúng sanh, được Phật khen ngợi
nhất. Đó là chỗ tốt đẹp để làm Mạn-đồ-la.
Bài
kệ kế đó nói: “Hoặc tại hà lưu xứ, nga nhạn đẳng trang nghiêm, bỉ ưng
tác huệ giải, Bi Sanh Mạn-đồ-la” (Hoặc tại chỗ sông chảy, nhạn, ngỗng
thảy trang nghiêm, hãy nên sanh huệ giải, tạo tác Bi Sanh Mạn-đồ-la): Nếu chẳng
kiếm được chỗ danh sơn, thì chỗ có suối nước là lựa chọn kế tiếp. Tức là chỗ có
các dòng chảy thường chẳng đoạn tuyệt, các loài chim có tiếng hót tốt lành
bay lượn, bơi lội, đoan nghiêm, thanh khiết, xa lìa phiền rộn, liền có thể lập đàn. Chữ “nhạn” chẳng
phải là dịch sát nghĩa, bản tiếng Phạn nói là chim Sa La Sa (Sārasa), hình dạng giống uyên ương nhưng to
hơn, tiếng hót hết sức thanh nhã. Do phương này (Trung Hoa) không có loại chim
ấy, nên chỉ nói theo kiểu hội ý mà thôi. Tuy là Thế Đế Mạn-đồ-la, cũng cần phải
là người trì chân ngôn có huệ giải thì mới có thể kiến lập. Vì thế nói “ưng
dĩ huệ giải, tác Bi Sanh Mạn-đồ-la” (nên dùng huệ giải
để làm Bi Sanh Mạn-đồ-la). Hơn nữa, nước có ý nghĩa “chảy không ngừng”. Tâm
chẳng đình trệ, thường có thể tăng tấn thù thắng, sẽ được gọi là Nước. Sông
phước chẳng đoạn, gọi là nước. Do là người trước hết có thể an tâm nơi đế lý,
tuy tự mình chẳng thể đạt được nhiều, chỉ cần khiến cho từ cái vốn sẵn thanh
tịnh (chân tâm), lưu xuất sự tiến nhập chánh đáng là đã được rồi, liền có thể
vận dụng vô ngại huệ để kiến lập Bi Sanh Mạn-đồ-la. “Diệu âm chúng điểu
trang nghiêm” (Các loài chim có tiếng hót hay để trang nghiêm) tức là
ý nghĩa “có thể tuyên dương diệu pháp”, mà cũng là thường nghĩ lợi tha. Vì thế,
chúng sanh quy hướng đều được vui sướng, tán thán ân đức ấy có thanh danh to
lớn.
Kệ
nói “Chánh Giác duyên Ðạo sư, thánh giả Thanh Văn chúng, tằng du thử
địa phần, Phật thường sở xưng dự” (Các đấng Chánh Giác, Duyên Giác,
các vị thánh giả Thanh Văn từng đi qua cuộc đất ấy thì đó là nơi được Phật khen
ngợi): Nếu là chỗ phước địa núi và suối, là nơi các vị thánh đã từng đi qua, sẽ
thuộc vào điều trên đây. Ở đây có ý nói: Tuy chẳng phải là chỗ thù thắng như
trong phần trên, nhưng là chỗ chư Phật, Duyên Giác, và hàng đệ tử Thanh Văn
v.v... đắc đạo Niết Bàn, hoặc trụ lâu tại đó, thì là chỗ [thích hợp] kế tiếp [để làm đàn tràng]. Như ở phương Tây,
tám tháp [kỷ niệm đức
Phật] và
chỗ có di tích của thánh chúng rất nhiều, đều là chỗ chư thiên đại oai đức
thường hộ trì, chiêm lễ, giống như chỗ nào có kinh Bát Nhã thì lũ tiểu quỷ
chẳng dám lưu lại. Vì thế, pháp nghiệm dễ thành. Nơi được Phật khen ngợi như
chỗ núi có tiên nhân cư trụ, đức Thế Tôn đã nói ở trong ấy sẽ dễ đắc đạo.
Lại
nữa, nếu là người đã phát Bồ Đề tâm, thì chỗ chư Phật giáng sanh, cũng như nơi
các Ngài đắc đạo, chuyển pháp luân, bát Niết Bàn, cũng chính là chỗ các Ngài đã
từng trụ lâu tại đó, dùng bốn oai nghi để rộng lợi ích chúng sanh. Tuy chưa
nghe bí tạng, chỉ đạt được chỗ tam thừa cùng hành, cũng gọi là [nơi chốn] Cát
Tường; tức là quán sát tánh Không vô tướng, vô tác, chẳng có “ta, người, chúng
sanh, thọ giả”. Đấy là chỗ để Nhị Thừa thành đạo, nhập Niết Bàn, cũng là chỗ Bồ
Tát vứt bỏ thân mạng để học Ba La Mật như trong các loại kinh Bổn Sanh [đã
nói], đều có thể tạo Mạn-đồ-la trong ấy. Lại nữa, đối với nơi “tự nói
đã đắc Niết Bàn, sanh ý tưởng diệt độ”, tức là cuộc đất do Thanh Văn, Bích
Chi Phật đã từng đến. Nếu chẳng tìm được người một mực cầu Bồ Đề [ở nơi ấy],
hãy nên tự sửa sang cho ngay ngắn trong ấy để tạo, vẽ Đại Bi Sanh Mạn-đồ-la.
Kệ
nói: “Cập dư chư phương sở, tăng phường, A Luyện Nhã” (và các
nơi chốn khác, tăng phường, A Luyện Nhã). Trừ nơi có thánh tích ra,
chỉ tùy theo quốc độ ở các phương có các bậc Phạm hạnh cư trụ [để chọn lựa nơi
làm đàn tràng]. “Tăng
phường” trong
tiếng Phạn là Tỳ Ha La (Vihāra), dịch nghĩa là Trụ Xứ, tức là “chỗ
ở để tăng trưởng phước”. Hàng bạch y do tăng trưởng phước, đã vì các
tỳ-kheo tạo phòng ốc, khiến cho người trì giới, Thiền huệ có chỗ tránh né,
chống đỡ gió, lạnh, nắng, ướt, các thứ chuyện chẳng lợi ích, hòng an tâm hành
đạo, khiến cho đàn-việt thọ dụng phước do bố thí, ngày đêm thường lưu xuất,
chẳng hề đoạn tuyệt. Vì thế gọi là Trụ Xứ. A Luyện Nhã (Araṇya),
dịch là Ý Lạc Xứ, tức là chỗ được hành giả không tịch yêu thích. Hoặc ở riêng
một mình, không có bầu bạn, hoặc hai ba người. Ở ngoài chùa, tạo các phòng nhỏ
số lượng hữu hạn, hoặc do thí chủ tạo, hoặc chỉ ở nơi đất trống dưới bóng cây,
đều là A Luyện Nhã vậy. Lại nữa, nếu lìa Bồ Đề tâm mà tu hết thảy các thiện
pháp, như là “quảng hành đàn thí” (rộng hành bố thí), thọ vô
lượng luật nghi, tu các thứ Thiền Định, thọ trì mười hai phần giáo, tư duy
nghĩa lý, từ bi, tinh tấn, hóa độ chúng sanh, dùng các hạnh vô tưởng đạo, sẽ
đều gọi là “vô thánh tích” (chẳng có thánh tích). Tăng phường
cũng thế, là nơi phàm thánh cùng ở, là chỗ sanh phước, cũng là [nơi chốn được
lựa chọn] kế tiếp [để làm mạn-đồ-la]. Trừ cộng Bát Nhã của Nhị Thừa, hết thảy các
pháp môn Thanh Văn, Duyên Giác khác do xa lìa đại bi, tự cầu lẽ xuất yếu, đều
gọi là “vô thánh tích A Lan Nhã xứ”. Cũng có thể ở trong ấy,
chọn lựa, sửa sang chỗ đất bằng phẳng để vẽ Mạn-đồ-la.
Kệ
nói “hoa phòng, cao lâu các, thắng diệu chư trì uyển” (nơi
phòng ốc đẹp đẽ, lầu gác cao, nơi ao vườn đẹp đẽ thù thắng): Nếu không tìm được
phước địa như trên, chớ nên đình chỉ, hãy nên chọn chỗ tốt đẹp thanh vắng trong thế tục. Nếu là chỗ đoan nghiêm
thanh tịnh, liền có thể tác
pháp. “Phòng” là do chúng sanh từ thời cổ tới nay, do hổ thẹn,
chẳng muốn phô bày chuyện riêng tư, mà cũng có thể che chở thân thể, tự hộ, thủ
hộ người khác. “Lâu các” là chỗ hiển lộ cao rạng phía trên nhà
cửa có nhiều tầng ở phương Tây. “Trì” là cái ao thanh tịnh, đa
phần là có các loại hoa mọc trong nước, người và phi nhân đều yêu thích. “Uyển” là
vườn rừng, có nhiều loại cỏ mềm, cây cối thơm tho trổ sum suê, thanh vắng, u
tĩnh, có thể che chắn huyên náo. Những chỗ ấy đều là các chỗ [được chọn lựa] kế
tiếp.
Lại
nữa, nếu thấy hành nhân tuy chưa nhập các phương tiện đạo khác, nhưng thể tánh
trọn đủ hổ thẹn, thường có thể tự thủ hộ, mà cũng có thể thủ hộ người khác,
hoặc tâm hiểu rõ, dễ thông hiểu, ít các chướng ngại, thậm chí hễ trót phạm tội,
cũng có thể hướng về người khác phát lộ, cầu cho chính mình thanh tịnh, chẳng
hề giấu diếm, thì cũng có thể truyền thọ. Lại nữa, Trì (ao) có nghĩa là “khát nước
chẳng chán”, ý nói: Người ấy tuy chưa đạt được pháp vị sâu xa, nhưng có thể
trống lòng khát ngưỡng, nghe nhận chẳng chán. “Viên” (vườn) là chỗ nhiều người tới
dạo chơi, ý nói: Người ấy bẩm tánh nhiều bi mẫn, thích làm chuyện từ bi cứu
giúp, được chúng sanh đều quy ngưỡng, nương nhờ người ấy che chở. Đấy đều là
chủng tánh Đại Thừa, cũng có thể huân tập
vậy!
Kệ
nói: “Chế-để, hỏa thần từ, ngưu lan, hà than trung, chư thiên miếu,
không thất, tiên nhân đắc đạo xứ” (tháp miếu, đền thờ thần lửa, chuồng bò, bến sông, miếu
chư thiên, nhà trống, chỗ
tiên nhân đắc đạo): Hoặc là tuy chẳng phải chỗ thánh tích và tăng chúng cư trụ,
nhưng tùy thuộc cuộc đất là chỗ có thể dựng tháp miếu, thì ở chung quanh đó, có
thể tạo tác Mạn-đồ-la. “Hỏa thần từ” là chỗ miếu thờ lửa của
tịnh hạnh Phạm chí, rất thanh khiết, cho nên có thể lập đàn. “Ngưu lan” (chuồng
bò): Ở phương Tây, thôn làng chăn nuôi trâu bò ở cùng một chỗ, cách thôn chừng
mười dặm hoặc năm dặm. Do lâu ngày, phân bò và nước tiểu bò tích tụ dày cộp
trên mặt đất, nhưng theo thói quen của Phạm chí, cũng coi đó là nơi thanh tịnh.
Tuy nhiên, cần phải dời trâu bò đi. Nếu vẫn chăn nuôi trâu bò tại
đó, cũng chớ nên làm [Mạn-đồ-la] trong đó.
“Hà
than” (bến sông), dịch sát nghĩa thì phải là Toản Lưu Xứ (攢流處), tức chỗ có hai hay
nhiều dòng nước hợp lưu ở chỗ ấy. Bên rìa và chính giữa chỗ ấy, do đã nhiều lần
bị nước ngập gột sạch, không có các thứ uế
ác. “Thiên miếu” là căn nhà để cúng bái các vị trời được tôn
thờ trong thế gian, cũng khá thanh nhàn. Nhưng nếu có các ngoại đạo tà
kiến, chẳng tin [ở đó], cũng chớ nên làm ở chỗ ấy. “Không thất” (nhà
trống) là nhà cửa do người đời tạo ra; về sau, họ bỏ đi. Do không có các thứ
xen tạp, nên cũng kham làm chỗ tác pháp. “Tiên nhân đắc đạo xứ” chính
là chỗ cư trụ lâu ngày của
người cầu năm món thần thông trong thế gian được thành tựu. Nếu không có chỗ
tốt đẹp nào khác, cũng có thể tạo Mạn-đồ-la trong đó.
Lại
nữa, chế-để có ý nghĩa là “kiến lập cao vời thù thắng”, ý nói:
Người ấy thường có thể kiến lập bạch pháp, chí chẳng khuất phục, nhiễu loạn.
Tuy chưa tu thánh giáo trong hiện tại, hãy nên biết là [người ấy] đời trước đã
tu phước, trong tâm có thiện
căn, cho
nên gọi là “tháp”. Lại nữa, lửa có thể đốt sạch các thứ nhơ
bẩn, ý nói: Người ấy tuy thân, miệng, ý chưa thể xuất ly, đạt tới chỗ thanh
tịnh, nhưng trong tâm có huệ tánh, thích hành tịnh nghiệp, hễ có lỗi bèn có thể
sửa, nên gọi là “hỏa từ” (đền thờ lửa). “Ngưu” có
nghĩa là đi, “Lan” (欄, lan
can, rào chắn) có nghĩa là ngăn ngừa, ý nói: Người này bẩm tánh điều nhu, dễ
thuần ngự. Lại còn có thể tự chế ngự những ham thích nơi năm căn, chẳng đến nỗi
phóng dật. Vì thế gọi là “ngưu lan”. “Toản lưu” tức là trong
ba thừa, người ấy tâm do dự, chẳng biết quyết định hướng theo đường nào.
A-xà-lê cũng nên dùng pháp để khuyên dụ rằng: “Các phương tiện ấy đều
do Phật dạy, chỉ tùy thuộc pháp nào ngươi ưa thích nhất, hãy nên một mực học
theo, sẽ cùng đạt đến như nhau, chớ nên lo ngờ”. Nếu là lòng tin tà
chánh xen tạp, hãy nên đoạn diệt bến mê, chỉ cho nẻo chánh. Do có thể kiêm tín,
tức là đời trước đã từng được pháp thủy gột rửa cái tâm, nên cũng gọi là “hà
than” (bến sông).
“Thiên
từ” (đền thờ trời) tức là chẳng cầu tam thừa, chí ưa nguyện niềm vui
trong cõi trời. Vì muốn truyền trao [Mật pháp] khiến cho kẻ ấy lìa ba ác, sanh
trong chánh kiến thiên, nên cần phải nhiếp thọ, thì gọi là “thiên từ”.
“Không thất” (nhà trống) có nghĩa là người ấy tuy ở trong trần
tục, nhưng tánh
chuộng hư tịch, chán ghét phiền hà, ồn náo trong cõi đời, tức là tướng thiện
căn sắp chín muồi. Như nữ nhân thai sắp thành tựu, dục ý sẽ nhẹ bớt, cho nên có
thể giáo hóa. Nếu chí cầu đạo Vô Sắc Thiên, cũng gọi là “không thất”.
“Tiên nhân đắc đạo xứ” (chỗ tiên nhân đắc đạo) có nghĩa là chỉ phát
tâm cầu đạo ngũ thông của trì minh tiên, hoặc nguyện trường thọ, thành tựu các
thứ Tất Địa thế gian. [A-xà-lê] cũng có thể tùy thuận tình kiến, căn cơ của
người ấy mà khuyên dụ, tiếp độ.
Lại
còn có các kẻ dị học, yêu thích sâu xa pháp thờ lửa của Vi Đà, nguyện sanh lên
trời Phạm Thế, nghe nói trong tạng bí mật của đức Phật cũng có chân ngôn hành
pháp Hỏa Thiên, chỉ thú rất sâu, liền từ môn ấy mà nhập chánh pháp. Lại có người
thờ phụng các vị trời trong thế gian như Tự Tại Thiên, Tỳ Nữu, Na La Diên, nhật
nguyệt tôn v.v…, nếu nghe
trong tạng bí mật của đức Phật cũng có chân ngôn hành pháp của các vị trời ấy,
cho đến thân đại ngã Tỳ Lô Giá Na, liền tin nhận mà nhập chánh pháp. Hoặc là kẻ
có chí nguyện sanh làm chư thiên trong tam giới, nghe trong tạng bí mật của đức
Phật có chân ngôn và hành pháp thuộc chư thiên thừa, có thể khiến cho trong vô
lượng đời, sanh lên cõi trời ấy, chẳng còn thoái đọa, rốt cuộc thành Đệ Nhất
Nghĩa Thiên. Vì vậy, thâm tâm nguyện ưa thích, được nhập chánh pháp. Hoặc có
người tôn sùng tu tập pháp của ngũ thông tiên trong thế gian, nghe trong tạng
bí mật của Phật có các thứ chân ngôn của các vị đại tiên như Ca Diếp, Cù Đàm
v.v… có thể đạt được các thứ thần thông chẳng thể nghĩ bàn, cho đến như Tỳ Lô
Giá Na trụ thọ dài lâu, kẻ ấy liền hăng hái dốc chí mong cầu được nhập chánh pháp. Do có các thứ
môn như thế, đức Phật nói tại các chỗ thờ thần lửa có thể tạo Mạn-đồ-la.
Kệ
nói: “Như thượng chi sở thuyết, hoặc sở ý nhạo xứ, lợi ích đệ tử cố,
đương họa Mạn-đồ-la” (đối với các chỗ vừa nói trên đây, hoặc chỗ ưa
thích, do lợi ích đệ tử, hãy nên vẽ mạn-đồ-la): Thậm chí cầu các cuộc đất thù
thắng đều không thể được, chớ nên khiến cho Mật giáo chẳng được truyền, chỉ cần
là chỗ mà tâm A-xà-lê ưa thích, nghĩ là có lợi ích, bèn có thể tạo Mạn-đồ-la.
Nếu giải thích sâu hơn, chỉ quán kẻ đó có chút phần thiện căn, mong nguyện
chánh đáng, đều có thể chọn lựa tâm địa, sửa sang cho ngay ngắn, vì người ấy
tạo Đại Bi Mạn-đồ-la. Hơn nữa, hạng chúng sanh ấy cho đến kẻ ưa chuộng phương
thuật nhỏ nhoi của Giá Văn Đồ (Cāmuṇḍā)[29],
Đồ
Cát Nhĩ[30] cũng
được nhiếp thọ trong môn này, khi có thể thấy Bổn Tôn, sẽ tự nhiên được thấy vô
lượng thánh chúng.
Hỏi:
Trong phần nói về chọn lựa đệ tử trên đây, [đã nói] phải trọn đủ các đức, kham
làm pháp khí thì mới dạy bảo, mà nay trong phần chọn lựa cuộc đất, thậm chí kẻ
có một mảy thiện, không ai chẳng được truyền dạy là vì lẽ nào?
Đáp:
Trong ấy, có hai loại đệ tử. Nếu cầu đệ tử truyền pháp có thể nối tiếp ngôi vị
A-xà-lê thì phải chọn lựa, loại trừ kẻ không thích hợp, ngõ hầu đạo chẳng bị
thực hành hư dối. Nếu là đệ tử kết duyên thì dẫu là điều thiện “giơ
tay, cúi đầu”, không ai chẳng được nhiếp thọ. Lại nữa, bậc thâm hạnh
A-xà-lê do thấy rõ căn duyên, hoặc có người do đạo cơ trong quá khứ đã chín
muồi, kham làm pháp khí, nhưng trong đời hiện tại, chìm lỉm trong cặn bùn, chỉ
sót lại một mảy thiện căn. Vì thế, A-xà-lê liền chọn một chỗ đất bằng phẳng
trong ấy, mở ra bí tạng Mạn-đồ-la, cần gì phải đợi người an tâm nơi đế lý thì mới thực hiện Phật sự ư?
Vì thế, chẳng mâu thuẫn với điều đã nói trong phần trước.
Đại
Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần hai hết
[1] Cảnh
đối trước căn, được lãnh hội bởi căn thì gọi là “tiền cảnh”.
[2] Tất
Địa (Siddhi), dịch nghĩa là Thành Tựu, hoặc Diệu Thành Tựu. Thường nói là Thành
Tựu Tất Địa, hoặc Tất Địa Thành Tựu. Ý nói tu Chân Ngôn hạnh, nương vào Tam Mật
tương ứng mà thành tựu các quả báo mầu nhiệm thuộc thế gian hay xuất thế gian.
Tất Địa có hai loại:
- Hữu tướng tức là thành tựu quả báo thế
gian như trường thọ, tăng trưởng phước đức v.v..
- Vô tướng tức là thành tựu quả báo xuất
thế gian.
Trong mỗi loại, lại chia thành ba phẩm
thượng, trung, hạ.
[3] “Yêm
lưu” (淹留)
được giải thích là bị đình trệ, bị nắm níu, bị ngưng lại, bị ràng buộc. Dựa
theo lời chú giải của ngài Nhất Hạnh trong phần sau, cũng như lời giải
thích của cư
sĩ Trương Huyền Tường trong bài Như Hà Lợi Dụng Kim Cang Kinh Lai Tu Hành (làm
thế nào vận dụng kinh Kim Cang để tu hành) có trích hai đoạn Đại Nhật Kinh Sớ
này để giải thích tỉ mỉ như sau: Học nhân Tam Quả do vướng mắc nơi Căn, Giới,
Cảnh, tâm chẳng thanh tịnh, đình trệ tại đó, nên nói là “yêm lưu tu
hành”, khiến cho hành nhân trụ mãi nơi Tam Quả, chẳng tiến lên
Tứ Quả được. Vì thế, chúng tôi tạm dịch “yêm lưu tu hành” thành
“tu hành dằng dai” với ngụ ý: Hành nhân gắng sức tu hành, nhưng vẫn bị vướng
mắc, lôi kéo, dẫu hết sức dụng công, nhưng vẫn chưa tiến cao hơn được. Trương
cư sĩ cũng giải thích chữ Chu Ngột trong câu kế tiếp như sau: Chu Ngột là gốc
cây chết khô, chẳng thể mọc được nữa, nhưng khó bứng đi được.
[4] Theo
kinh Trường A Hàm, khi thế giới mới hình thành, chư thiên từ Quang Âm Thiên nếu
phước hết, sẽ sanh vào Dục
Giới mới được hình thành. Đất tự nhiên trào
lên suối ngọt như tô mật. Chư
thiên nếm thử, sanh tâm ưa thích, ăn mãi, biến
thành thân thể thô nặng, đánh mất dáng vẻ tươi sáng, thanh lịch, nhẹ nhõm của
chư thiên, đánh mất thần thông. Kẻ ăn nhiều vị ngon của đất sẽ thô tháp, nặng
nề, kẻ ăn ít sẽ tươi tắn, đẹp đẽ. Do vậy, nẩy sanh tâm hơn, thua, sang hèn. Vị
ngon của đất dần dần cạn kiệt, lại sanh ra địa bì (tạm dịch là “da đất”) hình
dạng như bánh mỏng. Địa bì dần dần bị diệt mất, lại sanh ra địa phu (“lớp da bên trong của đất”).
Khi địa phu diệt mất, thì mới sanh ra địa
phì (chất béo trên mặt đất), vị ngon ngọt như rượu nho. Địa phì cạn kiệt mới
sanh ra gạo tẻ, chẳng cần thêm gì mà ăn vẫn thơm ngon. Chúng sanh ăn vào bèn có
hình dạng nam nữ khác biệt, nẩy sanh chấp trước, ham muốn nên mới có vợ chồng
v.v…
[5] Trong
ngoài mười giới: Trong là sáu căn, ngoài là sáu trần, do chúng có giới hạn
riêng nên gọi là Giới.
[6] Nhận
(仞) là đơn vị đo dài thời
cổ, được quy định là chiều dài cánh tay của một nam nhân trưởng thành. “Nhận” biến
đổi theo thời gian, đời Châu quy định tám Xích (thước Tàu, khoảng 33cm) là một
Nhận, đời Hán quy định một Nhận là bảy Xích.
[7] Theo
cựu dịch (trước thời ngài Huyền Trang), A Đà Na thức (Ādāna-vijñāna) chính là tên gọi khác của Mạt Na Thức, tức thức
thứ bảy. Phái tân dịch (từ thời ngài Huyền Trang trở đi) chủ trương A Đà Na là tên
gọi khác của A Lại Da Thức (thức thứ tám). Danh xưng này được dùng đầu tiên
trong kinh Giải Thâm Mật. Danh từ này còn được dịch nghĩa thành các danh xưng Chấp
Thức, Chấp Trì Thức, Vô Giải, Chấp Ngã, Chấp Thọ, Chấp Trì, Chấp Thủ.
[8] Chuyển
Y (āśraya-parivrtti), nghĩa đen là chuyển
đổi đối tượng để nương vào. Đôi khi từ ngữ này còn được diễn tả là Chuyển Trụ,
hoặc Sở Y Dĩ Chuyển. Chuyển Y được dùng theo ý nghĩa chuyển đổi từ việc nương
vào pháp hèn kém thành pháp tốt đẹp hơn. Chẳng hạn như trong Duy Thức, do tu
thánh đạo, đoạn diệt Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng, chứng đắc Niết Bàn, Bồ
Đề, thì cái quả ấy được gọi là Nhị Chuyển Y Quả.
[9] Chúng
tôi dịch đoạn này dựa theo cách diễn giải của Kim Cang thượng sư Trác Cách Đa
Kiệt trong loạt bài giảng về Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận. Theo thượng sư,
câu “cốt tượng cập thủ cốt” phải hiểu là khi hành giả Du
Già tu thành phép quán cốt tỏa (tức là quán tướng xương như các cái khóa móc
chặt vào nhau nơi thân thể của chính mình; đây là một trong tám mươi tùy hình
hảo nơi thân Phật), sẽ thấy
toàn thể mọi người đều có tướng hảo ấy, chớ nên chấp trước người thành tựu phép
quán, cũng như chấp trước tướng xương móc vào nhau ấy, phải biết đó là do chấp trước
nhị biên mà thôi!
[10] Tiền
tế và hậu tế: Do đối ứng với sát-na hiện tại mà nói là tiền tế (khoảnh khắc
trước đó) và hậu tế (khoảnh khắc sau đó). Hoặc hiểu rộng hơn: Tiền tế là quá
khứ, hậu tế là vị lai. Nhưng ở đây, phải
hiểu tiền tế là trước một niệm tâm trong hiện tại, hậu tế là sau một niệm tâm
trong hiện tại.
[11] Đây
là mượn cách nói trong thí dụ của phẩm Hóa Thành kinh Pháp Hoa. Vị hướng dẫn
biết chỗ có kho báu ở ngoài năm trăm do-tuần, bèn hướng dẫn mọi người vượt
qua đường hiểm dài năm
trăm do-tuần để đến được kho báu ấy. Do chúng sanh nửa đường chán mệt, muốn
quay về, vị hướng dẫn phải hóa ra một tòa thành cho họ ở để tạm nghỉ
ngơi. Sau đó diệt hóa thành,
thúc giục họ tiếp tục tiến lên.
[12] Cỏ Cát Tường (Kuśa), còn phiên âm là Củ Thi, Câu Thư, hoặc Cô
Xa, dịch nghĩa là Hương Mao, Cát Tường Mao, Lữu Thảo, Hy Sinh Thảo. Loại cỏ này
thường mọc ở vùng đất ẩm, có hình dạng gần giống như cỏ tranh, cọng dài tới 16
cm. Do Cát Tường đồng tử dâng cỏ này cho Phật Thích Ca trải tòa ngồi dưới cội
Bồ Đề, nên được gọi là cỏ Cát Tường. Kinh Vô Lượng Thọ có nhắc đến điều này như
sau: “Cát Tường cảm trưng, biểu chương công tộ, ai thọ thí thảo, phu
Phật thụ hạ, già phu nhi tọa”. Trưởng lão Đạo Nguyên giảng câu này
phải hiểu như sau: “Ông Cát Tường được cảm vời [Phật] sẽ biểu hiện
rành rành công phu và phước báo, bèn khẩn khoản xin Phật tiếp nhận cỏ cúng thí,
trải dưới cội cây của Phật, để Ngài ngồi xếp bằng”. Tại Ấn Độ, người ta cũng thường dùng cỏ
này bện thành đệm để đặt các vật cúng lên, hoặc dùng làm chiếu trải nơi các chỗ
được coi là thanh tịnh.
[13] Chúng
tôi dịch câu này dựa theo cách giảng giải trong tác phẩm Thiên Đài Giáo Quán
Lược Thuyết Giảng Ký của cư sĩ Ngô Hy Nhân đăng tải trong nguyệt san Minh Luân
kỳ 505, tháng 6, năm 1998 (Đài Bắc).
[14] Xứ
phi xứ: Tức là biết do nhân nào sẽ đạt được quả ấy, chẳng hạn như do chân chánh
tu thiện nghiệp sẽ đắc thiện quả, đó gọi là Xứ (hay Thị Xứ). Nếu giải đãi,
phóng dật, tùy tiện làm ác mà mong chứng thánh quả thì chẳng có lẽ ấy. Đó gọi
là Phi Xứ (không có lẽ ấy, không hợp lý).
[15] Trong
Yết Ma Hội của Kim Cang Giới Mạn Đồ La, bốn vị Phật ở bốn phương, mỗi vị có bốn
Bồ Tát thân cận, hợp thành mười sáu vị Bồ Tát:
1. Đông phương A Súc Phật, có bốn vị Bồ Tát
thân cận là Kim Cang Tát Đỏa, Kim Cang Vương, Kim Cang Ái, Kim Cang Hỷ. Đó
chính là công đức lưu xuất từ trì giới, nhẫn nhục mà thành tựu Bồ Đề tâm.
2. Nam phương Bảo Sanh Phật, có bốn vị Bồ
Tát thân cận là Kim Cang Bảo, Kim Cang Quang, Kim Cang Tràng, Kim Cang Tiếu. Đó
là công đức do thành tựu phước đức trang nghiêm vì bố thí không chấp trước.
3. Tây phương A Di Đà Phật có bốn vị Bồ Tát
thân cận là Kim Cang Pháp (Quán Thế Âm), Kim Cang Lợi, Kim Cang Nhân, Kim Cang
Mật Ngữ. Đó là công đức do thành tựu trí huệ bởi chánh định đại huệ.
4. Bắc phương Bất Không Thành Tựu Phật có
bốn vị Bồ Tát thân cận là Kim Cang Nghiệp, Kim Cang Hộ, Kim Cang Nha, Kim Cang
Quyền. Đó là công đức thành tựu do phương tiện sự nghiệp tinh tấn lợi tha.
[16] Theo
Đại Minh Tam Tạng Pháp Số, quyển bốn mươi tám, “ba mươi sáu vật” tức là ba mươi
sáu yếu tố kết hợp thành thân thể, gồm ba tiểu loại:
1. Ngoại tướng gồm tóc, lông, móng, răng,
ghèn, nước mắt, nước miếng, đờm rãi, phân, nước tiểu, hờm, mồ hôi.
2. Thân khí gồm lớp da ngoài, lớp da trong,
máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mỡ lá, mỡ chài, não, màng bọc các cơ quan nội
tạng.
3. Nội hàm gồm gan, mật, ruột, bao tử, tỳ
(lá lách), thận, tim, phổi, sanh tạng, thục tạng, đàm đỏ, đàm trắng.
Kinh Tạp A Hàm quyển bốn mươi ba nói hơi
khác, nhưng đại để tương đồng.
[17] Mâu
Hô Lật Đa (Muhūrta): Luận Câu Xá quyển
mười hai nói: “Ba mươi lạp-phược là một Mâu Hô Lật Đa, ba mươi Mâu Hô
Lật Đa là một ngày đêm”. Sách Đồng Quang Ký quyển mười hai ghi: “Mâu
Hô Lật Đa được phương này dịch là Tu Du (khoảnh khắc)”. Cũng trong cách tính thời gian của Ấn Độ, Mâu
Hô Lật Đa còn có nghĩa là một phần 30 của một ngày đêm, tức 48 phút. Trong phần
trước, khi nói một ngày đêm chia thành ba mươi thời, có tên gọi khác nhau, tức
là nói đến Mâu Hô Lật Đa, được tính từ sáu giờ sáng hôm trước đến sáu giờ sáng
hôm sau. Mỗi Mâu Hô Lật Đa lại có tên gọi riêng, chẳng hạn như Rudra, Ahi,
Mitra, Pitṝ, Vasu v.v…
[18] Bố
Tát (Uposattha, Upavasatha, Uposadha, Upavāsa,
Posadha) có nghĩa gốc là “thanh tịnh”. Do vậy, từ ngữ này được dịch
nghĩa thành Trưởng Tịnh, Trưởng Dưỡng, Tăng Trưởng, Thiện Túc, Tịnh Trụ, Trường
Trụ, Cận Trụ, Cộng Chủ, Đoạn, Xả, Trai, Thuyết Giới. Đây là thông lệ cứ mỗi nửa
tháng, toàn thể Tăng chúng tại một trụ xứ
tụ tập (người vì lý do
nào đó chẳng thể tham dự, phải xin tăng đoàn
cho phép vắng mặt) nhằm trùng
tụng giới luật để các tăng sĩ kiểm điểm tự thân mình có giữ giới thanh tịnh hay
không. Nếu ai vi phạm, sẽ tự đối trước Tăng đoàn sám hối. Các cư sĩ tại gia thọ
Bồ Tát giới cũng phải theo lệ tụng Bồ Tát Giới để kiểm điểm chính mình. Khi bố-tát,
có quy định “người chưa thọ giới ấy
phải lui ra, không được nghe trộm”,
nhằm bảo vệ kẻ ấy chẳng khởi tâm khinh mạn, tùy tiện phán xét người thọ giới
chẳng giữ giới thanh tịnh, hoặc rêu rao các lỗi của tỳ-kheo hay cư sĩ khi họ
phát lộ sám hối.
[19] Ca
La La (Kalalaṃ) tức là phôi thai hình
thành sau khi trứng của mẹ được thụ tinh sau bảy ngày, còn được phiên âm
là Yết La Lam, Yết La La, Ca La Lã,
hoặc dịch nghĩa thành Ngưng Hoạt, Tạp Uế.
[20] Nghĩa
lợi: Lợi ích trong hiện tại được gọi là Nghĩa, lợi ích trong tương lai gọi là
Lợi.
[21] Chi phần: Có thể hiểu đại lược
như các giai đoạn, các phân đoạn của một sự việc. Chẳng hạn như để vẽ Mạn-đồ-la
sẽ gồm các yếu tố như phẩm hạnh của vị A-xà-lê, cách chọn lựa cuộc đất thích
hợp, kết cấu của Mạn-đồ-la, trình tự vẽ Mạn-đồ-la, trình tự cúng dường, tác
pháp v.v… Mỗi phần như thế được gọi là một chi phần.
[22] Theo
Phật Học Từ Điển của Đinh Phước Bảo, thập bát minh xứ (hay còn gọi là thập bát
đại kinh) là danh xưng của Bà La Môn giáo để chỉ các kinh điển cần phải thông
hiểu của một tu sĩ Bà La Môn, gồm bốn bộ Vệ Đà (Vedas, tức Lực Vệ Đà, Dạ Nhu Vệ
Đà, Sa Ma Vệ Đà, và A Thát Bà Vệ Đà), và sáu bộ luận lớn gồm Thức Xoa (Śiksā), Tỳ Già La (Vyākarana), Kha Lạt Ba (Kalpa), Thụ
Để Sa (Jyotisa), Xiển Đà (Chandas), Ni Lộc Đa (Nirukta). Tám bộ luận nhỏ là Mế
Mang Sa (Mīmāmsā), Na Da Tỳ Tát Đa (Naya-vistara), Y Để Ha Sa (Itihāsa),
Tăng Khư (Sāmkhya), Khóa Già (Garga), Đà Nậu (Dhanur), Kiện Thát Bà (Gandharva),
A Thâu (Āyur-śāstra). Nói chung, “thập bát minh xứ” được
dùng trong kinh luận Phật theo nghĩa “thông hiểu trọn khắp các sách vở
thế gian”.
[23] Tam
bình đẳng ở đây phải hiểu theo giáo nghĩa Mật Tông, tức là ba món thân ngữ ý
đều bình đẳng, dung nhập lẫn nhau, chỉ cùng một vị.
[24] Âm thanh tam-muội là thuật ngữ trong văn tự Tất Đàm chỉ
mười hai nguyên âm (thường gọi là Thập Nhị Ma Đa), tức a, ā, i, ī, u, ū, e, ai, o, au, am, ah. Ở đây có ý nói chữ Chất (tức Cit trong từ ngữ
Citta, चित्त), chính là ghép phụ âm Giá
(Ca, च) với nguyên âm I (ि), thành Cit (चि), nên nói “chữ Giá
kèm thêm âm thanh tam-muội”.
[25] Ý
nói khi hành giả tu mật pháp, hoặc tay liên tiếp kết các thủ ấn, hoặc có lúc
nhảy múa theo các điệu kim cang vũ.
[26] Át-già
(閼伽, Argha),
còn phiên âm là A-già, Át-ra-già, dịch nghĩa là Công Đức, Công Đức Thủy, hay
chỉ dịch là Thủy. Đôi khi gọi gộp chung là Át-già Hương Thủy, hoặc Hương Hoa
Thủy. Đây là từ ngữ
chỉ nước có mùi thơm được dùng để cúng dường, hay vật dụng đựng nước ấy. Đây chính là một
trong sáu món cúng dường chính yếu trong đàn tràng Mật Tông, gồm nước Át-già (có
tác dụng tẩy rửa), hương bôi, tràng hoa, hương đốt, thức ăn, và đèn thắp sáng. Theo truyền
thống, thời cổ, tại Ấn
Độ khi tiếp đón các khách quý, luôn dâng nước tẩy rửa có mùi thơm để khách
rửa tay, rửa mặt. Vì thế, Mật giáo cũng dùng nước Át-già như một cách biểu hiện
lòng kiền thành, trân trọng đối với Bổn Tôn và thánh chúng trong đàn tràng. Đôi
khi như trong truyền thống Tây Tạng, nước Át-già chỉ đơn giản là nước trong hòa với một chút bột nghệ.
[27] Tỳ
Na Dã Ca (Vināyaka), còn phiên âm là Tỳ Na Dạ Ca, Tỳ Na Da Ca, Tần Na Dạ Ca, Tỳ
Na Da Đát Ca, Tỳ Na Trá Ca, Phệ Na Dã Đát Ca, dịch nghĩa là Tùy Ma, Chướng Ngại
Thần. Đây là một loại ác quỷ thần thân người, mũi voi, thường rình rập để hại
người tu hành.
[28] Tát
Đà Ba Luân Bồ Tát (Sadāpralāpa), tức Thường Đề Bồ Tát. Sở dĩ có tên gọi như vậy
là do vị này thấy chúng sanh chìm đắm trong sanh tử, nên thường khóc. Trong
kinh Đại Bát Nhã có nói đến công hạnh cầu Bát Nhã của vị Bồ Tát này. Do được
nghe Bát Nhã, cảm kích ân Phật, nhưng không có gì để cúng dường, nghe nói
trưởng giả cần tủy người để làm thuốc. Ngài liền đập vỡ xương mình, chắt lấy
tủy đem bán để mua hương hoa cúng dường Phật.
[29] Giá Văn Đồ, còn được biết dưới các danh xưng Chamundeshwari, Chamundi, hoặc Charchika, là
dạng phẫn nộ của Chandi (một vị nữ thiên được coi là hùng mạnh nhất trong Bà La
Môn giáo). Bà này cũng là một vị trong Thất Mẫu (Saptamatrikas), thường được
coi là quyến thuộc của vua Diễm Ma (Diêm vương) vì bà ta thường ngự nơi hỏa
thiêu xác chết. Trong Mật Tông Tây Tạng, bà ta được coi là thân phẫn nộ của Đại
Hắc Thiên Nữ (Kali), là minh phi của Đại Hắc Thiên (Mahakala).
[30] Đồ Cát Nhĩ (Ḍākinī), còn
được phiên âm là Đồ Chỉ Ni, Đồ Cát Ni, Trá Chỉ Ni, hoặc dịch nghĩa là Không
Hành Mẫu. Trong Ấn giáo và Đông Mật, Đồ Cát Nhĩ được hiểu là một loại nữ quỷ
chuyên ăn thịt sống và hấp thụ tinh khí của con người. Theo truyền thống Đông
Mật, Đại Nhật Như Lai đã hiện thân Đại Hắc Thiên để hàng phục các Đồ Cát Nhĩ,
buộc họ phải thôi ăn thịt người và hộ trì Phật pháp. Trong Mật Giáo Tây Tạng,
Đồ Cát Nhĩ đóng vai trò khá quan trọng, họ thường được gọi theo tiếng Tạng là
Khandroma, và được xưng tụng là Kim Cang Thừa hành giả, được coi là hóa thân
của Phật và Bồ Tát. Họ thường được miêu tả dưới hình dạng thiếu nữ vẻ mặt phẫn
nộ, đội mão kết bằng xương người, một tay cầm bát (kapala) chứa đầy máu tươi,
một tay cầm dao công, thường là khỏa thân nhảy múa trên xác người, có công năng
bảo vệ Mật pháp, thủ hộ hành giả Kim Cang Thừa. Hai Đồ Cát Nhĩ nổi tiếng nhất trong
Phật giáo Tây Tạng là Kim Cang Hợi Mẫu (Vajravārāhī), và Y Hỷ Tán Gia (Yeshe Tsogal). Y Hỷ Tán Gia vốn là
công chúa của xứ Karchen, theo học đạo với Liên Hoa Sanh (Padmashambava, sáng
tổ của Phật giáo Tây Tạng), trở thành đối tượng song tu của ông ta với danh
xưng là “sự nghiệp thủ ấn phi” (Karmamudrā consort).
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần ba
大毘盧遮那成佛經疏
Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê ký
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và
Huệ Trang
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Bỉ giản trạch địa, trừ khử lịch, thạch, toái ngõa, phá khí, độc
lâu, mao phát, khang tao, hôi thán, thích cốt, hủ mộc đẳng, cập trùng nghĩ,
khương lang, độc thích chi loại.
(經)祕密主!彼揀擇地,除去礫石碎瓦破器、髑髏毛髮、糠糟灰炭、刺骨朽木等,及蟲蟻蜣蜋毒螫之類。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Cuộc đất chọn được ấy, trừ bỏ sỏi, đá, ngói vỡ, đồ hư bể, đầu lâu,
trấu cám, tro than, xương gãy, cây mục v.v… và trùng, kiến, bọ hung, các loài
trùng có nọc độc).
Kế
đó, nói về chi phần “tịnh trị cõi đất”. Tức là trong cuộc đất đã chọn trên
đây, chọn lựa chỗ đặt đàn tràng, đào sâu xuống chừng một khủy tay. Đối với
đất nơi ấy, mỗi mỗi đều chọn lọc kỹ càng, hễ có các vật không dùng đến và các
loài trùng, đều bỏ đi. Nếu [cuộc đất] có các thứ ấy, sẽ sanh ra các nạn, gây
chướng ngại cho pháp. Đá và cát, sỏi, nếu ít thì có thể chọn ra để bỏ đi. Nếu
cát, đá quá nhiều, tích tụ chỗ này, chỗ kia cũng có, chẳng thể loại ra để trừ
sạch được, hãy nên bỏ chỗ ấy, tìm chỗ khác. Nhưng đối với đá tảng bằng phẳng,
có thánh giáo bảo là có thể lập Mạn-đồ-la trên đó; nhưng nếu là đá xen tạp
trong đất thì nên loại bỏ đi.
Thói
tục ở phương Tây (Ấn Độ), phần nhiều ăn trong đồ đựng bằng sành, ăn xong liền
vứt đi, cho là đã nhơ uế, chẳng còn dùng nữa. Những thứ như thế và các thứ vật
dụng bị hư hoại khác, cùng với đầu lâu, xương vụn, các thứ móng, tóc, da, lông,
các thứ cây cỏ tạp nhạp, các thứ tro than, cành nhánh gai góc, gỗ mục. Nói tóm
lại, các thứ vật chẳng dùng được như thế, chẳng phải là thứ vốn nên có trong
đất sạch, đều loại bỏ. Nếu chúng quá nhiều, chẳng lọc ra được, cũng nên bỏ chỗ
ấy để tìm chỗ khác. Từ ngữ Cật Lật Mị trong tiếng Phạn chỉ chung các loại trùng
kiến, đều là các loại trùng rất nhỏ, đều nên loại bỏ đi. Bọ hung là trùng lớn,
lại còn các loài giun đất v.v… Cứ chuẩn theo đó mà biết ý nghĩa. “Độc
trùng” tức là các loài rắn, bọ, rết, cuốn chiếu, đều nên dùng phương
tiện xua đuổi. Nếu quá nhiều chẳng thể trừ, tức là chỗ có thể gây trở ngại,
chướng nạn. Hãy nên bỏ nơi đó!
(Kinh)
Ly như thị chư quá.
(經) 離如是諸過。
(Kinh:
Lìa các lỗi như thế).
Đây
là nói chung nhiều thứ. Người hiểu ý khi gặp chuyện sẽ tự suy xét. Hoặc là cuộc
đất nghiêng lệch, hoặc cao, thấp, chẳng bằng phẳng, hoặc sắc vị chẳng
hợp thánh giáo. Đối với sắc, coi màu vàng hoặc trắng là thù thắng. Nếu đất
thuần màu đen, chớ nên chọn lấy. Nếm vị đất thấy ngọt hoặc nhạt thì tốt, nếu
cay, đắng, mặn, chát thì không nên dùng. Hoặc đào lên rồi lấp hố lại, mà đất
chẳng thể lấp đầy thì chẳng nên dùng. Nếu lấp xong mà đầy vun lên thì tốt. Lại
ở trong một chỗ, phía Nam là hạ địa, chỉ có thể dùng làm [chỗ để thực hiện
pháp] A Tỳ Giá Lỗ Ca[1] mà thôi!
Lại
nữa, A-xà-lê đã biết tâm địa của đệ tử kham có thể kiến lập Đại Bi Mạn-đồ-la
trong ấy, liền trụ trong Định sâu để quán sát, phân biệt kỹ càng, dùng trí huệ
để chọn lựa, trừ khử các cấu nhơ tạp uế chẳng thể kham thực hiện. Sau đấy mới
đối trị, khiến cho vững chắc để trang nghiêm. Nếu không, túc nghiệp hoặc tập
khí thừa sót sẽ có thể sanh ra chướng ngại. “Sỏi, đá” ví như
chẳng tin chánh pháp, chấp chặt những thứ chấp trước thuộc về ngã, các kiến
chấp như bài bác “chẳng có nhân quả” v.v… Do khó thể đẽo, khắc, dù vun tưới,
trọn chẳng thể sanh ra mạ lành; dẫu đổ công chăm chút, vẫn chẳng thể thành tựu
được gì! Chấp trước vi tế quá nhiều, sẽ chẳng thể tiếp nhận [pháp do thầy
truyền dạy]. Vì thế, ví như cát, sỏi.
“Ngói
vụn, đồ vật hư vỡ” ví như tạo Ngũ Nghịch, phạm tứ trọng cấm[2], báng bổ kinh Phương Đẳng v.v… Do
tâm khí bại hoại, nên chẳng thể kham nổi; dẫu có thêm pháp vị vào, vẫn chẳng
thể gìn giữ được, uổng phí các điều thiện. Trước hết, hãy nên dùng tay “huệ phương tiện” để chọn lọc, loại bỏ các thứ chướng
như thế. “Đầu lâu” ví như chướng ngại phá hoại Bồ Đề tâm. Xưa
kia, từng có người trọn
đủ nhân và pháp, là thượng thủ bậc nhất trong các chi phần, nhưng do mạng căn
bị chấm dứt, bách thể (thân thể) hư hại, chẳng thể làm được gì. Do tập khí xấu
ác ấy, dẫu khiến cho người ấy lại phát Bồ Đề tâm, vẫn trở thành chướng, tự vui
thỏa [trong các dục hoặc tiểu quả] khiến cho đạo tâm lui sụt. Vì thế, càng phải nên gột trừ sạch các
tập khí thừa sót.
“Lông,
tóc” ví như sáu mươi tâm [đã nói trong phẩm trước], kết hợp với tám
loại thiện tâm mà sanh, tới khi nhận biết, hãy nên cắt bỏ. Kể từ khi chưa đạt
được cái tâm xuất thế gian đến nay, chúng xen tạp, lăng xăng dấy lên, khó thể
thấy được đầu mối. Vì thế nói là “lông tóc, trấu cám”. Như vô
minh vọng tưởng là do chấp trước hý luận, chỉ đạt được lớp vỏ trấu danh tướng,
đánh mất gạo Thật Tướng. Vì thế, dùng trấu cám để sánh ví. “Tro than” ví
như dấy khởi tâm Nhị Thừa, yêu chuộng tiểu pháp. Nếu thiện căn bị cái tâm ấy
thiêu đốt, sẽ quy vào “hôi đoạn”[3], chẳng sanh ra cành, lá,
hoa, quả đại bi. Vì thế, dùng [tro, than] để sánh ví. “Thích cốt” (xương
gãy vụn) là như từng tạo các hạnh chẳng lợi ích chúng sanh, phạm đủ mọi luật
nghi vụn vặt. Đấy là túc đối tàn chướng (oan gia oán đối và chướng ngại còn sót
lại từ đời trước) trong quá khứ, nên gọi là “xương”. “Gỗ
mục” là nói đến loại người chẳng mong muốn, biếng nhác v.v… chẳng kham
được vun bồi, uốn nắn, đào luyện. Lại nữa, trong tiếng Phạn, [từ ngữ này]
còn có nghĩa là “gốc cây chết”, ý nói từ lâu xa tới nay, riêng
quen với các phiền não, dư nghiệt[4] sâu chắc, khó thể nhổ trừ. Do
các nghiệp quá khứ như thế chứa đựng trong tâm địa, khi nhất tâm hành đạo, ma
sự dễ dấy lên. Vì thế, cần phải loại bỏ trước! Nếu quá nhiều, chẳng thể loại
bỏ, hãy nên vứt bỏ căn cơ ấy, để tìm căn cơ khác.
“Các
loài trùng kiến, bọ hung, trùng có nọc độc” ví như các thứ phiền não hiện hành. Trùng,
kiến ví như si, bọ hung ví như tham, độc trùng ví như sân. Các loài ấy rất
nhiều, ví như các thứ Tùy Phiền Não. Các thứ trùng nhỏ bé ví như vô lượng ác
giác kiến. Quán các loài ấy đều có Như Lai Tánh, càng phải nên che chở, chớ nên
dứt tuyệt mạng căn của chúng, chỉ nên phương tiện xua đuổi, khiến cho chúng
chẳng gây trở ngại cho việc tu đạo, chẳng làm nhơ bẩn Mạn-đồ-la mà thôi! Nếu
muốn cho đạo tràng cực thanh tịnh thì một trăm sáu mươi thứ cấu vi tế thượng,
trung, hạ [trong tâm] đều nên loại trừ, khiến cho chẳng còn sót. Cho tới trong cuộc đất
quán đảnh, phàm những gì chẳng phải là đất sạch, đều nên loại bỏ, thì mới gọi
là “rốt
ráo thanh tịnh” vậy!
(Kinh)
Ngộ lương nhật thần, định nhật, thời phần, tú trực, chư chấp giai tất tương
ứng, ư thực tiền thời, trị cát tường tướng.
(經)遇良日晨、定日、時分、宿直、諸執皆悉相應,於食前時值吉祥相。
(Kinh:
Gặp ngày giờ tốt, định nhật, thời phần, ngày có sao tốt chiếu, các tinh tú
trong cửu diệu tương ứng, trước lúc bữa trưa, gặp được tướng tốt lành).
Do
chuyện chọn đất, bèn nói tới chi phần “chọn lựa thời điểm”. Hễ thực hiện pháp sự, đều cần phải có
thời và nghĩa khế hợp.
Nay sắp chọn lựa thời điểm và cuộc đất để tịnh trị, phải nên trong ngày tốt mà
báo tin, nhắc nhở địa thần. Các pháp sự khác cũng nên biết như thế.
“Lương
nhật thần” tức là tác pháp nên dùng ngày thuộc bạch nguyệt[5], tức mùng Một, mùng Ba, mùng Năm,
mùng Bảy, Mười Ba đều là cát tường, kham làm Mạn-đồ-la. Lại nữa, ngày mồng Tám,
ngày Mười Bốn, và ngày Rằm trong một tháng là tối thắng. Tới những ngày ấy,
thường niệm tụng, cũng nên dụng công hơn.
“Định
nhật”: Theo cách tính thông thường trong lịch pháp phương Tây (Ấn Độ), tính
toán trong một tháng thiếu, [thì ngày thông thường trong một tháng đủ] sẽ ứng
hợp với ngày nào [trong tháng
thiếu ấy].
Nếu tháng thiếu thuộc vào bạch nguyệt, ngày Mười Lăm tháng ấy sẽ thuộc vào hắc
nguyệt, chẳng nên dùng. Lại nữa, lịch pháp tính chung chu kỳ vận chuyển của mặt
trời và mặt trăng để tính toán ngày mồng Một mỗi tháng, đều là gồm một tháng
thiếu, một tháng đủ. Do mặt trời và mặt trăng cùng vận hành, lại có sớm hay
trễ, hoặc có lúc trùng nhau, có lúc chẳng trùng. Do vậy, ngày mồng Một sẽ được
ấn định trước hay sau một ngày, ngày Rằm sẽ thuộc ngày mười bốn hay ngày mười
sáu [trong tháng đó]. Đại để, ngày Rằm trong tháng nhằm lúc trăng tròn thì gọi
là ngày Mười Lăm thuộc bạch nguyệt, khi mặt trăng vừa đúng một nửa như lúc
thượng huyền thì cũng gọi là ngày mồng Tám. Chỉ dùng cách tính như vậy để suy
ra “định nhật”.
“Thời
phần”: Theo lịch pháp của phương Tây thì ngày và đêm mỗi buổi đều có ba
mươi thời, mỗi thời đều có tên gọi riêng, tức là ban ngày dựa theo sự đo lường
bóng nắng dài hay ngắn mà tính, nhằm lúc nào đó thực hiện thì sẽ tốt lành, thực
hiện vào lúc nào đó sẽ xấu, lúc nào thì trung bình, mỗi mỗi đều có hình tượng,
phân loại riêng.
Nói “tú
trực” chính là nói đến hai mươi bảy tinh tú[6]. Châu thiên (quỹ đạo vận chuyển của
mặt trời hoặc một hành tinh nào đó; ở đây là quỹ đạo của mặt trời) được chia
thành mười hai cung, giống như mười hai Thứ[7], mỗi Thứ có chín Túc. Châu thiên gồm
một trăm lẻ tám Túc[8], mỗi Tú (mỗi tinh tú) đều có bốn
Túc, tức là khoảng cách mặt trăng di chuyển trong một ngày. Trải qua hai mươi
bảy ngày, tức là mặt trăng xoay hết một châu thiên. Dựa theo lịch để tính toán,
mặt trăng thuộc vào phương vị của tinh tú nào, tinh tú ấy được gọi là “trực
nhật” [của ngày hôm đó]. Tinh tú có thượng, trung, hạ, bẩm tánh có
cương, nhu, tĩnh, động khác nhau. Thực hiện pháp sự cũng nên thuận theo [để
chọn lựa “trực nhật” thích hợp].
“Chư
chấp”: Chấp có chín loại, tức bảy ngôi sao, gồm mặt trời, mặt trăng, Hỏa,
Thủy, Mộc, Kim, Thổ, cùng với La Hầu và Kế Đô, hợp thành Cửu Chấp. La Hầu là
giao hội thực thần[9]. Kế Đô dịch sát nghĩa là Cờ, sao Cờ
chính là sao chổi. Ngoài hai Chấp ấy, bảy ngôi sao kia theo thứ tự trực nhật[10], tánh loại cũng có thiện và ác, như
trong Phạm lịch (lịch pháp của Ấn Độ) đã nói.
“Thực
tiền thời” (lúc trước bữa ăn): Ngày đêm mỗi đằng đều có ba thời, trước
bữa ăn có thể thực hiện pháp Tức Tai (dứt trừ tai nạn), buổi chiều thì làm pháp
Tăng Ích, ban đêm thì làm pháp sự Hàng Phục. Nhập Mạn-đồ-la quán đảnh tương ứng
với Tức Tai, nên nói là “thực tiền”.
“Gặp
cảnh giới tốt lành”, tôi cho rằng: Lúc tác pháp, hoặc trên mặt đất,
hoặc trong hư không có các thứ tướng lạ thuộc về sắc, thanh v.v… Trên mặt đất,
tức là hoặc thấy bé gái cầm nắm bình đựng năm vị của sữa (sữa, lạc, sanh tô,
thục tô, đề hồ), hoặc bình đựng nước thơm, hoặc cầm vật giống như luân, ấn v.v…
Hoặc là vật tôn quý trong cõi đời, và
các thứ chứa đựng gạo tẻ trắng v.v… tinh sạch, đầy ắp, hoặc mặc y phục đoan
nghiêm, sạch sẽ, đẹp đẽ, hoặc nói các thứ âm thanh tương ứng cát tường, thì đều
là tướng thành tựu. Không trung thì bỗng thấy mây lành thụy khí cuồn cuộn năm
màu, hoặc có cầu vồng rực rỡ tươi đẹp, rõ ràng bỗng hiện ra bất ngờ, hoặc có
ánh lửa thoáng vụt qua như hình dạng khi hộ-ma[11] thành tựu. Hoặc bên cạnh mặt
trời, thấy có năm sắc, hoặc hiện hình người như đang đứng yên lặng, hoặc trong
hư không có âm thanh hay đẹp, như là [tiếng hót của] các loài như bạch hạc,
chim công, uyên ương, hồng nhạn, trong trẻo, hòa nhã khiến cho mọi người thích
nghe. Các tướng như thế cũng đều là tướng thành tựu. Sở dĩ cần phải thuận theo
Thế Đế, là vì Mạn-đồ-la có ý nghĩa thù thắng, vi diệu, tịch diệt, người thuần
tín, tâm trong trắng còn khó thể tin nhận, huống kẻ ôm lòng ngờ lo ư? Do người
được độ đã từng học tập các kinh sách cúng tế thuộc Vi Đà (Vedas), các tài khéo, minh xứ (các sách vở thế gian), nếu họ thấy thời phần
tạo Mạn-đồ-la sai lầm, lo sợ sẽ dẫn đến điều chẳng tốt lành, liền sanh nghi,
trách móc rằng: “Ta nghe nói bậc trí huệ tổng trì không gì chẳng thông đạt,
nhưng nay xem ra, còn chẳng thể chọn được lúc có tinh tú tốt đẹp, huống hồ các
chuyện sâu xa khác ư?” Vì thế, kẻ đó do ngờ thầy, nghi pháp, đánh mất tín lực
kiên cố, đâm ra chuốc lấy trọng tội. Do vậy, cần phải thuận theo tình kiến và
căn cơ của họ.
Hơn
nữa, Chấp Diệu như thế chính là một loại thiện tri thức môn trong Mạn-đồ-la.
Các vị Bổn Tôn ấy có thể thuận theo sự nghiệp thế gian mà tạo phương tiện gia
trì, do A-xà-lê khéo chọn lúc cát tường, vốn sẵn liên quan tới pháp bổn thệ
Chân Ngôn như thế, thực hiện gia trì, sẽ được lìa các chướng. Lại nữa, các loại
Thế Đế môn đều là tiêu xí[12] của pháp giới. Nói “lương
nhật thần” (ngày giờ tốt lành) ngụ ý “thuộc lúc hội ngộ tốt lành của
Bồ Đề tâm”. Khi bậc thâm hạnh A-xà-lê trụ trong Du Già, quán sát thiện căn đã
gieo từ thuở ban sơ của người sắp được độ có lâu xa hay không? Nhân duyên thuộc
về ai? Do chuyện nào mà khởi đầu? Như lúc hành giả sơ phát tâm, hoặc do thấy
đức Phật thuyết pháp, hoặc trông thấy thần biến (thần thông biến hóa), hoặc
thấy các thứ chuyện đáng buồn khổ, hoặc ở nơi Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác mà
phát khởi đạo tâm, hoặc dùng hương, hoa v.v… để cúng dường các bậc phước điền
như trên, tâm được hoan hỷ, liền phát nguyện mong cầu Phật quả. Do nhân trước
và duyên hiện thời của người ấy cùng cảm phát, các thứ cơ duyên khế hợp mà giác ngộ bất
đồng. Hoặc là trong lúc như thế, Bồ Đề tâm có sức tịch tĩnh. Hoặc trong lúc như
thế, có sức tăng tấn. Hoặc trong lúc như thế, có sức oai mãnh, thuận theo các
thứ phương tiện Tất Đàn mà kiến lập, như vậy thì sẽ chẳng uổng công, chẳng sanh
chướng ngại.
“Định
nhật”: Mặt trời ví như thân Bổn Tôn. Mặt trăng ví như tu tập Du Già hạnh.
Do vầng trăng “Định tâm” của hành giả có lúc sáng thêm, hoặc
có lúc hơi mờ đi, hoặc vận hành quá nhanh, hoặc vận hành rất chậm, hoặc vượt
mức bình thường, hoặc chẳng đạt tới mức bình thường, khiến cho lúc cơ duyên khế hợp mà giác ngộ cũng
bị kéo dài hoặc rút ngắn. Nếu chiếu theo lẽ thường, có thể là đến một duyên nào
đó, một thời nào đó, đáng nên kiến lập, nhưng có khi duyên và cảnh đổi dời,
hoặc chưa đạt tới xứ và thời [tương ứng] mà đã chín muồi, hoặc có lúc vượt
ngoài thời và xứ ấy mới có chín muồi. Lẽ biến thông như thế đều nên khéo biết,
cho nên nói là “định nhật”.
“Thời
phần”: Hành giả trong mỗi một địa đều tự có mười tâm. Mỗi cái tâm ấy đều có
nhân, căn, và quả, kết hợp thành ba mươi tâm. Đối với ba mươi tâm ấy, trong một
Mâu-hô-lật-đa (Muhūrta, khoảnh
khắc), cũng nên biện định, suy xét sâu xa cặn kẽ: Lúc nào có thể chiết phục
phiền não? Lúc nào có thể tăng ích công đức? Lúc nào nên thuận theo Trung Đạo
để trụ trong tịch tâm? Đó gọi là “hiểu tướng vi tế nơi mỗi thời”.
“Tú
trực”: Nơi vầng trăng Du Già, hành nhân khi tiếp xúc với duyên cảnh, trong
hết thảy duyên cảnh, đều thấy tâm tánh, như các ngôi sao tuy hình dạng lớn, nhỏ, chủng loại sai biệt,
không gì chẳng tròn sáng vậy! Như khi mặt trăng đi qua [phương vị] của hai mươi
bảy tinh tú, do trải qua các tinh tú tốt xấu khác nhau, khiến cho khí hậu và
mỗi tháng trong thế gian cũng thuận theo mà khác biệt. Như sao Cơ[13] chuộng gió, mặt trăng đi vào
địa phận của sao Cơ thì trời sẽ nổi gió. [Tương tự như vậy], sao Tất chuộng
mưa, mặt trăng đi vào [địa phận của sao Tất], ắt sẽ đổ mưa. Bồ Đề hạnh cũng
giống như thế, do gặp duyên,
đối cảnh, thế lực khác nhau, khiến cho việc thực hiện các phương tiện chiết
phục, nhiếp thọ, và tịch hạnh (tức tai) cũng thay đổi theo. Nếu A-xà-lê có thể
suy xét sâu xa căn duyên, hiểu biết chuyện ấy, thì gọi là “khéo quan
sát tú trực”.
“Cửu
chấp” (Navagraha) tiếng Phạn là Ngật-lật-hà (Graha), có nghĩa là “chấp trì”. A-xà-lê
hãy nên quán tay “tâm lực” của người ấy có thể làm chuyện gì, thì mật ấn được
truyền sẽ chẳng đến nỗi bị luống uổng. Như kim cang huệ ấn của chư Phật, chỉ có
bậc Bồ Tát kim cang tâm mới có thể cầm. Nếu truyền cho kẻ kém hơn, sẽ gọi
là “chấp diệu chẳng tương ứng”. Trong Cửu Chấp, mặt trời ví
như Bồ Đề tâm vốn tịnh, tức là tự thể của đức Tỳ Lô Giá Na. Mặt trăng ví như Bồ
Đề hạnh. Ngày Mười Lăm trong bạch nguyệt tức là các hạnh đều viên mãn, ví như
thành tựu Bồ Đề. Ngày Mười Lăm của hắc nguyệt (tức ngày cuối tháng âm lịch) là
các hành đều tận, ví như nhập Niết Bàn. Trong khoảng giữa, theo thời mà tăng
hay giáng, ví như sức phương tiện. Hãy nên biết [các điều ấy] đã thâu nhiếp
Bách Tự Minh Môn. Thổ Tinh duy trì Trung Đài Tạng, Thủy Tinh duy trì quyến
thuộc Liên Hoa Bộ ở bên phải [của Trung Đài Bát Diệp]. Kim Tinh duy trì Kim
Cang quyến thuộc ở bên trái. Mộc Tinh trì Như Lai quả đức thuộc phương trên.
Hỏa Tinh duy trì các đại lực minh[14] ở phương dưới.
Lại
nữa, năm Chấp như thế, chính là trì ngũ sắc Tô-đa-la (Sutra)[15], Thổ là Tín, Mộc là Tấn (tinh tấn),
Kim là Niệm, Thủy là Định, Hỏa là Huệ. Hai chấp kia thì La Hầu chủ trì ngăn
che, Tuệ Tinh (Kế Đô) chủ trì điều bất tường, cho nên [hai tinh chấp này] chẳng
trực nhật. Sơ nhật phần như tịnh tâm hiển hiện, trung nhật phần như phát khởi
các hạnh, hậu nhật phần như vạn đức đã viên mãn, công dụng lần lượt ngưng dứt.
Sơ dạ phần như địa vị tự chứng, trụ trong Đại Niết Bàn. Hậu dạ phần như nghĩ
tới bổn thệ nguyện, dấy lên sức gia trì. Giáp vòng liền trở lại từ đầu, tuần
hoàn vô cùng. Thể của mặt trời là một, nhưng trong bốn bộ châu thì thời phần
mỗi châu mỗi khác. Nay dụng ý của Mạn-đồ-la này là muốn khai phát vầng mặt trời
Bồ Đề tâm, cho nên chọn lấy lúc trước bữa ăn (trước lúc chính ngọ).
“Gặp
cảnh giới tốt lành” tức là cảnh giới tâm vô tướng, trọn chẳng phải là
hữu vi hay vô vi. Dùng ngũ nhãn (nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn,
Phật nhãn) của Phật để quán kỹ, vẫn chẳng thể thấy tướng mạo ấy, nhưng cũng có
tướng phát khởi của các loại thiện căn để có thể rõ biết. Nếu là
bậc kiến đế A-xà-lê, sẽ tự hiện tiền thông đạt. Nếu chưa kiến đế, [vị ấy] sẽ ở
trong tam-muội, xem xét cảnh giới này, hoặc là thấy khi người ấy (người sẽ được
truyền trao quán đảnh) tu hành Lục Độ, các thứ Lục Tế[16] đều chẳng thể gây chướng nạn,
hoặc được chúng sanh khen ngợi, cho đến thọ ký Bồ Đề. Hoặc như trong phần trước
[đã nói] các thứ ấn tướng trong tam-muội sẽ hiển hiện rõ rệt, lạ lùng, đặc
biệt, khác với lẽ thường! Dùng nhân quả để suy xét, sẽ có thể hiểu ý, cho đến
đối với các chỗ phổ môn thâu nhiếp cũng đều có thể biết.
(Kinh)
Tiên đương vị nhất thiết Như Lai tác lễ, dĩ như thị kệ cảnh phát địa thần: -
Nhữ thiên thân hộ giả, ư chư Phật đạo sư, tu hành thù thắng hạnh, tịnh
địa Ba La Mật, như phá ma quân chúng. Thích Sư Tử cứu thế, ngã diệc hàng
phục ma, ngã họa
Mạn-đồ-la. (經)先當為一切如來作禮,以如是偈警發地神。汝天親護者,於諸佛導師,修行殊勝行,淨地波羅蜜。如破魔軍眾,釋師子救世,我亦降伏魔,我畫漫荼羅。
(Kinh:
Trước hết, hãy kính lễ hết thảy các đức Như Lai, dùng kệ như thế này để nhắc
nhở địa thần: - Ngài, vị trời hộ trì, nơi chư Phật đạo sư, tu hành hạnh
thù thắng, tịnh địa Ba La Mật, như phá lũ ma quân. Thích Sư Tử cứu thế, tôi
cũng hàng phục ma, tôi vẽ Mạn-đồ-la).
Vị
A-xà-lê sẽ nhắc nhở địa thần. Trước đó, [A-xà-lê] vận tâm tư duy thân trang
nghiêm vô tận của đức Tỳ Lô Giá Na trọn khắp pháp giới, mười phương ba đời hết
thảy các Như Lai cũng giống như thế. Mỗi thân trang nghiêm vô tận đều trọn khắp
pháp giới. Các vị Bồ Tát từ địa vị Thập Trụ cho đến Sơ Địa phần chứng thân
trang nghiêm, vô lượng vô biên trọn khắp pháp giới, chẳng có kẽ hở như dầu mè.
Hãy nên quán thân này đối trước trọn khắp hết thảy các vị thánh, dùng ba nghiệp
thanh tịnh chí thành làm lễ. Do nhân duyên ấy, [A-xà-lê] đạt được vô lượng
phước, liền dùng tâm vô đảo (chẳng điên đảo) thí cho đệ tử ấy, nguyện [đệ tử]
chẳng có chướng nạn, mau thành Vô Thượng Bồ Đề.
Kế
đó, hãy nên nói kệ để nhắc nhở địa thần. Như lúc Thích Ca Mâu Ni Phật mới ngồi
nơi đạo tràng, bảo ma vương rằng: “Ngươi do đời trước đã từng thí vô tận một
lần, nay được làm thân chúa trời tự tại, nhưng ta từ vô lượng kiếp tới nay, tu
đại thí như thế chẳng tính nổi, thậm chí thịt nơi thân thể, và tay, chân cũng
chẳng keo tiếc, ngươi sao có thể so sánh hơn kém cùng ta được?” Ma nói: “Ta làm
phước đã được ông chứng nhận, còn phước nghiệp của ông, ai sẽ chứng minh? Nếu
không có người chứng minh, tức là ông thua rồi!” Lúc bấy giờ, Bồ Tát duỗi tay
phải, chỉ xuống đất, nói lời chân thật rằng: “Ta vốn hành Bồ Tát đạo nơi đất
này, đủ mọi khổ hạnh khó hành, địa thần chứng biết!” Hãy nên biết chỉ đất như
thế chính là mật ấn nơi thân. Lúc bấy giờ, vô lượng địa thần từ dưới đất vọt
ra, hiện nửa người để chứng minh. Quân chúng của ma vương do vậy lui tan. Nay
A-xà-lê muốn cho đệ tử không lâu sau sẽ kế tục địa vị Như Lai, cũng dùng ấn này
để nhắc nhở địa thần. Khi đó, địa thần sanh lòng tán thán, hoan hỷ to lớn, nghĩ
như thế này: “Nay Phật tử này có thể kiến lập đại sự nhân duyên, vì sẽ
thủ hộ chúng ta, khiến cho chẳng bị tổn não, cho nên răn nhắc. Ta phải nên dùng
phương tiện thủ hộ, cũng khiến cho vị này lìa khỏi các ma nghiệp”. Do
sức của các duyên ấy, khiến cho cuộc đất này giống như kim cang. Nói ra bài kệ
A Lợi Sa[17], có tên là Tự
Nhiên Thành Tựu Chân Ngôn. Nếu lúc tác pháp, nãy nên tụng theo bản tiếng Phạn.
Nay tôi trích lục đầy đủ. [A-xà-lê] tụng [chân ngôn ấy] bảy lượt, dùng năm ngón
tay phải áp xuống đất.
“Đát-văn (nghĩa
là “ngươi”), thê vi (thiên nữ), sa cật-tỷ (thủ
hộ), bổ đa tứ (đích thân).
Dịch
thành: “Nhữ thiên thân hộ giả” (Ngài là vị trời, hãy đích thân
thủ hộ).
“Tát
ma (hết thảy) Bột-đà-nẵng (Phật), đá dĩ nạn (độ
đời, tức là có ý nghĩa “đạo sư”).
Dịch
thành: “Ư chư Phật đạo sư” (nơi các đức Phật là bậc thầy hướng
dẫn).
Chiết-rị-da (hành) na
dã (tu hành) vĩ thế sái sổ (thù thắng).
Dịch
thành: “Tu hành thù thắng hạnh”.
“Bộ-mị (tịnh
địa) Bá La Mật Đa (đến bờ kia), tố giả (đẳng).
Dịch
thành: “Tịnh địa Ba La Mật”.
“Ma-la (thiên
ma) tắc niên (quân chúng) dã tha (như) hào
cật nạn (phá).
Dịch
thành: “Như phá ma quân chúng”.
“Xá-cật-dã (Thích
Ca), tăng hệ na (sư tử) đá dĩ na (cứu thế).
Dịch
thành: “Thích Sư Tử cứu thế”.
“Đát-tha
ngân (như ta), ma-la (ma) nhã diên (hàng) cật
lật đỏa (phục).
Dịch
thành “ngã diệc hàng phục ma” (ta cũng hàng phục ma).
“Mạn-đồ-lam
lệ (Mạn-đồ-la), lý khư (vẽ) miệu ngân (ta).
Dịch
thành “ngã họa Mạn-đồ-la” (ta vẽ Mạn-đồ-la).
Bài
kệ ngụ ý: Trước hết, bảo địa thần rằng: - Thiên nữ, bà là người đích thân thủ
hộ đại địa này, đã từng cúng dường, thân cận hết thảy chư Phật đạo sư, tu hạnh
thù thắng tịnh trị các cuộc đất, viên mãn thanh tịnh các Độ (Ba La Mật), cùng các thứ công đức khác. Như trong kinh Ma Ha
Bát Nhã đã nói cặn kẽ theo từng pháp, ở đây [chỉ nói tóm gọn] là “Đẳng”. Nay
do lời kệ được dịch thành mỗi câu năm chữ, không thể ghi trọn, nhưng trong Địa
Ba La Mật cũng đã bao hàm các đức ấy.
Kế
đó, bài kệ trần thuật ý nghĩa vì sao nhắc nhở, nói lời thành thật: Như xưa kia,
lúc đức Thế Tôn tại Bồ Đề Mạn-đồ-la hàng phục quân đội của thiên ma, bà đã hiện
thân để chứng minh trong đại hội ấy. Do vậy, đức Thế Tôn được gọi là
Thích Ca Sư Tử, có thể đi một mình chẳng sợ hãi, cứu giúp, che chở thế gian!
Tôi nay cũng muốn theo gương đức Phật, tiếp nối hành Như Lai sự. Do vậy, vẽ
Mạn-đồ-la này. Tôi tuy chưa được hết thảy đều giống như Như Lai, nhưng do được
Tam Mật của đức Tỳ Lô Giá Na gia trì, cũng có thể hiện làm thân Phật, nhóm họp
đại hội trọn khắp hết thảy các Mạn-đồ-la. Vì thế, nay bà cũng nên hiện thân
chứng minh, khiến cho bọn ma quân chẳng thể ngăn trở, phá hoại.
Lại
nữa, địa thần là thiên nữ, mà nữ có nghĩa là Tam-ma-địa (Samādhi, Chánh Định), tức là
tam-muội do đức Đại Nhật Thế Tôn hộ trì tâm địa của hết thảy chúng sanh. Đức
Thế Tôn đúng như Thật Tướng, xưa kia lúc Ngài tại Bồ Đề Mạn-đồ-la hàng phục vô
minh trụ địa ma vương và trần sa đại chúng, dùng tay Bát Nhã Ba La Mật, duỗi
ngũ lực ấn xuống tâm địa của hết thảy chúng sanh; khi đó, bà dùng tam-muội, hiện thân chứng minh. Do
vậy, độ vô lượng chúng sanh, bốn loại ma quân vì thế đều lui tan. Bởi đó, hiệu
là Tịch Nghiệp Sư Tử, có thể dùng thần thông tự tại để cứu thế gian. Tôi nay
cũng muốn sửa dọn phẳng phiu tâm địa của đệ tử, vẽ Đại Bi Mạn-đồ-la, bà cũng
nên vì tôi chứng minh, khiến cho bốn lũ ma quân hàng phục. Lại còn dùng Tự Môn
để giải thích, bài A Lợi Sa này có vô lượng nghĩa, nhưng điều được đề cao tột
bậc chính là trong chữ Tha. Chữ Đát Đa (Tatha) trong tiếng Phạn nghĩa là Như.
Chữ Đa đọc âm dài, sẽ kèm theo âm A, do hết thảy các pháp vốn bất sanh. Như
trong Thật Tướng chẳng tăng, chẳng giảm, tức là dùng nghĩa này để nhắc nhở hết
thảy các địa thần.
(Kinh)
Bỉ ưng trường quỵ, thư thủ án địa, tần tụng thử kệ, dĩ đồ hương, hoa đẳng cúng
dường. Cúng dường dĩ, chân ngôn giả phục ưng quy mạng nhất thiết Như Lai, nhiên
hậu trị địa. Như kỳ thứ đệ, đương cụ chúng đức.
(經)彼應長跪,舒手按地,頻誦此偈,以塗香華等供養。供養已,真言者復應歸命一切如來,然後治地。如其次第,當具眾德。
(Kinh:
Người ấy nên quỳ thẳng, duỗi tay áp xuống đất, nhiều lượt tụng bài kệ ấy, dùng
hương bôi, hoa v.v… để cúng dường. Cúng dường xong, người tu chân ngôn lại nên
quy mạng hết thảy Như Lai, sau đấy mới tịnh hóa cõi đất. Theo đúng thứ tự đó,
sẽ trọn đủ các đức).
Khi
người ấy tụng kệ, hãy nên quỳ thẳng, hai gối đặt sát đất, dùng tay “trí huệ” (tay phải) duỗi năm ngón, áp
lòng bàn tay xuống đất rồi mới tụng bài kệ A Lợi Sa này. Cứ một lượt thì bảy
lần kết ấn, gia trì bảy lượt; đấy
gọi là Chân Ngôn và ấn tương ứng. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Khi muốn
thực hiện pháp này, trước hết dùng tam-muội-da pháp giới kim cang tự tánh để
gia trì tự thân, đều như trong pháp cúng dường đã nói. Dùng môn chữ Ra (र) để
tự tịnh tâm địa và đất nơi đạo tràng xong, trong Du Già[18] bèn trước hết khởi phong luân có hình
bán nguyệt, dùng chữ Ha (ह) để gia trì. Kế đó, khởi
thủy luân, dùng chữ Phược (Va,व) để gia trì. Kế đó, khởi
kim cang địa luân dùng chữ A (अ) để gia trì. Một mặt duyên
theo đế quán tương ứng để hiểu rõ, khéo điều phục cái tâm và hơi thở, một hơi
tụng môn chữ A liên tục chẳng gián đoạn. Tận lực tụng hết một hơi xong, lại tụng tiếp, hoặc là một hơi hay ba
hơi, cho đến khiến cho [trong tâm] có cảm giác nhận biết. Dùng phương tiện
duyên vào một nơi như thế, liền nhập tam-muội, sẽ thấy đại hội trang nghiêm bí
mật của Phật, Bồ Tát, hoặc tự thấy các lầm lỗi trong ngoài cuộc đất”.
Kinh
dạy: “Dĩ đồ hương, hoa đẳng cúng dường” (dùng hương bôi, hoa
v.v… để cúng dường), không chỉ nhắc nhở mà thôi, lại còn dùng các thứ hương,
hoa, đèn sáng v.v… để cúng dường mười chư Phật và địa thần. Nhưng ở đây, “địa” có
ba loại, tức là dùng môn chữ Ra để tịnh trừ tâm địa của chính mình, tâm địa của
đệ tử, và đất nơi đạo tràng, đều trì môn chữ A để khiến cho [các “địa” ấy đều] trở thành kim cang.
Nếu
xét theo ý nghĩa bí mật để giải thích “cúng dường” thì cũng
giống như thế. Nếu A-xà-lê dùng các thứ công đức thuộc Bồ Đề tâm thanh tịnh để
hồi hướng trí ấn Nhất Thiết Trí, chính là cúng dường hết thảy chư Phật và người
trì địa trong pháp giới của chính mình. Dùng công đức ấy để hồi thí đệ tử, giúp
tạo thành nhân duyên thành Phật cho người ấy, tức là cúng dường hết thảy chư
Phật và người trì địa trong pháp giới thuộc cái tâm của đệ tử. Nếu dùng đó để
trang nghiêm đạo tràng kim cang này, tức là dùng pháp để cúng dường hết thảy
chư Phật trong mười phương thế giới. Cúng dường xong, lại nên quy mạng hết thảy
Như Lai. Phỏng theo đó, sẽ có thể hiểu [các điều khác].
Kinh
dạy: “Nhiên hậu trị địa. Như kỳ thứ đệ, đương cụ chúng đức” (sau
đấy tịnh hóa cõi đất. Theo đúng thứ tự ấy, sẽ trọn đủ các đức), ý nói: Phàm
muốn tạo Mạn-đồ-la, trước hết cần phải thực hiện pháp như thế (cúng dường, nhắc
nhở địa thần) rồi mới đào đất, chọn lọc loại bỏ [uế vật], cũng bao gồm ba loại
đất (tâm địa của chính mình, tâm địa của đệ tử, và đất nơi đạo tràng). Do hai
cách giải thích nông cạn và bí mật, cho đến thực hiện đầy đủ các chi phần như
trong kinh đã nói; vì thế nói là “cụ chư chúng đức” (trọn đủ
các đức).
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đầu diện lễ Thế Tôn túc, nhi thuyết kệ
ngôn: - Phật
pháp ly chư tướng, pháp trụ ư pháp vị, sở thuyết vô thí loại, vô tướng, vô vi
tác. Hà cố đại tinh tấn, nhi thuyết thử hữu tướng, cập dữ Chân Ngôn hạnh, bất
thuận pháp nhiên đạo?
(經)爾時執金剛祕密主頭面禮世尊足,而說偈言:佛法離諸相,法住於法位,所說無譬類,無相無為作。何故大精進,而說此有相,及與真言行,不順法然道?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đầu mặt lễ dưới chân đức Thế Tôn mà nói
kệ rằng: - Phật
pháp lìa các tướng, pháp trụ trong pháp vị, diễn nói chẳng sánh ví, vô tướng,
chẳng tạo tác. Sao đấng Đại Tinh Tấn, nói pháp hữu tướng này, cùng với hạnh
Chân Ngôn, chẳng thuận đạo pháp ấy?)
Khi
đó, ngài Kim Cang Thủ vì muốn nêu tỏ ý chỉ sâu kín, bí mật của Như Lai, hòng
đoạn trừ tâm nghi hoặc cho đệ tử trong vị lai, đầu mặt áp sát đất, lễ dưới chân
đức Thế Tôn, bèn nói kệ rằng: “Phật pháp ly chư tướng…. Bất thuận pháp
nhiên đạo” (Phật pháp lìa các tướng… Chẳng thuận theo đạo pháp vốn sẵn
như thế). Ý nói: Con đích thân nghe từ đức Phật, Thật Tướng của các pháp xa lìa
hết thảy các tướng, chỗ trụ của Phật pháp là trụ trong pháp vị. Dẫu Như Lai
xuất thế hay chẳng xuất thế, [tánh của các pháp] thường tự tịch diệt chẳng thể
nghĩ bàn. Chẳng thể do suy lường, phân biệt mà thấu hiểu được, cũng chẳng do
nhân lượng, thí dụ mà có thể biểu thị được! Như pháp tướng thường như thế, chư
Phật còn chẳng thể tạo tác, huống hồ tướng hữu vi mà có thể tụ tập, kết thành
ư? Cớ sao đấng Thiên Trung Thiên là bậc đại tinh tấn nay lại nói các sự tướng
hữu vi như chọn đất, tạo đàn tràng v.v… và thứ tự của hành pháp Chân Ngôn, dạy
người tu học chuẩn bị các thứ hương, hoa, vật cúng, miệng [tụng niệm] thuận
theo giác quán[19] và ngôn thuyết, thân thì học
oai nghi thủ ấn, tâm duyên theo màu sắc, hình mạo, và phương vị của Bổn Tôn? Đã
là hữu vi, hữu tướng, há có thể phù hợp đạo vô vi vô tướng vốn sẵn như thế ư?
Kính mong đức Thế Tôn khai phát chỉ thú sâu xa ấy, trừ vọng chấp và tình kiến
phỉ báng của thế gian.
(Kinh) Nhĩ
thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na Phật cáo Chấp Kim Cang Thủ: - Thiện thính pháp
chi tướng, pháp ly ư phân biệt, cập nhất thiết vọng tưởng. Nhược tịnh trừ vọng
tưởng, tâm tư chư khởi tác, ngã thành Tối Chánh Giác, cứu cánh như hư không.
Phàm ngu sở bất tri, tà vọng chấp cảnh giới, thời, phương, tướng mạo đẳng, lạc
dục vô minh phú. Độ thoát bỉ đẳng cố, tùy thuận phương tiện
thuyết, nhi thật vô thời phương, vô tác, vô tạo giả. Bỉ nhất thiết chư pháp,
duy trụ ư Thật Tướng. Phục thứ Bí Mật Chủ! Ư đương lai thế thời, liệt huệ chư
chúng sanh, dĩ si ái tự tế, duy y ư hữu trước, hằng nhạo chư đoạn thường, thời
phương sở tạo nghiệp, thiện, bất thiện chư tướng, manh minh nhạo cầu quả, bất
tri giải thử đạo. Vị độ bỉ đẳng cố, tùy thuận thuyết thị pháp.
(經)爾時薄伽梵毘盧遮那佛,告執金剛手:善聽法之相,法離於分別,及一切妄想。若淨除妄想,心思諸起作,我成最正覺,究竟如虛空。凡愚所不知,邪妄執境界,時方相貌等,樂欲無明覆;度脫彼等故,隨順方便說,而實無時方,無作無造者,彼一切諸法,唯住於實相。復次祕密主!於當來世時,劣慧諸眾生,以癡愛自蔽,唯依於有著,恒樂諸斷常,時方所造業,善不善諸相,盲冥樂求果,不知解此道;為度彼等故,隨順說是法。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già
Phạm Tỳ Lô Giá Na Phật bảo Chấp Kim Cang Thủ: - Hãy khéo nghe pháp tướng. Pháp
lìa các phân biệt, và hết thảy vọng tưởng. Nếu trừ sạch vọng tưởng, các tâm tư
động niệm, ta thành Tối Chánh Giác, rốt ráo như hư không. Kẻ phàm ngu chẳng
biết, tà vọng chấp cảnh giới, thời, phương, tướng mạo thảy, lạc dục, vô minh
che. Vì độ thoát bọn họ, tùy thuận phương tiện nói. Thật chẳng có thời phương,
vô tác, không người tạo. Hết thảy các pháp đó, chỉ trụ trong Thật Tướng. Lại
này Bí Mật Chủ! Ở trong đời tương lai, chúng sanh trí huệ kém, do si ái tự lấp,
chỉ nương vào chấp Có, thường ưa thích Đoạn, Thường, thời, phương mà tạo nghiệp, các
tướng thiện, bất thiện, mù tối, chuộng cầu quả, chẳng biết hiểu đạo này. Vì độ
thoát bọn họ, tùy thuận nói pháp này).
Từ “nhĩ
thời, Bạc Già Phạm” (lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm) trở đi, đức Thế
Tôn dùng kệ đáp. Trước hết, Ngài nói: “Thiện thính pháp chi tướng” (hãy
khéo lắng nghe tướng của các pháp). Do ý nghĩa “Thật Tướng của các
pháp” quá sâu, khó thấy, cho nên [đức Phật] răn hãy khéo nghe. Pháp
thường vô tánh, sanh từ các duyên, tức là tướng của tám tâm vượt ngoài các hý
luận. Ngươi lại muốn cầu pháp vô tướng vô vi từ chỗ nào? Vì thế, câu kế đó
nói: “Pháp ly ư phân biệt, cập nhất thiết vọng tưởng” (pháp
lìa khỏi phân biệt, và hết thảy vọng tưởng). Nếu biết rõ các pháp vốn là vô
tướng như thế, sẽ chiếu kiến Thật Tướng của cái tâm, từ bổn sơ tới nay, thường
tự chẳng sanh. Lúc bấy giờ, hết thảy thân, khẩu, ý nghiệp đều như hư không
chẳng thể cùng tận. Vì thế nói: “Ngã thành Tối Chánh Giác, cứu cánh như
hư không” (Ta thành Tối Chánh Giác, rốt ráo như hư không). Nhưng hết
thảy phàm phu giống như trẻ nít ngu muội, do chẳng biết như thật, cứ tà vạy,
điên đảo, hư vọng chấp trước đủ loại cảnh giới, tức là “thời, phương,
chư tướng mạo” (thời gian, phương vị, các tướng mạo) v.v… “Lạc
dục vô minh phú” (bị che lấp bởi lạc dục vô minh), thường bị nước ái
tưới tắm, bị vô minh che đậy. Nếu ta xả phương tiện, trực tiếp nói với chúng
sanh pháp tự chứng như thế, sao họ có thể ngộ giải để tiến nhập cho được? Vì
thế, kế đó, kệ nói về ý nghĩa
lập giáo, bảo: Vì độ họ mà tùy thuận nói phương tiện. Ý Phật là do pháp tướng
quá sâu, chẳng thể tuyên nói trực tiếp, nên ta dùng sức phương tiện, gởi gắm
nơi các chi phần trọn đủ các duyên của Mạn-đồ-la, khiến cho tâm kẻ sơ nghiệp có
chỗ nương cậy, tu tập chẳng luống uổng. Tức là do vậy mà được Phật gia trì,
đồng thời quan sát mười câu duyên sanh, có thể chẳng động Thật Tướng mà du hý
thần thông, quán trọn khắp hết thảy các thiện tri thức, trang nghiêm hết thảy
các cõi Phật, chẳng muốn khiến cho các hành nhân vứt bỏ các hạnh, trụ trong vô
tướng, lại chẳng chấp trước các hạnh, trụ vào hữu tướng. Vì thế nói “thời,
phương, sở tác nghiệp” (thời gian, phương vị, nghiệp đã tạo), “nhi
thật vô thời, phương, vô tác, vô tạo giả, bỉ nhất thiết chư pháp, duy trụ ư
Thật Tướng” (nhưng thật ra chẳng có thời gian, nơi chốn, vô tác, không
có người tạo ra. Hết thảy các pháp đó chỉ trụ trong Thật Tướng). Nếu hết thảy
các pháp hữu vi thảy đều trụ trong Thật Tướng, há có nên như kẻ si kia muốn
trốn tránh hư không, hoặc muốn tham đắm hư không ư?
Lại
nữa, đối với chuyện này, [Thiện Vô Úy] A-xà-lê lại
nói rộng về thí dụ ba cỗ xe trong kinh Pháp Hoa: Như các con của ông trưởng
tử thơ ấu,
vô tri, tuy cha đã dùng đủ
mọi lời lẽ tốt lành để khuyên răn con thoát khỏi nạn lửa, trọn chẳng thể được. Khi đó,
trưởng giả quán thấy thâm tâm con chỉ lo chơi đùa, bèn dùng phương tiện mà bảo
như thế này: “Nay ở ngoài cửa, có ba loại xe quý báu. Các con nên ra lấy, sẽ tự
vui thú”. Khi đó, các con nghe nói tới vui chơi, ứng hợp ý nguyện của chúng,
tâm tình đều sốt sắng, tranh nhau thoát
ra, cho tới khi đều cùng được cỗ xe báu trang nghiêm bậc nhất, tức chẳng phải
là điều tâm chúng nó trrước đó vốn muốn mong cầu.
Pháp
môn Mạn-đồ-la này cũng giống như thế. Như Lai dùng nhân duyên sự tướng thế gian
để sánh ví pháp giới chẳng thể nghĩ bàn, hòng rủ lòng tiếp độ các căn cơ. Nếu
có thể nắm vững, sẽ có thể tin hiểu trọn khắp, dũng mãnh tấn tu, và do được Tam
Mật gia bị, khi tự thấy tâm, hiểu
đạo, sẽ biết các thứ danh tướng, ngôn từ đều là mật hiệu của Như Lai, và cũng
chẳng phải là điều mong cầu thường tình. Như nói “ba tháng trì tụng” tức
là ba lượt chuyển phương tiện trong tánh thanh tịnh viên minh, há có nên hiểu
là chỉ [trì
tụng trong] chín mươi ngày ư? Lại như Đông phương Bảo Tràng Phật, tức là ý
nghĩa “sơ phát tịnh Bồ Đề tâm”, há chỉ nên hiểu là “bốn phương” ư? Cứ theo lệ ấy mà suy,
đối với các pháp môn khác, sẽ đều có thể hiểu ý. Vì thế nói “nhi thật
vô thời phương…. Duy trụ ư Thật Tướng” (nhưng thật sự chẳng có thời
gian và phương vị… Chỉ trụ trong Thật Tướng).
Lại
nữa, đức Thế Tôn đại bi vô hạn, thương xót chúng sanh trong đời vị lai do
chướng nặng, căn độn, chẳng thể nhanh chóng nhập pháp giới. Vì thế, trong tạng
sâu thẳm, bí mật ấy, dùng tổng trì xoay chuyển và phương tiện nông cạn, sơ lược, để tạo lập sự tư duy tu tập nơi sự
tướng, cũng nhằm thành tựu, khiến cho công tu tập Tất Địa thế gian chẳng luống
uổng, Tam Mật ngầm giúp để trọn thành Phật quả. Vì thế, kế đó, kệ nói: “Phục
thứ Bí Mật Chủ! Ư đương lai thế thời, liệt huệ chư chúng sanh, dĩ si ái tự tế,
duy y ư hữu tướng, hằng nhạo ư đoạn thường, thời phương, sở tác nghiệp, thiện
bất thiện chư tướng, manh minh nhạo cầu quả, bất tri giải thử đạo. Vị độ bỉ
đẳng cố, tùy thuận phương tiện thuyết” (Lại này, Bí Mật Chủ! Ở trong
đời tương lai, các chúng sanh huệ kém, do si ái tự lấp, chỉ nương vào tướng Có,
luôn ưa chuộng đoạn thường, thời, phương, nghiệp tạo tác, các tướng thiện, bất
thiện, mù quáng thích cầu quả, chẳng hiểu biết đạo này. Vì độ thoát bọn họ, tùy
thuận phương tiện nói). Vì thế, người truyền pháp hãy nên khéo biết căn duyên,
lại biết giới hạn của pháp môn, đúng theo bệnh mà cho thuốc, chớ sai căn cơ. Nếu đối
với kẻ chấp tướng mà lập tức nói nghĩa Không rất sâu, ắt sẽ khiến cho họ sợ
hãi, nghi hoặc, càng thêm chẳng tin. Nếu là bậc lợi căn, trí sâu, mà vội vàng
trao cho pháp môn nông cạn, sơ lược, ắt họ sẽ cho là [cách tu tập hữu tướng]
chẳng phù hợp chánh đạo vô vi, bèn sanh lòng khinh mạn. Đã vô ích đối với kẻ
đó, lại còn tự phạm tam-muội-da! Vì thế, trước hết nên trụ trong Du Già để quán
nhân duyên của người ấy từ đầu đến đuôi. Đã khéo biết rõ rồi, hãy nên quán ý
nghĩa “thực
hiện Quyền nhằm hiển lộ Thật” trong đoạn vấn đáp này, nhập vào
trong hết thảy các phương tiện môn để truyền dạy, sẽ có thể tạo nhiều lợi ích.
Do vậy, chẳng nẩy sanh chướng nạn!
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Như thị sở thuyết xứ sở trung, tùy tại nhất địa, trị linh kiên
cố, thủ vị chí địa cù-ma-di, cập cù-mô-đát-la, hòa hợp đồ chi. Thứ dĩ
hương thủy chân ngôn sái tịnh.
(經)祕密主!如是所說處所中,隨在一地治令堅固,取未至地瞿摩夷及瞿摸怛羅和合塗之。次以香水真言灑淨。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Trong các chỗ như đã nói, tùy chọn một cuộc đất, tịnh trị cho kiên
cố, lấy cù-ma-di và cù-mô-đát-la chưa rơi xuống đất, hòa hợp để bôi lên. Kế đó,
dùng hương thủy chân ngôn để sái tịnh).
Theo
đúng lời dạy, hễ tạo Mạn-đồ-la, cần phải hoàn tất trong vòng bảy ngày. Trong
ngày đầu tiên, A-xà-lê nên trụ trong tự tánh của Đại Nhật Như Lai; sau đấy mới
nhắc nhở địa thần, dùng phương tiện để trang nghiêm thân thể, đều theo đúng các
điều đã nói trong phần Thứ Tự Cúng Dường. Đã nhắc nhở xong, liền dùng Bất Động
Tôn chân ngôn (chân ngôn của
Bất Động Minh Vương) để gia hộ; sau đấy mới đào đất, đúng
như pháp mà chọn lựa, sửa sang [cuộc đất]. Người ấy nên trước hết đào ở trung
tâm [cuộc đất ấy] sâu xuống chừng một khủy tay, chọn lựa [loại bỏ vật tạp
uế và trùng trong đất] xong, lấp lại. Nếu hố lấp tràn đầy còn dư đất ra thì là cuộc đất
bậc thượng, giống như cũ là bậc trung, lấp chẳng đầy là cuộc đất bậc hạ. Theo
thứ tự như thế, trừ khử các khuyết
điểm xong,
dùng đất đào lên đó đã được tịnh trị cặn kẽ xong lấp lại, dùng các chất dịch
của bò để tưới ướt, đắp cho chắc chắn, bằng phẳng như lòng bàn tay. Kế đó, dùng
cù-ma-di (gomatī, gomaya) và
cù-mô-đát-la (gomūtra) hòa hợp để tô
trát. Nếu giải thích theo lối nông cạn, sơ lược thì đó là dùng phân và nước
tiểu bò, do thuận theo phong tục địa phương, coi các thứ đó là thanh tịnh.
Giải
thích theo lối bí mật, Cù nghĩa là “hành”. Do nhập môn chữ A,
tức là “các
pháp vô hành”. Ma
nghĩa là Ta, Di có nghĩa là Thừa. Vì sao các pháp vô hành? Do trong hết thảy
các pháp, chẳng thể đạt được ngã. Nếu chẳng có ngã, sẽ chẳng có pháp để nương
vào và người nương vào, bèn gọi là Đại Thừa. Cù-mô có nghĩa giống như cách giải
thích trên đây. Đát-la nghĩa là “như như, lìa trần cấu”, tức
là Thật Tướng của cái tâm. Nếu hành giả có thể tịnh trị tâm địa như thế, sẽ có
thể rốt ráo thanh tịnh, lìa các chướng ngại. Đối với cuộc đất đã được chọn
lọc, sửa sang phẳng phiu xong, biết phương vị và giới hạn, liền đào ở trung tâm
Mạn-đồ-la sâu chừng một khủy tay, dùng chân ngôn Thành Biện Chư Sự để gia trì
năm thứ báu[20], ngũ cốc[21], năm món thuốc[22], xếp đặt tại đó, trừ khử các thứ
cấu nhơ v.v… đều như trong Pháp Cúng Dường đã nói.
Nếu
giải thích sâu xa, bí mật, thì
tức là an lập báu
ngũ trí trong Bồ Đề tâm, có thể dấy lên năm thứ mầm thiện, diệt trừ năm thứ lỗi
lầm. Vì thế nói “ngũ cốc, ngũ dược”. Xếp đặt như thế xong, lại
còn tịnh trị, tô trát cho tột bậc bằng phẳng. Hãy nên lấy cái bình sẽ dùng để
quán đảnh, chứa nước sạch, đừng để đầy tràn, cắm các loại hoa quả, trong đó đặt
năm thứ báu, ngũ cốc, và năm loại thuốc, đặt ở chỗ chôn vật báu. Từ ngày thứ ba
kể từ sau khi đặt bình, hãy nên hằng ngày ba thời tụng Biện Sự chân ngôn một
trăm lẻ tám lượt để gia trì cái bình ấy; sau đấy mới làm các sự nghiệp (tác
pháp). Tới chiều ngày thứ tư, dùng Hương Thủy chân ngôn để gia trì nước thơm,
hoặc tụng một trăm lẻ tám lượt cho đến một ngàn lượt. Sau đấy mới sái tịnh.
(Kinh)
Tức thuyết chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a bát ra để tam mê,
già già na tam mê, tam ma đa nỗ yết đế, bát ra cật lật để vi thâu đệ, đạt ma đà đổ vi thú đạt
nễ, sa ha.
(經)即說真言曰。南麼三曼多勃馱喃。阿鉢囉底三迷。伽伽那三迷。三麼多努揭帝。鉢囉吃㗚底微輸睇。達摩馱睹微戌達儞。莎訶。
(Kinh:
Liền nói chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a bát ra để tam mê,
già già na tam mê, tam ma đa nỗ yết đế, bát ra cật lật để vi thâu đệ, đạt ma đà đổ vi thú đạt
nễ, sa ha).
Câu
đầu tiên là quy mạng trọn khắp chư Phật. Như tam thân của đức Tỳ Lô Giá Na trọn
khắp hết thảy mọi nơi, mười phương ba đời hết thảy Như Lai cũng lại như thế.
Nay đều dùng cái tâm trọn khắp để quy mạng hết thảy; sau đấy mới nói chân ngôn
này, muốn khiến cho các đức Thế Tôn chẳng vượt bổn thệ, cùng nhau gia trì để
chứng minh. Hết thảy các chân ngôn trong phần sau đều theo lệ này, chẳng giải
thích cặn kẽ nữa. Trong câu thứ hai, dùng môn chữ A tối sơ làm cái Thể của chân
ngôn, được gọi là “chủng tử tự” (chữ chủng tử), các tự môn
khác đều nhằm trang nghiêm chữ này, do tự môn này chính là cội gốc của Bồ Đề
tâm. Nay kiến tạo Đại Bi Tạng Sanh Mạn-đồ-la Vương: Trước hết, dùng nước thơm
để sái tịnh, đều vì tịnh trị tâm địa như thế, khiến cho nó lìa các cấu uế. Nếu
luận theo ngoại cảnh, thì cũng là kim cang tâm địa được trì. Vì thế, các chữ
khác đều trở thành tự môn này. Chữ A có nghĩa là “hết thảy các pháp vốn
bất sanh”. Kế đó nói chữ Ba La (được phiên âm thành Bát La trong Chân
Ngôn) thì Ba là Đệ Nhất Nghĩa Đế, La là trần. Do hết thảy các chữ đều vào trong
môn chữ A, tức là “trần cấu vốn chẳng sanh”. Trần cấu vốn chẳng
sanh tức là Đệ Nhất Nghĩa Đế, Đệ Nhất Nghĩa Đế chính là nói tới Bồ Đề tâm thanh
tịnh vậy. Kế đó [chân ngôn] có chữ Để, xét theo chánh thể thì là Đa tự môn, do
kèm theo âm thanh tam-muội nên chuyển thành chữ Để. “Để” có
nghĩa là tâm, cũng có nghĩa là Như Như. Như Như trong tự tâm là tướng như thật,
tức là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Bồ Đề tâm thanh tịnh trong hết thảy các pháp đều
chẳng đắm nhiễm, được gọi là Liên Hoa tam-muội. Người trụ trong tam-muội ấy,
thậm chí tướng Không của các pháp cũng chẳng thể được. Đó gọi là “Đại Không
của chư Phật”. Kế đó, nói đến Sa tự và Ma tự môn. Do Định và Huệ cân
bằng, trọn đủ âm thanh tam-muội, nên nói là Tam Mê. Ở đây, chỉ xét theo tự môn
để giải thích. Như trong các kinh luận Đại Thừa, xét theo Tứ Bất Sanh của Tứ
Tất Đàn, dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ để rộng diễn môn chữ A, bèn có vô lượng
câu nghĩa. Lại do trong hết thảy các ngôn ngữ đều kèm theo âm A, mỗi một tự môn
đều có trọn đủ hết thảy các tự môn. Nếu hiểu ý, sẽ tự tại xoay chuyển mà nói; những điều sau đó, chẳng thể luận
định đầy đủ được!
Lại
nữa, trong chân ngôn có tự nghĩa và cú nghĩa. Tự nghĩa thì như trong phần trên
đã nói. Nếu là cú nghĩa thì “a bát la để tam mê” có nghĩa là
“chẳng sánh bằng, chẳng thể so sánh được”, ý nói tâm địa Mạn-đồ-la vương này
sanh ra hết thảy các ngôn ngữ, thí dụ, cho đến chẳng có một pháp nào có thể
sánh bằng. Cho nên nói là “vô đẳng”. Vì sao như thế? Do trọn
đủ các nghĩa như đã nói trong tự môn trên đây.
Câu
thứ ba có nghĩa là “như hư không”, ý nói tâm địa rốt ráo thanh
tịnh, chẳng phân biệt, chẳng có ngằn mé, bằng với hư không. Lại nữa, Già tự môn
có nghĩa là “hành”. Đó là Đại Không, có ý nghĩa “tự
tại nơi pháp”. Do chữ Già nhập vào môn chữ A, hết thảy các pháp từ ban
sơ cho tới nay đều vô sở hành. Như Lai từ trong các pháp ấy mà đạt đến Thật Tế.
Lại còn là vô sở hành, do chẳng hành, nên trụ trong Đại Không, tự tại nơi pháp,
tức là do tâm địa của ta rốt ráo bằng với Đại Không. Hãy nên biết tâm địa của
đệ tử và đất nơi đạo tràng cũng lại giống như thế. Vì thế nói là “đẳng
hư không” (bằng với hư không).
Câu
thứ tư có nghĩa là “đẳng tùy” (bình đẳng thuận theo); do đất
Kim Cang bằng với hư không, tức là có thể bình đẳng trọn khắp hết thảy chúng
sanh giới, hiện trọn khắp hết thảy các thân theo từng loài, cho nên có thể kham
vẽ Mạn-đồ-la. Lại nữa, Sa nghĩa là Lậu, Ma nghĩa là Ta. Các chúng sanh giới ấy
vốn chẳng sanh nên thảy đều như như. Do vậy, pháp giới chúng sanh rốt ráo bình
đẳng. “Nỗ” là Đại Không tam-muội. Như Lai trụ trong Đại Không
tam-muội này, chẳng hành, chẳng
đến, mà cũng chẳng đến, đi, nhưng có thể đúng như tâm lượng để tùy duyên ứng hiện. Vì thế nói
là “đẳng tùy”.
Câu
thứ năm nghĩa là “bản tánh thanh tịnh”, vẫn là cách diễn giải
Bồ Đề tâm thanh tịnh thuộc môn chữ A, và có nghĩa là “nước thơm”. Như Lai dùng hương
pháp giới Đẳng Chí[23] hòa hợp với nước đại bi
tam-muội, có thể rưới trọn khắp tâm địa của hết thảy chúng sanh, trừ khử cấu
uế. Vì sao như thế? Do bổn tánh thanh tịnh. Như tánh của nước vốn tịnh, nên có
thể trừ sạch các
cấu uế. Nước thơm của Như Lai cũng thế, có thể tịnh hóa cái tâm của hết thảy
chúng sanh.
Kế
đó, nói về ý nghĩa của
câu thứ sáu, tức là “tịnh trừ pháp giới”. Giống như nước thơm
rưới đất trừ ô uế. Như Lai cũng thế, dùng giới hương tánh tịnh hòa hợp với bi
thủy tánh tịnh, rưới trọn khắp tâm địa tánh tịnh của pháp giới chúng sanh,
khiến cho hết thảy hý luận đều trừ sạch. Cũng nên dùng các tự môn để diễn rộng,
do hết thảy các đức Như Lai đều cùng nói đại thệ như thế, gọi là Chân Ngôn. Lại
nữa, pháp giới chính là chúng sanh giới, chúng sanh giới chính là tâm giới. Tâm
giới chính là bản tánh thanh tịnh, bản tánh thanh tịnh tức là tới trọn khắp hết
thảy, bằng với hư không. “Bằng với hư không” tức là môn chữ A
không gì sánh bằng. Như hư không vô biên, hãy nên biết môn chữ A cũng là vô
biên, vô nhiễm, chẳng biến đổi, bất động. Hãy nên biết môn chữ A cũng là vô
nhiễm, chẳng biến đổi, bất động. Như hư không lìa hết thảy các tướng mà chứa
đựng muôn hình tượng, lìa hết thảy tạo tác, mà sự nghiệp thế gian bởi đó mà
được thành tựu. Môn chữ A cũng lại giống như thế, vô tướng, vô tác, mà trọn đủ
vô tận trang nghiêm, thành tựu nghiệp phổ môn chẳng thể nghĩ bàn. Như thế thì
hãy nên dùng các loại môn
tự tại để nói; nhưng lại có vô lượng vô biên pháp chưa từng có, hư không chẳng
thể sánh ví được! Vì vậy, chân ngôn và chủng tử trong môn chữ A vượt ngoài các
thí dụ tương cận.
Câu
cuối cùng là Sa Ha, có nghĩa là “cảnh tỉnh”. Do hết thảy các
đức Như Lai vốn khi hành Bồ Tát đạo, đã cùng thấy nghĩa như thế, sẽ nhất định
sư tử hống, thốt ra lời thành thật: “Ta phải nên dùng môn chữ A này để tịnh hóa
trọn khắp vô tận chúng sanh giới. Nếu thệ nguyện này của ta chẳng dối, hễ có
hết thảy chúng sanh tụng lời thành thật của ta, chẳng khuyết thiếu phép tắc, ắt
sẽ đúng như sở nguyện mà đều được thỏa mãn trọn vẹn. Ta nay do tùy thuận tam-muội-da
giáo của Như Lai mà nói
chân ngôn này, chỉ nguyện chẳng trái nghịch bổn thệ, khiến cho đạo tràng của ta
trang nghiêm, thanh tịnh trọn đủ”. Vì thế, nói là Sa Ha. Chữ Sa Ha trong các
chân ngôn thuộc phần sau có ý nghĩa tương đồng.
Phàm
là khi [hiến cúng] nội ngũ bảo, hãy nên như trước kính lễ mười phương chư Phật,
mà thỉnh bạch rằng: “Ngày mai con sẽ tác pháp cầu thỉnh”. Từ ngày
thứ ba hôm ấy trở đi, sẽ lần lượt lượng định [kích thước] và phương vị của
Mạn-đồ-la lớn hay nhỏ, tức là to bốn khủy tay hay mười hai khủy tay. Cho đến vị
trí, nơi chốn của các vị thánh và chư thiên, đều dùng bạch đàn để đánh dấu ghi
nhớ. Nếu A-xà-lê chẳng thể nhớ trọn hết, thì hoặc là vẽ hình tượng hoặc viết
chữ để ghi nhớ, khiến cho mỗi mỗi phân minh. Dùng nước thơm sái tịnh xong, hãy
nên dùng bạch đàn để tô trát cái đàn tròn, to chừng bằng mười hai ngón tay.
Thoạt
đầu, đặt vị trí của Đại Nhật Thế Tôn ở Trung Đài Thai Tạng. Kế đó, ở phương
Đông là chỗ của bậc Đại Cần Dũng, đặt vị trí của hết thảy Như Lai. Phương Đông
Nam là chỗ của Chân Đà Ma Ni (Như Ý Bảo Châu), đặt tọa vị của hết thảy các Bồ
Tát. Kế đến, phương Đông Bắc là chỗ của Hư Không Nhãn, đặt tọa vị của Phật mẫu.
Kế đó, bên phải của đức Đại Nhật đặt tọa vị của ngài Liên Hoa Thủ. Kế đó, bên
trái của đức Đại Nhật, đặt tọa vị của ngài Kim Cang Thủ. Kế đó, ở góc Tây Nam,
đặt tọa vị của thánh giả Bất Động, góc Tây Bắc đặt tọa vị của ngài Hàng Tam
Thế. Phía chánh Tây là chỗ để trổ cửa, tức là nơi A-xà-lê trụ, là chỗ để tu
cúng dường Du Già.
(Kinh)
Hành giả thứ ư trung, định ý quán Đại Nhật, xử bạch liên hoa tòa, phát kế dĩ vi
quan, phóng chủng chủng sắc quang, thông thân tất châu biến. Phục đương ư Chánh
Thọ, thứ tưởng tứ phương Phật. Đông phương hiệu Bảo Tràng, thân sắc như nhật
huy. Nam phương Đại Cần Dũng, Biến Giác Hoa Khai Phu, kim sắc phóng quang minh,
tam-muội ly chư cấu. Bắc phương Bất Động Phật, ly não thanh lương định. Tây
phương Nhân Thắng giả, thị danh Vô Lượng Thọ. Trì tụng giả tư duy, nhi trụ ư
Phật thất, đương thọ trì thị địa, dĩ Bất Động đại danh, hoặc dụng Hàng Tam Thế,
nhất thiết lợi thành tựu. Bạch đàn dĩ đồ họa, viên diệu Mạn-đồ-la. Sơ đệ nhất ngã thân,
đệ nhị chư cứu thế, đệ tam đồng bỉ đẳng, Phật mẫu Hư Không Nhãn, đệ tứ Liên Hoa
Thủ, đệ ngũ Chấp Kim Cang, đệ lục Bất Động Tôn, tưởng niệm trí kỳ hạ. Phụng đồ
hương, hoa đẳng, tư niệm chư Như Lai, chí thành phát ân trọng, diễn thuyết như
thị kệ: “Chư Phật từ bi giả, tồn niệm ngã đẳng
cố, minh nhật thọ trì địa, tịnh Phật tử đương giáng”.
(經)行者次於中,定意觀大日,處白蓮華座,髮髻以為冠,放種種色光,通身悉周遍。復當於正受,次想四方佛,東方號寶幢,身色如日暉;南方大勤勇,遍覺華開敷,金色放光明,三昧離諸垢;北方不動佛,離惱清涼定;西方仁勝者,是名無量壽。持誦者思惟,而住於佛室,當受持是地,以不動大名,或用降三世,一切利成就。白檀以塗畫,圓妙漫荼羅,初第一我身,第二諸救世,第三同彼等,佛母虛空眼,第四蓮華手,第五執金剛,第六不動尊,想念置其下。奉塗香華等,思念諸如來,至誠發殷重,演說如是偈:諸佛慈悲者,存念我等故,明日受持地,并佛子當降。
(Kinh: Kế, hành giả trong ấy, định ý quán Đại Nhật,
ngự trên tòa sen trắng, búi tóc dùng làm mão, phóng quang đủ màu sắc, trọn khắp
toàn bộ thân. Lại nên trong Chánh Thọ, kế tưởng bốn phương Phật. Phương Đông
hiệu Bảo Tràng, thân sắc vầng nhật rạng. Đại Cần Dũng phương Nam: Biến Giác Hoa
Khai Phu, sắc vàng, phóng quang minh, tam-muội lìa các cấu. Phương Bắc Bất Động
Phật, lìa não, định trong mát. Bậc Nhân Thắng phương Tây, tên là Vô Lượng Thọ.
Người trì tụng tư duy, bèn trụ trong Phật thất, nên thọ trì đất này, dùng Bất
Động đại danh, hoặc dùng Hàng Tam Thế, hết thảy lợi thành tựu. Dùng bạch
đàn tô vẽ,
Mạn-đồ-la viên diệu. Thứ nhất là thân ta, thứ hai các cứu thế. Thứ ba giống như
họ. Phật mẫu Hư Không Nhãn. Thứ tư Liên Hoa Thủ. Thứ năm Chấp Kim Cang. Thứ sáu
Bất Động Tôn, tưởng niệm đặt phía dưới. Dâng hương bôi, hoa thảy, nghĩ nhớ các
Như Lai. Chí thành tâm trân trọng, diễn nói kệ thế này: “Chư Phật đấng từ bi,
do nghĩ tưởng chúng con, ngày mai thọ trì đất, mong Phật tử sẽ giáng”).
Kinh
nói: “Sơ đệ nhất ngã thân” (đầu tiên là thân ta), tức là tọa
vị của Tỳ Lô Giá Na, đem năm vị Phật cùng xếp vào một đàn tràng. “Đệ
nhị chư cứu thế” (thứ hai là các đấng cứu thế), tức là chư Phật, Bồ
Tát, cũng chia thành hai tọa vị. “Đệ tam bỉ đồng đẳng” (thứ ba
là những vị ngang bằng [với Phật, Bồ Tát]) tức là Phật mẫu[24]. Như Lai được gọi là Vô Đẳng, mà
Bát Nhã Ba La Mật là Vô Đẳng Đẳng, nên nói là “bỉ đồng đẳng” (cùng
ngang hàng với các vị ấy, tức ngang hàng với các vị Phật, Bồ Tát). Thứ tư là
Liên Hoa Thủ (Padmapāṇi)[25], thứ năm là Kim Cang Bộ
Chủ, thứ sáu là Bất Động Tôn, như vậy thì Hàng Tam Thế cũng có thể biết. Những vị này
đều là Thành Biện Chư Sự Trì Minh. Hãy nên biết: Nêu ra sáu vị ấy, sẽ thống
nhiếp hết thảy các vị tôn thánh. Làm như thế xong, hãy nên sắp đặt hương, hoa,
vật cúng dường giống như nghi thức trong phần nói về Thứ Tự Cúng Dường.
Sau
đấy mới quán cung điện bảo vương trên đài hoa sen báu. Trong đó, trải tòa, đặt
trên tòa là một đài sen trắng. Dùng môn chữ A chuyển thành thân Đại Nhật Như
Lai, sắc vàng tía Diêm
Phù Đàn được giồi mài sáng
bóng. Ngài có
hình tượng như Bồ Tát, búi tóc trên đỉnh đầu giống như cái mão. Toàn thân tỏa
ra đủ loại ánh sáng nhiều màu, đắp y bằng lụa trắng nhẹ. Đó là biểu trưng của
Thủ Đà Hội Thiên[26] thành Tối Chánh Giác. Chư
thánh và thiên chúng trong cõi ấy, y phục nhẹ đẹp, thậm chí chẳng có thù, lượng[27], bản chất trang nghiêm, thanh tịnh,
chẳng cần nhờ vào phục sức bên ngoài. Vì thế, đức Thế Tôn rủ lòng hiện hình
tượng giống như vậy.
Nếu
giải thích theo cách bí mật, sâu xa, tướng diệu nghiêm của Như Lai pháp vốn sẵn
như thế, chẳng giảm, chẳng do tạo tác tạo thành. Vì thế, chẳng dùng chất báu
bên ngoài để trang sức. Thậm chí các vị Thập Trụ Bồ Tát, do nương vào thần lực
của Phật, được thấy thân gia trì, đối với cái Thể thường tịch đều như nhìn qua
một lớp the mỏng. Vì thế, dùng đó để sánh ví. Vàng Diêm Phù cũng tự nhiên là
bổn tánh thanh tịnh, màu lại thẫm nhất, nêu tỏ kim cang trí thể của đức Phật
sâu mầu nhất. Toàn thân Ngài tỏa ra đủ loại quang minh, tức là ánh sáng phổ môn
khai thị đại huệ. Kế đó, từ tám cánh sen nơi bốn phương, quán tứ phương Phật.
Phương Đông bèn quán Bảo Tràng Như Lai (Ratnaketu) như mặt trời mới mọc, hiện
sắc trắng xen đỏ. Bảo Tràng nghĩa là “phát Bồ Đề tâm”. Thí như
tướng quân thống ngự đại chúng, phải vận dụng tràng cờ [để điều khiển] thì các
đội quân mới hoạt động thống nhất, có thể phá tan nước địch, lập đại công danh.
Như Lai vạn hạnh cũng lại như thế, dùng nguyện Nhất Thiết Trí làm tràng cờ,
dưới cội Bồ Đề hàng phục bốn loại ma quân. Do vậy lấy đó làm tên. Sắc như mặt
trời sớm mai, cũng có ý nghĩa tương ứng.
Phương
Nam quán Sa La Thụ Vương Hoa Khai Phu Phật (Sajkusumita-rāja),
thân tướng kim sắc, phóng quang minh trọn khắp, chính là tướng biểu thị trụ
trong Ly Cấu tam-muội. Bắt đầu từ chủng tử của Bồ Đề tâm, trưởng dưỡng đại
bi vạn hạnh, nay thành giác ngộ trọn khắp, vạn đức nở xòe. Do vậy, đặt tên như
thế. Ly Cấu có nghĩa là Đại Không. Khi chứng Đại Không, giống như vàng ròng
luyện trăm lần, các cấu uế đều trừ sạch. Thân tướng của Phật cũng thế. Đó là
loại vàng thượng diệu trong thế gian, nếu đem so với vàng Diêm Phù Đề thì màu
sắc kém hơn, mà còn hơi ô trược, chẳng được tự nhiên tươi tắn, sáng sạch như
vàng Diêm Phù. Do vị Phật ở trên cánh sen từ nhân duyên tâm lượng mà sanh, cho
nên kém hơn.
Kế
đó, tại phương Bắc quán Bất Động Phật. Quán Ngài lìa nhiệt não, thanh lương trụ
trong tướng tịch định. Đấy là trí Niết Bàn của Như Lai; do vậy, có ý nghĩa Bất
Động, chẳng phải là danh xưng vốn có của Ngài. Danh hiệu vốn có của Ngài là Cổ
Âm Như Lai (tức Thiên Cổ
Lôi Âm Như Lai, Divyadundubhi-meghanirghoṣa),
như trống cõi trời đều chẳng có hình tướng, mà cũng chẳng có trụ xứ, nhưng có
thể diễn nói pháp âm, cảnh tỉnh, giác ngộ chúng sanh. Đại Bát Niết Bàn cũng lại
giống như thế, chẳng như Nhị Thừa vĩnh viễn tịch diệt, trọn chẳng có diệu dụng.
Do vậy, dùng điều này để sánh ví.
Kế
đó, tại phương Tây quán Vô Lượng Thọ Phật (Amitāyus). Đấy là trí phương tiện của Như Lai. Do
chúng sanh giới vô tận, phương tiện đại bi của chư Phật cũng chẳng có cùng
tận. Do vậy, tên là Vô Lượng Thọ. Âm tiếng Phạn là Nhĩ Nhĩ, tức là “nhân giả” (bậc nhân từ). Lại
do hàng phục tứ ma, nên gọi là Thắng. Do vậy, kệ dịch trọn đủ ý nghĩa này, gọi
Ngài là “Nhân Thắng Giả” (bậc nhân từ thù thắng). Cũng
vẽ hai vị Phật này có màu vàng ròng, mắt nhắm hờ, nhìn
xuống dưới, ra vẻ nhập Tịch Diệt tam-muội. [Vẽ, tạc hình tượng] chư Phật đều
theo lệ ấy.
Bốn
góc hoa đài có bốn vị Bồ Tát, như kinh văn trong phần sau sẽ nói. Đối với tọa
vị của hết thảy Như Lai, chỉ quán một vị Phật ở trong kim đàn, sẽ giống như
thân của hết thảy các đức Phật. Những vị khác đều dựa theo hình tượng, vị trí
được nói trong kinh, đều nên chuyển chữ thành thân (tức là quán tưởng chữ chủng tử của mỗi
vị ấy đều biến thành thân Phật hoặc Bồ Tát tương ứng), khiến cho mỗi mỗi đều
rành rẽ. Phàm là cách chuyển chữ trong Mạn-đồ-la, đối với mỗi vị tôn
thánh, đều dùng chữ chủng
tử của chính vị ấy, hoặc dùng chữ thông dụng thống nhiếp các bộ khác, như các
chữ A, Sa, Phạ tương ứng với ba bộ. Nếu sợ bậc A-xà-lê hạnh cạn chẳng thể xoay
chuyển [để quán tưởng] nhanh chóng như thế, chỉ quán môn chữ A sanh ra vô lượng
quang, quang minh chiếu tới đâu liền hiện thân của vị tôn thánh đó. Còn như
hành pháp sự trong đêm, cũng đều phỏng theo lệ này.
Khi
tu quán hạnh, trước tiên dùng năm chữ để gia trì thân, như trong Cúng Dường
Pháp đã nói: Quán tự tâm thành hoa sen tám cánh. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê
nói: “Ô Lật Đà tâm[28] của phàm nhân có hình dạng
giống như hoa sen còn búp chưa nở, có gân, mạch, ước chừng chia thành tám phần,
đàn ông thì hướng lên trên, đàn bà thì hướng xuống dưới”. Trước tiên,
quán đóa sen ấy nở xòe thành tòa sen trắng tám cánh. Trên đài ấy, hãy nên quán
chữ A có màu kim cang, trên đầu đặt Bách Quang Biến Chiếu Vương (Tỳ Lô Giá Na
Phật), dùng Vô Cấu Nhãn để quán. Dùng chữ ấy để tự gia trì, liền thành thân đức
Tỳ Lô Giá Na. Dùng phương tiện này để quán thân Tỳ Lô Giá Na cùng với thân ta
chẳng hai, chẳng khác. [Vị trí] ở giữa hai vị minh vương [Bất Động và Hàng Tam
Thế thuộc phía Tây của Mạn-đồ-la] thì gọi là “trụ trong Phật thất”. Tới
khi vẽ xong Mạn-đồ-la, A-xà-lê dời chỗ ngồi ra ngoài cửa đàn tràng, ở vị trí
Phật thất ấy, vẽ hình vị tôn thánh mình kính chuộng, hoặc đặt kinh Bát Nhã,
chất đầy vàng, chất báu để trang hoàng, cúng dường. Hoặc đặt xâu chuỗi mình
thường cầm, hoặc chày kim cang, hoặc kim cang đạc (chuông kim cang) v.v…
Lại
nữa, khi sắp chọn cuộc đất để tịnh trị, hãy nên tự quán Như Ý Bảo Châu trên hoa
sen trong tâm, trong ngoài trong suốt. Khi quán sát kỹ càng, tất cả các tướng
thiện ác thảy đều hiện trong ấy. A-xà-lê liền dùng huệ phương tiện để chọn lựa,
tịnh trị, khiến cho kiên cố, bằng phẳng. Quán tâm đệ tử cũng như thế, sẽ có thể
lãnh hội chỉ thú sâu xa trong ấy. Hành giả trụ nơi Phật thất, đúng như trên mà
quán tôn thánh xong, sẽ chuyển chữ A thành Phạ, dùng Kim Cang Tát Đỏa để gia
trì tự thân, dâng hương bôi, hoa v.v… đúng như pháp cúng dường, đều như sẽ nói
rộng trong pháp thứ tự thuộc phần sau. Sau đấy, dấy lòng đại bi, chí thành trân
trọng, tụng A Lợi Sa kệ thỉnh bạch như kinh văn dạy.
Nay
giữ nguyên âm tiếng Phạn như sau:
(Kinh)
Tam mạn phạ ha lan (tồn niệm dã), đổ mê (ngã dã) tát ra bệ (nhất thiết dã), nhĩ
nẵng (nhân giả dã, tức chư Phật) ca lô noa đát mãng ca (bi giả), bộ mê
bát rị bệ ra ha (thỉnh thọ trì địa), ca lê dã (tác dã), sa bổ đát lệ
(tịnh Phật tử dã), thấp vụ nễ na để duệ.
(經)三漫嚩訶囒(存念也)覩迷(我也)薩囉鞞(一切也)爾曩(仁者也,即諸佛)。迦盧拏怛莾迦(悲者)部迷鉢𭌆薜囉訶(請受持地)。迦𠼝也(作也)。娑補怛㘑(并佛子也)。濕務儞那𫪭曳。
(Kinh:
Tam mạn phạ ha lan (nghĩ nhớ), đổ mê (con) tát ra bệ (hết thảy), nhĩ nẵng (nhân
giả, tức chư Phật), ca lô noa đát mãng ca (từ bi), bộ mê bát rị bệ ra ha
(xin thọ trì đất),
ca lê dã (thực hiện), sa bổ đát lệ (và Phật tử), thấp vụ nễ na để duệ).
Ý
của bài kệ là: Chư Phật là các đấng bi mẫn, xin hãy nghĩ nhớ chúng con. Con nay
thỉnh bạch, xin hãy thọ trì pháp trị địa và các Phật tử. Ngày mai, [xin các
Ngài] cùng giáng lâm để chứng minh. Chữ “tồn niệm” trong tiếng
Phạn có nghĩa là “xin
giáng hiện”. Tọa vị trong bạch đàn Mạn-đồ-la:
(4) Phật mẫu Hư Không Nhãn |
Đông(mộc) (2) Tọa vị của hết thảy chư Phật |
(3) Tọa vị của hết thảy Bồ Tát |
Bắc (thủy) (6) Liên Hoa Thủ |
(1) Tọa vị của ngũ Như Lai |
Nam (hỏa) (5) Kim Cang Thủ |
(8) Hàng Tam Thế Tôn |
Tây(kim) (9) Tọa vị của A-xà-lê |
(7) Thánh Bất Động Tôn |
Đến
chiều ngày thứ năm, lại nên theo thứ tự, trọn đủ các pháp tắc, khéo tự trang
nghiêm thân, quán nhập vị trí trong Mạn-đồ-la, phụng thỉnh, kết giới, hộ thân
v.v… mỗi mỗi đều đầy đủ xong, hãy nên tụng [chân ngôn của] Bất Động Minh Vương,
hoặc [chân ngôn của] tôn thánh Hàng Tam Thế, và mật ấn tương ứng, trọn một trăm
lẻ tám biến gia trì trong ấy. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Từ ngày thứ
ba trở đi, mỗi ngày vào lúc ba thời niệm tụng, đều tụng Bất Động chân ngôn một
trăm lẻ tám lần để gia trì cuộc đất. Không chỉ nơi đây, mà nên dùng vào hết
thảy các chốn. Lại từ ngày thứ nhất cho tới ngày thứ ba, nếu có chướng nạn, hãy
nên thu dọn, đình chỉ. Nếu đã vẽ xong các phương vị trong bạch đàn, mà nếu có
các thứ ma sự, hai đằng chẳng hòa hợp, phải nên siêng năng tăng thêm phương
tiện, ắt khiến cho được thành tựu. Những điều khác như đã nói trong kinh Cù Hê[29]”. Đêm thứ năm, tụng Bất
Động chân ngôn xong; kế đó, hãy nên đối
với thân Đại Nhật Như Lai, liền tụng Trì Địa
chân ngôn, và kết tam-muội-da
ấn, nói chân ngôn ấy như sau:
(Kinh)
Như thị thuyết dĩ, phục đương tụng thử chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, tát bà đát tha yết đa, địa sắt xá na, địa sắt chỉ đế, a giả lệ, vi ma
lệ, sa ma ra nãi, bát ra cật lật để bát lý thâu đệ, sa ha.
(經)如是說已。復當誦此真言曰。南麼三曼多勃馱喃。薩婆怛他揭多。地瑟姹那地瑟祉帝。阿者麗。微麼麗。娑麼囉嬭。鉢囉吃㗚𫪭鉢履輸睇。莎訶。
(Kinh:
Nói như thế xong, lại nên tụng chân ngôn này như sau: - Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm, tát bà đát tha yết đa, địa sắt xá na, địa sắt chỉ đế, a giả lệ, vi
ma lệ, sa ma ra nãi, bát ra cật lật để bát lý thâu đệ, sa ha).
Câu
đầu tiên là quy mạng hết thảy chư Phật. Câu thứ hai và câu thứ ba có nghĩa là:
Dùng sự gia trì của hết thảy các Như Lai để gia trì. Ý nói: Như đạo tràng kim cang ấy
cùng được duy trì bởi thần lực của hết thảy các Như Lai, nay khiến cho cuộc đất này cũng giống như thế.
Hơn nữa, con đã bình trị tâm địa thanh tịnh của đệ tử xong. Đấy là chỗ để tâm
vương Như Lai vẽ Đại Bi Tạng Mạn-đồ-la. Con nay nói lời thành thật, dùng thần
lực của hết thảy Như Lai để gia hộ, khiến cho được kiên cố, bất động. Câu thứ
tư nói “a giả lệ” (acale) có nghĩa là bất động. Câu thứ năm
là “vi ma lệ” (vimale) có nghĩa là “vô cấu”. Ý nói: Do được
thần lực của hết thảy Như Lai gia trì, khiến cho [tâm địa ấy] đạt được an ổn, vững
vàng, bất động. Không chỉ bất động mà thôi, lại còn khiến cho lìa hết thảy cấu.
Chính là lấy chữ A đầu tiên trong câu thứ tư làm cái Thể của chân ngôn. Như Lai
dùng pháp gì để gia trì mà có thể khiến cho rốt ráo chẳng khuynh động? Chính là
do dùng môn chữ A này mà có lực dụng như thế. Câu thứ sáu có nghĩa là “nghĩ
nhớ, gìn giữ”, giống như tỳ-kheo tác pháp Yết Ma[30], khiến cho chúng tăng hòa hợp, cùng
nhau thọ trì. Nay chân ngôn này cũng thế, dùng chữ A để gia trì xong, do thỉnh
hết thảy Như Lai nghĩ nhớ bổn thệ nên [các Ngài] cùng thọ trì. Câu thứ bảy có
nghĩa là “bản tánh thanh tịnh”, đấy là diễn giải câu trước. Cớ
sao chư Phật cùng tâm niệm gia trì? Do bản tánh thanh tịnh. Nếu pháp nhập vào
môn chữ A, tức là vốn sẵn vô động, vô cấu. Mười phương ba đời chư Phật do bởi
nghĩa ấy, đều có cùng một giới, một kiến giải, cho nên cùng chung gia trì. Câu
cuối cùng là Sa Ha, như Tăng chúng đã yết-ma xong, bèn thêm câu “nhẫn
khả, ấn chứng thành tựu”. Nếu lời chân thành do con thốt ra nhất định
chẳng sai lầm, kính mong chư Phật do chẳng vượt tam-muội-da, sẽ khiến cho nó
được thực hiện viên mãn. Tất cả ý nghĩa của các chữ ở đây cũng nên rộng nói
phân biệt.
Khi
đó, A-xà-lê nên đi tới phía
ngoài phương vị của hết thảy các đức Như Lai ở phương Đông, vừa hướng về phương Đông,
vừa tụng trì chân ngôn hoặc ba lượt, hoặc bảy lượt, sẽ có thể tạo nhiều lợi
ích. Kế đó, đi về phương Nam rồi đi sang phương Tây. Kế đó, đi sang phương Bắc,
đều đi sau lưng của
phương vị trong bạch đàn mà trì tụng. Xong hết một vòng như thế; kế đó, đến chỗ của Hư Không Nhãn: Trước hết, hướng góc Đông Bắc xoay lưng vào phương vị trong
đàn (tức phương vị
của Hư Không Nhãn Phật Mẫu) mà tụng niệm. Kế đó, đi sang hướng
Đông Nam, kế đó tới phương Tây Nam, sau đó đi sang Tây Bắc. Giáp một vòng
xong, hãy nên chí thành làm lễ, cúng dường các thứ, trở về chỗ ngồi của
A-xà-lê, ngồi hướng mặt về phương Đông, tụng chân ngôn mà mình vốn được thọ
trì, trụ trong Bổn Tôn tam-muội, đều đúng như thứ tự được nói trong phần
Cúng Dường. Lại theo thứ tự, trì chân ngôn của các vị tôn thánh trong bạch đàn,
và cũng kết ấn của các Ngài.
[Thiện
Vô Úy] A-xà-lê nói: “Trước hết, trì chân ngôn của Bộ Chủ Đại Nhật Phật
một trăm lẻ tám lượt, còn tám vị khác [trong Trung Đài Bát Diệp], xem chân ngôn
của các vị ấy dài hay ngắn mà trì. Nếu lại có thể tụng thì kiêm trì [chân ngôn]
của bốn vị Bồ Tát thuộc viện thứ hai, các vị tôn thánh thượng thủ như Phật
Thích Ca trong viện thứ ba, cho đến tụng trọn hết [chân ngôn] của chư vị cũng
được”. Chỉ cần chất bùn tô trát nơi các phương vị trong bạch đàn đã
khô, rải nước thơm [để sái tịnh] xong thì liền có thể tác pháp, cũng chẳng cần
nhất định phải khởi
sự trong ngày thứ tư. Kể từ khi sắp xếp xong, đều cần nương theo đó để trì
tụng. Đối với pháp sự ban đêm, cũng chuẩn theo lệ này mà biết.
(Kinh)
Trì Chân Ngôn hành giả, thứ phát bi niệm tâm, y ư bỉ Tây phương, hệ niệm dĩ an
tẩm, tư duy Bồ Đề tâm, thanh tịnh trung vô ngã. Hoặc ư mộng trung kiến, Bồ Tát
đại danh xưng, chư Phật vô hữu lượng, hiện tác chúng sự nghiệp, hoặc dĩ an úy
tâm, khuyến chúc ư hành giả: “Nhữ niệm chúng sanh cố, tạo tác Mạn-đồ-la. Thiện
tai Ma Ha Tát! Sở họa thậm vi diệu”.
(經)持真言行者,次發悲念心,依於彼西方,繫念以安寢,思惟菩提心,清淨中無我。或於夢中見,菩薩大名稱,諸佛無有量,現作眾事業,或以安慰心,勸囑於行者:汝念眾生故,造作漫荼羅,善哉摩訶薩,所畫甚微妙。
(Kinh:
Hành giả trì Chân Ngôn, bèn phát tâm bi niệm, nương vào chỗ phương Tây, hệ niệm
rồi ngủ yên, tư duy Bồ Đề tâm, trong thanh tịnh vô ngã. Hoặc là trong mộng
thấy, Bồ Tát thanh danh lớn, chư Phật nhiều vô lượng, hiện làm các sự nghiệp,
hoặc dùng tâm an ủi, khuyên, dặn dò hành giả: “Ngươi nghĩ tới chúng sanh, tạo
tác Mạn-đồ-la. Lành thay Ma Ha Tát! Vẽ đàn rất vui diệu!”)
Trong
đêm thọ trì đất, A-xà-lê đúng như pháp trì tụng xong, cho tới dùng kim cang
phúng vịnh để ca ngợi trọn khắp chư Phật, Bồ Tát. Ngồi yên lặng mệt mỏi cùng
cực, liền ở chỗ đã đặt đàn tràng, đúng như pháp mà hộ thân, liền nằm ở phía
Đông. Hãy nên sanh lòng đại bi thương xót tột bậc đối với đệ tử được hóa độ.
Nếu [vâng theo nghi quỹ] Cù Hê Thả Đát Ra (Guhyatantra) thọ trì đất xong, lại
có cách kết tô-đa-la (dây chỉ ngũ sắc) để thọ trì đệ tử danh hiệu. Khi vị ấy
ngủ nghỉ, hãy nên tư duy: “Hết thảy các pháp thuộc môn chữ Ma (म) trên
đài hoa sen trong tâm, ta đều chẳng thể đạt được, tức là Bồ Đề tâm chẳng chướng
ngại, mà cũng là Như Ý Bảo Châu”. Lại nói: “Châu Như Ý ấy chỉ là môn chữ A đó thôi!” Vị
A-xà-lê ấy sẽ ở trong mộng, hoặc là thấy vô lượng chư Phật và Bồ Tát là các
bậc có thanh
danh to lớn, thị hiện tạo tác các sự nghiệp, tức là thuận theo các loại chúng
sanh đáng được hóa độ mà dùng tam luân (thân, miệng, ý) để hướng dẫn, hoặc đích
thân sắp đặt, kiến lập Đại Bi Sanh Mạn-đồ-la, hoặc dùng âm thanh vi diệu để an
ủi, khuyên nhủ, căn dặn rằng: “Ngươi nay do nghĩ thương xót chúng sanh,
tạo tác Mạn-đồ-la này. Lành thay Ma Ha Tát Đỏa! [Mạn-đồ-la] do ngươi đã vẽ hết
sức vi diệu!” Các cảnh giới như thế, A-xà-lê hãy nên dùng huệ tâm để
khéo quyết trạch. Hãy nên biết chư thánh đã cùng gia trì cuộc đất ấy, có thể
tùy ý tác pháp. Nếu có chướng ngại, hãy nên thực hiện phương tiện hộ-ma tương
ứng để tịnh trừ. Hãy nên phát tâm Đại Cần Dũng mong cho việc làm được thành
tựu.
Lại
nữa, nếu A-xà-lê kiến đế, thì nơi Như Ý Châu trong Liên Hoa tam-muội thuộc Bồ
Đề tâm thanh tịnh, tự nhiên thấy rõ nhân duyên có chướng hay không có chướng
rành rành vô ngại. Vị Phật trong tâm hiện tiền căn dặn, truyền trao, nhằm giải
quyết nghi vấn [của A-xà-lê]. Nếu như nhận biết ma sự, hãy nên dùng đại phương
tiện đại trí huệ để xoay chuyển, thực hiện pháp hộ-ma, nhằm khiến cho
cái tâm hành trì chẳng lay động, chẳng lui sụt, kham kiến lập pháp giới
Mạn-đồ-la. Sau
đó mới nghỉ ngơi.
Lại
nữa, A-xà-lê kể từ lúc nhắc nhở địa thần trở đi, chớ nên lìa bỏ cuộc đất đạo
tràng như thế, luôn ở trong ấy, gia trì, niệm tụng, quán sát cặn kẽ: Hễ chỗ nào
chưa ngay ngắn, bằng phẳng, liền lập tức sửa sang. Lại tư duy chi
phần của các duyên, khiến cho đều trọn đủ, chớ để lúc gặp chuyện bị khuyết
thiếu, khiến cho nghi hoặc nẩy sanh. Tự thọ trì đất xong, hãy nên ngay lập tức
quy hoạch giới hạn, khu vực, ấn định chắc chắn từng phương vị. Tới đêm quán
đảnh, mới tạo hình tượng các tôn thánh. Nếu không thể nhanh chóng hoàn thành,
sau khi trì địa, sẽ lần lượt thực
hiện thì cũng không phạm lỗi gì!
(Kinh)
Phục thứ ư dư nhật, nhiếp thọ ưng độ nhân. Nhược đệ tử tín tâm, sanh chủng tánh
thanh tịnh, cung kính ư Tam Bảo, thâm huệ dĩ nghiêm thân, kham nhẫn vô giải
quyện, Thi La tịnh vô khuyết, nhẫn nhục, bất xan lận, dũng kiện, kiên hạnh
nguyện, như thị ưng nhiếp thủ, dư tắc vô sở quán. Hoặc thập, hoặc bát, thất,
hoặc ngũ, nhị, nhất, tứ, đương tác ư quán đảnh, nhược phục số quá thử.
(經)復次於餘日,攝受應度人,若弟子信心,生種姓清淨,恭敬於三寶,深慧以嚴身,堪忍無懈倦,尸羅淨無缺,忍辱不慳悋,勇健堅行願,如是應攝取,餘則無所觀。或十或八七,或五二一四,當作於灌頂,若復數過此。
(Kinh:
Lại nữa, vào ngày khác, nhiếp thọ người đáng độ. Nếu đệ tử tín tâm, sanh chủng
tánh thanh tịnh, tâm cung kính Tam Bảo, huệ sâu trang nghiêm thân, kham nhẫn,
không lười mệt. Giới thanh tịnh chẳng khuyết, nhẫn nhục, chẳng keo kiệt, mạnh
mẽ, hạnh nguyện vững. Nên nhiếp người như thế, những điều khác chẳng màng. [Số
người được quán đảnh], hoặc mười, hoặc tám, bảy, hoặc năm, hai, một, bốn, nên
thực hiện quán đảnh, [nếu là kẻ kết duyên], lại vượt hơn số ấy).
Kinh
dạy: “Phục thứ ư dư nhật, nhiếp thọ ưng độ nhân” (lại trong ngày kế
tiếp, bèn nhiếp thọ kẻ đáng được độ) nói về chi phần “nhiếp thọ, kiến
lập, hộ trì đệ tử”. Thọ trì địa xong, kế đến nói trong ban đêm hãy nên thực
hiện tác pháp cho đệ tử. Vì thế nói là “dư nhật” (ngày khác). Do
đó, rộng biện định tướng trạng của hàng đệ tử đáng độ.
Kệ
nói “nhược đệ tử tín tâm” (nếu đệ tử có tín tâm) là nói A-xà-lê
quán căn tánh hiện tại, hoặc nhân duyên xa xôi của người ấy, [thấy người ấy]
trong các phương tiện thuộc ba thứ bí mật trong duyên khởi chẳng thể nghĩ bàn, đều
tin tưởng thẳng
thừng, chẳng ngờ, chẳng hề sợ hãi, bèn có thể nhiếp thọ. Những điều khác như đã nói trong
phần luận về phẩm đức của người thầy.
Kệ
nói: “Sanh chủng tánh thanh tịnh” tức là [người đệ tử ấy] sanh
trong các dòng
họ to lớn thuộc
bốn chủng tánh như Bà La Môn v.v… Nếu là Chiên Đà La v.v… thì người ấy do kế tục pháp tắc của gia đình, đã quen làm chuyện chẳng thanh tịnh,
tánh nhiều tệ ác. Nếu vì kẻ đó truyền pháp quán đảnh hòng lưu thông đại pháp,
sẽ khiến cho kẻ khác sanh lòng khinh mạn, hoặc tạo thành nhân duyên chướng ngại
pháp. Ngay như truyền Cụ Túc Giới cho tỳ-kheo, cũng loại trừ kẻ hủy nhục tăng
chúng, hoặc chủng tánh cực hèn tệ. Nếu chỉ là kết duyên thọ pháp, sẽ chẳng cần
phải bàn tới [những điều ấy]! Lại nữa, từ lâu xa tới nay, người đã từng có nhân
duyên phát Bồ Đề tâm thì tức là sanh trong chủng tánh của Như Lai, chính là
dòng tộc thù thắng nhất!
Kệ
nói: “Cung kính ư Tam Bảo”, tức là đối với Phật, Pháp, chúng Tăng
khởi tâm thuần hậu, khiêm hạ, thường chuộng thân cận, tôn trọng, cúng dường,
tán thán. Hãy nên biết người ấy đã có nhân duyên hành đạo từ thời trước, thậm
chí như Thường Bất Khinh Bồ Tát. Đó gọi là “kính trọng sâu xa hết thảy
chúng sanh”, tin Phật, Pháp, Tăng Bảo. “Thâm huệ dĩ nghiêm
thân” (dùng trí huệ sâu xa để trang nghiêm thân), Phật pháp như hư
không vô biên như thế, kẻ kém trí huệ sẽ chẳng thể kham nổi. Vì thế,
người có trí
tánh sâu xa, bén nhạy, tự dùng đó để trang nghiêm, cho đến vì người khác nói (thuyết pháp). “Kham nhẫn vô
giải quyện” (Kham nhẫn, chẳng lười nhác, mệt mỏi): Đấy nghĩa là người
kham thực hiện, chẳng có thoái khuất. Âm gốc trong tiếng Phạn khác với Nhẫn
Nhục, tức là nhân duyên cầu pháp tuy đủ mọi chuyện khó khăn, nhưng [người ấy]
đều có thể làm được. Giả sử một lượt chẳng thành, lại càng ra sức tu tập, như
thề tát cạn biển cả mới thôi. Nếu người có chí tánh như thế, sẽ có thể truyền
pháp. “Thi La tịnh vô khuyết” (Giới hạnh thanh tịnh, chẳng
thiếu sót), tức là đối với luật nghi tại gia và xuất gia, cho tới đối với
thọ lãnh các
giới cấm thuộc về bản
tánh,
hễ phụng trì bèn thâm tâm gìn giữ, bảo vệ, chẳng hề hủy hoại, thiếu sót. Nếu là
người có tánh như thế, dẫu nhập tam-muội-da bình đẳng đại thệ, cũng sẽ kính
thuận, chẳng trái nghịch, cho nên có thể kham truyền pháp.
“Nhẫn
nhục, bất xan lận” (nhẫn nhục, chẳng keo kiệt): Ở đây, chia thành hai
câu. Nhẫn nhục tức là đối với tám loại gió lớn cảnh giới “trong, ngoài, nghịch,
thuận”, tâm đều an
nhẫn, chẳng khuynh động, như trong Trí Độ Luận đã nói rộng về Thi La Ba La Mật. Hãy nên biết người ấy ắt chẳng
vi phạm trọng cấm của trì minh (giới cấm trong pháp môn Chân Ngôn), làm chuyện
bất lợi cho chúng sanh, cho nên có thể kham truyền pháp. Chẳng keo kiệt, tức là
đối với tất cả tài và pháp, thường nghĩ bố thí cho người khác. Nếu có người đến
cầu, đều không keo tiếc, như Trí Độ Luận đã nói rộng trong phần Đàn Ba La Mật.
Hãy nên biết người ấy ắt chẳng phạm trọng cấm của trì minh, chẳng keo tiếc
chánh pháp, nên kham truyền thọ.
“Dũng
kiện, kiên hạnh nguyện” (mạnh mẽ, hạnh nguyện vững) cũng chia thành hai
câu. “Dũng kiện” tức là [phẩm đức] “chủng tánh Bồ Đề
tâm mạnh mẽ” trong các phẩm đức của vị A-xà-lê. Trong khi hành đạo, tuy
gặp đủ loại hình sắc và âm thanh đáng sợ, tâm chẳng khiếp nhược, thậm chí xuất
sanh nhập tử chẳng có ý tưởng sợ hãi, thật sự tùy thuận sở hành của bậc đại
nhân Bồ Đề Tát Đỏa. Do vậy, đáng nên truyền thọ. “Kiên hạnh nguyện” chính
là nguyện tâm mong muốn. Âm tiếng Phạn và ý nghĩa cầu nguyện không giống nhau.
Như tự lập chí, khiến cho mỗi ngày ba thời niệm tụng, bèn [thực hiện] trọn hết một kỳ hạn.
Tuy gặp đủ mọi duyên khác, trọn chẳng gián đoạn hay chấm dứt. Mọi chuyện đều có
đầu, có đuôi như thế. Nếu lúc hành Bồ Tát đạo, cũng chẳng khuyết bổn thệ. Vì
thế, kham truyền pháp. Nhưng mười đức của đệ tử được nói ở đây, nếu ai có trọn
đủ thì hãy nên biết là người rất hiếm có! Nhưng nếu có [đệ tử chẳng trọn đủ
mười đức, nhưng có] ưu điểm là “có thể kham đào luyện” thì hãy nên nhiếp thọ.
Lại như khi Thanh Văn thọ Cụ Túc Giới, [vị thầy truyền giới phải] quan sát đủ
loại ngăn chướng [nơi người thọ giới], như quá nhỏ, quá già, hình sắc, tướng mạo có tỳ vết, có các
bệnh hoạn v.v… sợ hàng bạch y sẽ
chê gièm, quở trách, bèn loại trừ. Nay đạo Ma Ha Diễn (Đại Thừa) này chẳng phải vậy,
chỉ cần đạo cơ có thể tế độ, dẫu có các khuyết điểm khác, đều chẳng liên
quan! [Đó chính là ý nghĩa
của câu “dư tắc vô sở quán” (những điều khác chẳng xét tới)
trong lời kệ].
Kệ
nói: “Hoặc thập, hoặc bát, thất, hoặc ngũ, nhị, nhất, tứ” (hoặc mười, hoặc tám, bảy. Hoặc năm, hai, một,
bốn) chính
là con số hạn lượng của các [đệ tử] trong một kỳ đạo tràng để được bậc A-xà-lê
quán đảnh. Ở đây, dựa theo siêu số để nói, tức là từ một tới hai, từ hai vượt
lên bốn, từ bốn đến năm, từ năm tới bảy, từ bảy tới tám, từ tám cho đến mười
người. Vì thế, trong một Mạn-đồ-la, không được đồng thời quán đảnh cho ba
người, sáu người, chín người! Thế nhưng, đối với mật ý của Như Lai, A-xà-lê
chẳng giải thích nguyên do [vì sao không truyền cho ba, sáu, hoặc chín người].
Lại còn tương đồng với kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni[31] nói
không được vượt quá mười người. Vượt quá con số ấy, sợ tâm lượng của A-xà-lê
chẳng thể bao quát nổi, hãy đợi duyên khác về sau, sẽ
vì những người còn lại mà tác pháp. Hơn nữa, từ mười người trở xuống ấy, chính
là cùng lúc phát tâm, ai nấy đều xả tất cả các thứ trong ngoài để cúng dường
Tam Bảo, cùng nhau hoàn thành Mạn-đồ-la. Vì thế, đồng thời tác pháp. Nếu có
người gặp đạo tràng, liền nói “pháp duyên khó gặp”, xin cũng
được tế độ, sẽ chẳng hợp lẽ nếu làm quán đảnh A-xà-lê cho người ấy. Nếu lại
vượt quá con số ấy, mà nếu [có người] chỉ cầu kết duyên với pháp của một vị Bổn
Tôn trong một môn, tiếp nhận chân ngôn, ấn khế, thì chẳng thuộc vào hạn định
ấy. A-xà-lê cũng nên phát khởi đại bi, hễ ai có thể khởi chút phần thiện tâm,
hãy đều vì người ấy phát sanh, tạo lập chủng tử Bồ Đề, cho nên nói “nhược phục quá ư thử” (lại có thể vượt quá con số ấy).
(Kinh)
Nhĩ thời, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Đương vân hà
danh thử Mạn-đồ-la? Mạn-đồ-la giả kỳ nghĩa vân hà?” Phật ngôn: - Thử danh Phát
Sanh Chư Phật Mạn-đồ-la, cực vô tỷ vị, vô quá thượng vị. Thị cố, thuyết vi
Mạn-đồ-la. Hựu Bí Mật Chủ! Ai mẫn vô biên chúng sanh giới cố, thị Đại Bi Thai
Tạng Sanh Mạn-đồ-la quảng nghĩa. Bí Mật Chủ! Như Lai ư vô lượng kiếp tích
tập A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chi sở gia trì. Thị cố, cụ vô lượng đức,
đương như thị tri. Bí Mật Chủ! Phi vị nhất chúng sanh cố, Như Lai thành Chánh
Đẳng Giác, diệc phi nhị, phi đa, vị lân mẫn vô dư ký cập hữu dư ký chúng sanh
giới cố, Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, dĩ đại bi nguyện lực ư vô lượng chúng
sanh giới như kỳ bản tánh, nhi diễn thuyết pháp.
(經)爾時金剛手祕密主復白佛言:世尊!當云何名此漫荼羅?漫荼羅者其義云何?佛言:此名發生諸佛漫荼羅,極無比味、無過上味,是故說為漫荼羅。又祕密主!哀愍無邊眾生界故,是大悲胎藏生漫荼羅廣義。祕密主!如來於無量劫積集阿耨多羅三藐三菩提之所加持,是故具無量德,當如是知。祕密主!非為一眾生故如來成正等覺,亦非二非多,為憐愍無餘記及有餘記諸眾生界故,如來成正等覺,以大悲願力於無量眾生界如其本性而演說法。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ lại bạch với đức Phật rằng: - Bạch Thế
Tôn! Mạn-đồ-la này nên gọi tên là gì? Mạn-đồ-la có nghĩa là như thế nào? Đức
Phật nói: - Đây gọi là Phát Sanh Chư Phật Mạn-đồ-la. Do vị tột bậc khôn sánh,
do vị không chi hơn được. Vì thế nói là Mạn-đồ-la. Lại này, Bí Mật Chủ! Do
thương xót vô biên chúng sanh là nghĩa rộng của Đại Bi Thai Tạng Sanh
Mạn-đồ-la. Bí Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng kiếp tích tập sự gia trì của Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế, trọn đủ vô lượng đức, hãy nên biết như thế. Bí
Mật Chủ! Chẳng phải vì một chúng sanh mà Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, cũng
chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, vì thương xót vô dư ký và hữu dư ký chúng
sanh giới mà Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, do nguyện lực đại bi trong vô lượng
chúng sanh giới, đúng như bản tánh mà diễn nói pháp).
Đây
là do Như Lai hạn định số người [được quán đảnh trong một kỳ lập đàn tràng], vì
biết những kẻ chưa ngộ sẽ đâm ra nẩy sanh nghi vấn. Ngài Kim Cang Thủ
vốn thỉnh đức Thế Tôn tuyên nói cảnh giới gia trì này, diễn nói Đại Bi Tạng
Sanh Đại Mạn-đồ-la Vương, tức là đại bi bình đẳng, chẳng
có hạn lượng. Nhưng nay đức Thế Tôn nói, dẫu là người có đức có thể truyền thọ,
vẫn chẳng vượt quá mười người, tợ hồ là nói thuận theo bất cứ minh chú nào,
chẳng phải là cụ thể [một minh chú nhất định nào]. Vì thế, Ngài hỏi Mạn-đồ-la
này tên gọi là gì. Hơn nữa, Mạn-đồ-la nghĩa là “luân viên” (tròn
trặn). Nay đã hạn cuộc danh số (số người được quán đảnh), tợ hồ lý chưa viên
mãn. Vì thế, lại hỏi Mạn-đồ-la ở đây có ý nghĩa gì. Do có hai câu hỏi, trong
lời đáp, trước hết, đức Thế Tôn giải đáp danh xưng; kế đó, giải đáp ý nghĩa.
Trong
phần giải đáp danh xưng, lại còn nói rõ ý chỉ sẵn có rằng: Mạn-đồ-la có nghĩa
là “phát sanh”, nên nay gọi là Phát Sanh Chư Phật Mạn-đồ-la.
Gieo chủng tử Bồ Đề tâm vào tâm địa Nhất Thiết Trí, tưới nhuần bằng nước đại
bi, chiếu bằng mặt trời đại huệ, cổ vũ bằng gió đại phương tiện, chẳng ngại dùng hư không Đại Không, có thể khiến cho mầm pháp tánh chẳng
thể nghĩ bàn tăng trưởng theo thứ tự, cho đến thành cây chúa (thụ vương) của Phật, đầy ắp pháp
giới. Vì thế, gọi là Phát Sanh. Phàm mưa giông làm duyên thúc đẩy, [các hạt
giống] tùy theo tánh chất riêng mà nẩy mầm, chớ nên vì tánh chất tăng trưởng
của thảo mộc khác nhau mà khiến cho sự bố thí bình đẳng cũng trở thành có hạn
lượng!
Kế
đó, trong phần giải đáp ý nghĩa, âm tiếng Phạn là Mạn-đồ-la (Maṇḍala), có ý nghĩa “khuấy đảo khiến
cho sữa và lạc trở thành tô”. Mạn-đồ-la là chất tô cực tinh thuần đọng
trên mặt sữa, ví như sự tinh thuần ấy chẳng còn đổi khác, lại gọi là Kiên. Vị
tịnh diệu cùng hòa hợp, khiến cho các vật khác chẳng thể xen tạp, nên có ý
nghĩa “tụ tập”. Vì thế, đức Phật nói: “Cực vô tỷ vị,
vô quá thượng vị, thị cố thuyết vi Mạn-đồ-la dã” (vị khôn sánh tột
cùng, vị không chi hơn được. Do vậy, nói là Mạn-đồ-la). Dùng ba loại phương
tiện bí mật để khuấy đảo sữa Phật tánh của chúng sanh, cho đến lần lượt trải
qua ngũ vị (sữa, lạc, sanh
tô, thục tô, đề hồ), thành diệu giác đề hồ. Hòa hợp thuần tịnh
mầu nhiệm, chẳng còn gì có thể tăng thêm nữa, hết thảy kim cang trí ấn cùng
chung nhóm họp, trong vị cam lộ chân thường bất biến, thật là bậc nhất. Đó là ý nghĩa của
Mạn-đồ-la vậy. Từ “hựu Bí Mật Chủ” (lại này, Bí Mật Chủ) trở
đi, rộng diễn ý nghĩa của Mạn-đồ-la nhằm giải thích đoạn trừ các vấn nạn. Lại
chia thành ba phần:
-
Một, nêu rõ pháp giới viên đàn phổ môn vô hạn.
-
Hai, nêu ra nguyên nhân giới hạn số người [được quán đảnh trong một kỳ đàn tràng]:
Loại trừ các chúng sanh [không thích hợp].
-
Ba, câu cuối nhằm khuyên
lơn, căn dặn A-xà-lê hãy dấy khởi bi nguyện bình đẳng.
Trong
kinh văn thuộc phần thứ nhất, “ai mẫn vô biên chúng sanh giới, thị Đại
Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la quảng nghĩa” (thương xót vô biên chúng
sanh giới là nghĩa rộng của Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la), tức là nếu lúc
hành nhân tự thấy Trung Đài Thai Tạng, liền biết hết thảy chúng sanh đều có
nhân duyên thành Phật. Vì thế, Đại Bi Mạn-đồ-la đã khởi lên ấy cũng trọn khắp
pháp giới. Vả nữa, bất cứ vị nào trong số các vị Chấp Kim Cang và Bồ Tát nhiều
như số vi trần trong mười thế giới, hễ dùng một môn nào để làm Mạn-đồ-la chủ,
các vị kia làm quyến thuộc, sẽ thành một loại Mạn-đồ-la. Xoay chuyển vô cùng như thế, dẫu toán
số, thí dụ đều chẳng thể [tính toán, diễn tả] được! Huống hồ trong ấy đều dùng
vô lượng môn trang nghiêm, các thứ phương tiện để dẫn khởi, nhiếp thọ
chúng sanh, há còn có thể kể xiết ư? Nếu hành giả trong pháp môn một chữ
ấy, thâu nhiếp rộng thành lược, triển khai lược thành rộng, sanh ra pháp
tài để thí
trọn khắp hết thảy, thường chẳng đoạn hết, bèn gọi là “khéo hiểu ý
nghĩa rộng của Mạn-đồ-la”.
Kế
đó nói: “Bí Mật Chủ! Như Lai ư vô lượng kiếp, tích tập A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề chi sở gia trì. Thị cố, cụ vô lượng đức. Đương như thị tri” (Bí
Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng kiếp, tích tập sự gia trì của Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác. Vì thế, trọn đủ vô lượng đức, hãy nên biết như thế): Đấy là
giải thích nguyên do của nghĩa rộng. Như các vị thiện tri thức trong phẩm Nhập
Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, mỗi vị đều từ trong một môn mà thông đạt pháp
rộng sâu chẳng có ngằn mé, nhưng cũng chẳng biết lẫn nhau. Xưa kia, khi Như Lai
hành Bồ Tát đạo, phổ môn thân cận các vị thiện tri thức nhiều như số vi trần
trong các cõi Phật như thế, trong mỗi công đức tạng đó, đều đạt được vị tột bậc không sánh bằng, không gì
hơn được! Do đức nội chứng vô lượng vô biên như thế, hiện làm quyến thuộc trong
pháp môn được gia trì cũng lại vô lượng vô biên. Hành giả Chân Ngôn môn hãy nên
thông suốt tâm ấy, hiểu như thế đó.
Đã
biết nội đức vô hạn; kế đó, nói rõ số người được độ trong bổn địa Mạn-đồ-la
cũng là vô hạn. Vì sao vậy? Do ứng với đại bi nguyện. Do vậy, tiếp đó, kinh
nói: “Bí Mật Chủ! Phi vị nhất chúng sanh cố, Như Lai thành Chánh Đẳng
Giác, diệc phi nhị, phi đa, vị lân mẫn vô dư ký cập hữu dư ký chư chúng sanh
cố, Như Lai thành Chánh Đẳng Giác. Dĩ đại bi nguyện lực, ư vô lượng
chúng sanh giới, như kỳ bổn tánh, nhi diễn thuyết pháp” (Bí Mật Chủ!
Chẳng phải vì một chúng sanh mà Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, cũng chẳng phải
vì hai, chẳng phải vì nhiều, vì thương xót các chúng sanh vô dư ký và hữu dư ký
mà Như Lai thành Chánh Đẳng Giác. Do đại bi nguyện lực, trong vô lượng chúng
sanh giới, đúng như bổn tánh của họ mà diễn nói pháp). Ý nghĩa phát Bồ Đề tâm ở
đây như trong phẩm Nhập Pháp Giới [của kinh Hoa Nghiêm] và phần luận định về Ma
Ha Tát trong Trí Độ Luận đã rộng nói. “Vô dư ký” là như Phật
hiện tiền thọ ký: “Chúng sanh nào đó sẽ trong kiếp nào đó thành Phật,
hiệu là X… Như Lai, có quốc độ và quyến thuộc như thế đó”. Do đã thọ
ký rành rẽ, nên gọi là vô dư ký. Hữu dư ký là như bảo chúng sanh rằng: “Nhữ
ư vị lai mỗ Phật thời, đương tất thị tội, mỗ giáp Như Lai vị nhữ thọ ký” (Ông
trong đời vị lai, vào thời đức Phật chi đó, sẽ hết sạch tội này, Như Lai chi đó
sẽ thọ ký cho ông) v.v… Lại nữa, như đức Thế Tôn nói: “Nhược ngã tại
thế, hoặc diệt độ hậu, chư hữu văn Pháp Hoa Kinh nhất cú, nhất kệ, ngã giai vị
thọ Vô Thượng Bồ Đề ký” (Nếu ta tại thế, hoặc sau khi diệt độ, nếu có
người nghe một câu, một kệ của kinh Pháp Hoa, ta đều thọ ký Vô Thượng Bồ Đề cho
người ấy). Đó là vô dư ký. Nếu nói “hết thảy chúng sanh đều có Phật
tánh, sanh ra thiện
căn liên tục chẳng đoạn, sẽ đạt tới Vô Thượng Bồ Đề”. Đó gọi là hữu dư
ký. Ta vốn vì chúng sanh như thế đó mà thành Đẳng Chánh Giác, huống hồ nay sở
nguyện đã mãn, mở ra vật báu nơi tự tâm của chúng sanh, đúng như bản tánh của họ mà ban cho, há có hạn
lượng gì ư? Hơn nữa, do dựa theo dấu tích của hạnh nông cạn hoằng kinh trong
đời ác mà nói “một kỳ pháp sự chỉ hạn ngạch mười người” đó
thôi! Từ đây trở đi là giải thích nguyên do vì sao hạn chế số người như thế.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Vô Đại Thừa túc tập, vị tằng tư duy Chân Ngôn thừa hạnh, bỉ bất
năng thiểu phần kiến văn, hoan hỷ tín thọ. Hựu Kim Cang Tát Đỏa! Nhược bỉ hữu
tình tích ư Đại Thừa Chân Ngôn Thừa đạo vô lượng môn tấn thú, dĩ tằng tu hành,
vị bỉ đẳng cố, hạn thử tạo lập danh số. Bỉ A-xà-lê diệc đương dĩ đại bi tâm,
lập như thị thệ nguyện, vị độ vô dư chúng sanh giới cố, ưng đương nhiếp thọ bỉ
vô lượng chúng sanh, tác Bồ Đề chủng tử nhân duyên.
(經)祕密主!無大乘宿習、未曾思惟真言乘行,彼不能少分見聞歡喜信受。又金剛薩埵!若彼有情昔於大乘真言乘道無量門進趣、已曾修行,為彼等故,限此造立名數。彼阿闍梨亦當以大悲心立如是誓願,為度無餘眾生界故,應當攝受彼無量眾生作菩提種子因緣。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Kẻ chẳng tu tập Đại Thừa từ trước, chưa từng tư duy hạnh Chân Ngôn
thừa, sẽ chẳng thể có chút phần thấy, nghe, hoan hỷ tin nhận. Lại này Kim Cang
Tát Đỏa! Nếu hữu tình ấy trước kia đã từng tu hành đạo Đại Thừa Chân Ngôn Thừa,
tiến nhập vô lượng môn, vì những người như thế mà tạo lập chuyện hạn định danh
số. Vị A-xà-lê đó cũng nên do tâm đại bi mà lập thệ nguyện như thế, vì độ chúng
sanh giới chẳng thừa sót, hãy nên nhiếp thọ vô lượng chúng sanh để làm nhân
duyên cho chủng tử Bồ Đề).
Đoạn
này có ý nói: Nếu các chúng sanh chưa từng gieo thiện căn đã lâu nơi quá khứ vô
lượng chư Phật, chưa từng tu tập bí mật thừa này, sẽ hời hợt nghe nói, chẳng
thể tin nhận. Nếu chỉ vì thiện tâm mà người truyền pháp nói [pháp Chân Ngôn]
với kẻ căn cơ sai lệch, sẽ có thể khiến cho kẻ đó tăng thêm lòng phỉ báng, đoạn mất căn
lành. Vì thế, kinh Pháp Hoa nói: “Vô trí nghi hối, tắc vi vĩnh thất” (kẻ
không có trí, ngờ vực, hối hận, sẽ bị mất mát vĩnh viễn). Các chúng sanh trong
mười phương thế giới, ít có người cầu Thanh Văn, người cầu Duyên Giác càng ít
hơn, người cầu Đại Thừa rất hy hữu! Người cầu Đại Thừa còn dễ, người tin pháp
này là khó nhất. Vì thế, dùng Phổ Nhãn để xem, người kham tiếp nhận pháp này
giống như hạt bụi nơi núi Tu Di, hoặc giọt nước trong biển cả. Do bảo vệ tâm ý
của chúng sanh, đến đúng thời mới nói, lẽ nào chẳng đại lược chế định, tạo lập
danh số hay sao? Nói “vô lượng môn tấn thú” tức là giải thích
kèm thêm danh nghĩa của Mạn-đồ-la.
Mạn-đồ-la
là “tụ tập”, [tức là] nay đem công đức chân thật của Như Lai
tụ tập ở một chỗ, cho đến gom tụ trọn vẹn trí ấn sai biệt số lượng nhiều như vi
trần trong mười thế giới để phù tá Đại Nhật tâm vương, khiến cho hết thảy chúng
sanh đều phổ môn tiến nhập. Do vậy nói là Mạn-đồ-la. Nói “lược thử tạo
lập danh số” (đại lược tạo lập danh số ấy), như dùng chữ A để năm lượt
chuyển, hòng thống nhiếp vô biên nội đức của Như Lai, dùng trăm bài minh chú
ứng với các tự luân để thâu nhiếp pháp môn Phổ Nhãn của Như Lai. Đó gọi
là “đại lược về danh xưng”. Dùng phương tiện nhiều như số vi
trần trong một cõi nước để mở đàn [hoa sen] tám cánh, do vô cực đại bi mà chế
định hạn lượng mười người. Đấy chính là nói đại lược về số. Nhưng người học
thuận theo một pháp minh đạo mà được ngộ nhập, tức là nhập trọn khắp hết thảy
các môn Tổng Trì. Như từ một môn thấy vua, tức là thấy nhập trọn khắp ngàn muôn
môn hộ. Nếu chẳng thể hành đúng như lời dạy, tuy dùng đủ loại văn từ rộng vì họ
khai thị, vẫn chẳng có ích gì! Do vậy, câu thứ ba nói rõ: [Tuy lập] danh số hạn
lược, chẳng trở ngại sự [truyền thọ] rộng rãi. Ở đây, kinh nói: “Bỉ
A-xà-lê diệc đương dĩ đại bi tâm, lập như thị thệ nguyện, vị độ vô dư chúng
sanh giới cố, ưng đương nhiếp thọ vô lượng chúng sanh, tác Bồ Đề chủng tử nhân
duyên” (Vị A-xà-lê ấy cũng nên do tâm đại bi mà lập thệ nguyện như
thế, vì độ chúng sanh giới chẳng sót, hãy nên nhiếp thọ vô lượng chúng sanh để
làm nhân duyên cho chủng tử Bồ Đề), tức là: Tạo lập Mạn-đồ-la này, chính là hễ
có kẻ nào thấy, nghe, hay, biết, thậm chí giơ tay, cúi đầu, một niệm tùy hỷ, sẽ
đều nhất định thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế, A-xà-lê tuy chẳng
thể truyền thụ đầy đủ chi phần quán đảnh cho kẻ căn cơ không thích hợp, nhưng
đối với cái duyên “buộc viên châu trong chéo áo, cái trống bôi thuốc
độc”, há nên bỏ qua ư? Vì thế, hãy nên vận tâm đại bi khiến cho
[pháp này] được lưu truyền rộng khắp. Lại nữa, như người trong nhà có chất báu
bí mật, sợ bị đạo tặc dòm ngó; bởi thế, giấu trong đám quần áo cũ rách. Nay
pháp môn Mạn-đồ-la này cũng lại như thế, do tạng bí mật chẳng thể tuyên nói
thẳng thừng; vì thế, xoay vần
che phủ mật ý bằng phương tiện hữu tướng. Nay nói “hạn định mười người”, chính là Thế Đế Mạn-đồ-la vậy! Nhưng
A-xà-lê sẽ tự sửa trị tâm địa, vẽ Đại Bi Mạn-đồ-la,
Phổ Nhãn độ người, tạo
nhiều lợi ích tốt lành, chớ nên hiểu theo văn tự vậy!
(Kinh)
Trì chân ngôn hành giả, như thị nhiếp thọ dĩ, mạng bỉ Tam Tự Quy, linh thuyết
hối tiên tội. Phụng đồ hương, hoa đẳng, cúng dường chư thánh tôn. Ưng thọ bỉ
tam thế, vô chướng ngại trí giới. Thứ đương thọ xỉ mộc, nhược Ưu Đàm Bát La,
hoặc A Thuyết Tha đẳng. Kết hộ nhi tác tịnh. Hương, hoa dĩ trang nghiêm, đoan
trực thuận bổn mạt. Đông diện hoặc Bắc diện, tước dĩ nhi trịch chi. Đương tri
bỉ chúng sanh, thành khí phi khí tướng. Tam kết Tu-đa-la, thứ hệ Đẳng Trì tý.
Như thị thọ đệ tử, viễn ly chư trần cấu, tăng phát tín tâm cố. Đương tùy thuận
thuyết pháp, úy dụ kiên kỳ ý.
(經)持真言行者,如是攝受已,命彼三自歸,令說悔先罪。奉塗香華等,供養諸聖尊,應授彼三世,無障礙智戒。次當授齒木,若優曇鉢羅,或阿說他等,結護而作淨。香華以莊嚴,端直順本末,東面或北面,嚼已而擲之,當知彼眾生,成器非器相。三結修多羅,次繫等持臂,如是受弟子,遠離諸塵垢。增發信心故,當隨順說法,慰喻堅其意。
(Kinh:
Hành giả trì chân ngôn, nhiếp thọ như thế xong, dạy cho Tam Tự Quy, bảo nói,
hối tội trước. Dâng hương bôi, hoa thảy, cúng dường các tôn thánh. Hãy nên thọ
trí giới, ba đời chẳng chướng ngại. Kế đó trao xỉ mộc[32],
hoặc Ưu Đàm Bát La, A Thuyết Tha thảy. Kết hộ[33] rồi
tác tịnh. Hương, hoa để trang nghiêm, ngay thẳng thuận đầu đuôi[34].
Hướng về Đông hoặc Bắc, nhai rồi bèn ném ra. Nên biết chúng sanh ấy, thành
tướng khí, phi khí. Ba lượt dây niệt thắt, buộc vào tay Đẳng Trì. Truyền đệ tử
như thế, xa lìa các trần cấu. Do tăng trưởng tín tâm, nên tùy thuận thuyết
pháp, an ủi, nhủ vững ý).
Kệ
nói “trì chân ngôn hành giả” (hành giả trì chân ngôn) tức là nói về “phương tiện hộ trì và kiến lập” trong chi phần đệ tử. Tới
đêm ngày thứ sáu, thầy và đệ tử đều tắm gội thanh tịnh, mặc áo mới sạch, cầm
các vật cúng, tới chỗ bạch đàn Mạn-đồ-la như đã tạo trong phần trước. Hãy nên
theo đúng pháp gia trì tự thân, đạo tràng, và các đệ tử. Phương tiện thủ hộ đệ
tử như kinh văn trong phần sau nói về lúc nhập quán đảnh. Khi đó, A-xà-lê theo
đúng thứ tự pháp tắc, tu cúng dường trọn đủ, quán chư tôn thánh tại các phương vị trong
bạch đàn và mật ấn tương ứng, trì chân ngôn của các Ngài. Kinh Cù Hê nói: “Thủ
án Trung Đài Mạn-đồ-la, tụng chân ngôn nhất biến, như thị nhất tụng, nhất án,
nãi chí thất biến, dư vị diệc nhĩ dã” (Tay ấn xuống Trung Đài, tụng
chân ngôn một lần. Cứ một lần tụng, một lần ấn như thế cho tới đủ bảy lượt. Đối
với các phương vị khác cũng thế). Kế đó, nên vì các đệ tử tùy thuận thuyết
pháp, khơi mở, hướng dẫn tâm họ, dạy họ Tam Tự Quy, sám hối tội trước kia. Đã
sám hối xong, thân tâm thanh tịnh giống như minh châu, có thể thật sự kham phát
tâm. Vì thế, kế đó dạy đệ tử phát Bồ Đề tâm, đều như phần Pháp Cúng Dường đã
nói.
Kế
đó, nên trao cho họ hương bôi, hoa v.v… Truyền dạy đệ tử hãy vận tâm cúng dường
chư tôn thánh, sau đấy mới truyền trao Tam Thế Vô Chướng Ngại Trí Giới. Thọ
giới pháp Bồ Tát thì có hành nghi riêng. Sở dĩ Bồ Tát phát tâm nhiếp thọ phương
tiện học xứ, đều là để thành tựu trí huệ thanh tịnh của Như Lai. Trong một
niệm, liễu đạt các pháp trong ba đời chẳng vướng mắc. Có người trụ trong giới
ấy, cho đến khi thấy tâm, hiểu
đạo, liền có oai thế chẳng nghĩ bàn như vậy. Do giới ấy có thể đích thân phát
sanh Phật huệ. Lại do so với luật nghi có hạn lượng của Nhị Thừa, bèn gọi là
Tam Thế Vô Chướng Ngại Trí.
Kế
đó, trao cho [các đệ tử] nhánh cây để chà răng, bảo đệ tử nhai cắn; nhân đó,
quán tướng người ấy sẽ trở thành pháp khí hay không. Sở dĩ làm pháp này, cũng
là do thuận theo Tục Đế của phương ấy (Ấn Độ), do dùng phương tiện bí mật để
gia trì. Người dân Ấn Độ kể từ việc mời tăng chúng dùng cơm cho đến người đời
xem tướng, đều trước đó, trao
xỉ mộc cho khách mời, dùng các thứ hương, hoa trang hoàng rồi mới trao cho. Hãy
nên biết đó là họ mời người ấy ngày mai tới dùng cơm. Sở dĩ làm như thế là để
biểu thị tâm yêu kính, sợ người ấy trước đó đã có bệnh đàm nhiệt vì nhân duyên
ăn uống khi xưa. Nếu tiếp nhận
thức ăn do tôi
cúng dường, không chừng sẽ khiến cho bệnh cũ phát động, [cơ thể] bất an. Vì
thế, trước hết do thiện ý che chở mà nhắc nhở, khiến cho người ấy trước hết
thanh tịnh thân khí, hoặc uống Ha Lê Lặc v.v… để ngày hôm sau tùy ý ăn uống,
chẳng bị thương tổn, thân tâm an lạc. Nay A-xà-lê cũng thế, khi trao nhành
dương cho đệ tử, liền nhờ vào phương tiện này mà nói pháp sâu: “Ta vừa
mới trao cho ngươi Phật tánh đề hồ, có vị không chi hơn được, đã dạy ngươi phát
Bồ Đề tâm, tịnh trừ túc chướng nơi tam nghiệp, dùng răng điều phục ‘trí tam thế
vô ngại’ để cắn các phiền não. Muốn dùng sự bí mật gia trì này để gột trừ sạch
tội lỗi nơi thân tâm. Ngươi hãy nên tịnh trừ lỗi nơi miệng. Đi tới nơi đâu,
cũng đừng xằng bậy tuyên nói [pháp được dạy bảo trong đàn tràng này]. Ngày mai,
ta sẽ tặng cho ngươi cam lộ bất tử, khiến cho đều sung túc”.
Vị thầy
ấy nên lấy nhánh cây Ưu Đàm Bát La (Udumbara) hoặc gỗ A Thuyết Tha (Aśvattha)[35] ngay thẳng, đẹp đẽ, chẳng thô, chẳng nhỏ, cắt thành đoạn
dài bằng mười hai ngón tay. Phàm trong hết thảy cách đo lường, đều dùng lóng
trên cùng của ngón cái gập lại cho chạm vào bên cạnh [của đốt dưới ngón cái,
gọi đó là “một ngón tay”]. Đó là con số đúng. Hai loại gỗ ấy chính
là loại cây Bồ Đề của quá khứ chư Phật. Nếu không có, hãy nên tìm loại gỗ có
nhựa, tức là gỗ dâu, v.v… Đánh dấu phân biệt phần trên và phần dưới của gỗ, đều coi chỗ
cành nhánh là trên, chỗ cội gốc là dưới. Dùng nước thơm rửa sạch, lại dùng
hương bôi để ướp.
Đối với đầu dưới của nhánh gỗ, dùng chỉ trắng buộc hoa để trang hoàng, cũng nên
làm dấu khiến cho dễ biết trên dưới. [A-xà-lê] hãy nên lấy tay đè lên, dùng chân ngôn Bất
Động để gia trì, hoặc niệm một trăm lần, hoặc một ngàn lần, khiến cho trang
nghiêm thật trọn vẹn. Đã thọ giới xong, thầy nên lấy một nhánh xỉ mộc dâng hiến
chư tôn, những nhánh còn lại chia ra cho đệ tử, bảo họ ra khỏi đàn tràng, ở
phương Đông hay phương Bắc phía ngoài đàn tràng, đúng pháp ngồi xổm mà cắn
[nhánh xỉ mộc ấy]. Cắn xong, hãy bảo họ hướng về phương vị mà họ đang đối diện
mà ném để kiểm nghiệm tướng ấy. Nếu chỗ bị cắn hướng ra ngoài thì người ấy
chẳng thành tựu Tất Địa. Nếu hướng về thân [người ném] thì Tất Địa thành tựu.
Nếu quăng ra xa mà rơi gần thân thì là tướng chẳng lâu sẽ thành tựu. Nếu phần
đầu dựng thẳng, hướng lên trên thì thành tựu càng nhanh chóng. Nếu phần đầu
hướng xuống dưới thì người ấy sẽ vào cung A Tu La, hoặc cung rồng. Nếu vướng
trên không trung thì người ấy trước đó đã thành tựu. Lại còn hướng về phương
Bắc, hay phương Đông thì là thượng thành tựu, phương Tây là trung thành tựu,
phương Nam là hạ thành tựu. Tuy là như thế, nếu người ấy hướng về phương Đông
mà quăng, nhưng chỗ cắn hướng về phương Đông, tức ngược chiều với thân, cũng
chẳng được thành tựu. Những trường hợp khác chuẩn theo đây mà suy ra. Những
điều khác như trong kinh Cù Hê đã nói.
Kế
đó, hãy nên thực hiện pháp kim cang tuyến. Phàm làm dây buộc, hãy nên chọn loại
sợi tốt nhất, mịn, trọn vẹn, dùng nước thơm gột rửa cho tột bậc thanh tịnh, sai
bé gái khiết tịnh xe sợi theo chiều phải. Dùng sợi năm màu để xe lại, dùng chân
ngôn của năm vị Như Lai để gia trì mỗi màu. Sau đó, dùng chân ngôn Thành Biện
Chư Sự để gia trì chung. Sợi chỉ dùng để [căng ra, xác định ranh giới, phương
vị nhằm] tạo Mạn-đồ-la cũng thế. Màu của năm đức Như Lai thì đối với Đại Nhật
Phật sẽ gia trì màu trắng, Bảo Tràng Phật gia trì màu đỏ, Hoa Khai Phu Phật gia
trì màu vàng, Vô Lượng Thọ Phật gia trì màu lục, Cổ Âm Phật thì gia trì màu
đen. A-xà-lê trước hết cầm sợi chỉ thắt ba gút, tạo thành kim cang kết, dùng để
buộc lên cánh tay trái hòng hộ trì tự thân. Kế đó, nhất nhất buộc lên tay các đệ tử, nhiếp thọ
đệ tử như thế thì nhập Mạn-đồ-la sẽ lìa các chướng nạn. Kim cang kết chớ nên
nói nhiều lượt, hãy nên đích thân nhận từ A-xà-lê.
Lại
nữa, dây ngũ sắc chính là ngũ trí của Như Lai, mà cũng là năm pháp Tín, Tấn,
Niệm, Định, Huệ. Dùng năm pháp ấy để quán nhiếp hết thảy các giáo môn; do vậy
gọi là Tu-đa-la. Dịch theo lối cổ là “Diên Kinh” (綖經)[36].
Nếu là bậc A-xà-lê kiến đế, có thể dùng ngũ trí của Như Lai để gia trì năm thứ
thiện căn trong Bồ Đề tâm của đệ tử, thâu nhiếp trọn khắp vạn hạnh, buộc chặt nơi “cánh tay” Du
Già, khiến cho [đệ
tử] dẫu trải qua sanh tử mà vẫn thường chẳng thất lạc, hư hoại [chủng tử thiện căn].
Nếu có thể nhiếp thủ đệ tử như thế, bèn gọi là “thiện tác kim cang kết”.
[Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Muốn trong đêm ấy làm pháp này cho đệ tử,
vật cúng dường nên giảm bằng một nửa đêm thứ bảy. Lại nên quán tình kiến và căn
cơ của người ấy (đệ tử sẽ được
truyền pháp) mà tán dương Mật giáo, [khiến cho
người ấy] phát sanh các tâm ưa thích kiên cố, cũng vì người ấy phân biệt mười
loại phương tiện Học Xứ”. Hễ là người kết duyên, đều nên tham dự nghe
giảng môn Tam Thế Vô Ngại Trí Giới này.
(Kinh) Cáo
như thị kệ ngôn: - Nhữ hoạch vô đẳng lợi, vị đồng ư đại ngã.
Nhất thiết chư Như Lai, thử giáo Bồ Tát chúng, giai dĩ nhiếp thọ nhữ, thành
biện ư đại sự. Nhữ đẳng ư minh nhật, đương đắc Đại Thừa sanh”.
(經)告如是偈言:汝獲無等利,位同於大我,一切諸如來,此教菩薩眾。皆已攝受汝,成辦於大事,汝等於明日,當得大乘生。
(Kinh: Nói kệ như thế này: “Ngươi
được lợi khôn sánh, địa vị đồng đại ngã. Hết thảy các Như Lai, dạy Bồ Tát pháp
này, đều đã nhiếp thọ ngươi, thành tựu nơi đại sự. Các ngươi vào ngày mai, được
sanh trong Đại Thừa”).
Đối
với bốn loại căn bản và tam-muội-da[37],
lại có một bài kệ, ắt phải răn dạy trực tiếp cho lọt vào tai, người được quán
đảnh đầy đủ các chi phần hãy nên lắng nghe. Hai bài kệ dạy răn cũng là A Lợi
Sa, có thể tụng hoàn toàn bằng tiếng Phạn thì càng lợi ích nhiều hơn, chép ra
như sau:
A
nễ dã (từ nay), dữu sáp ma (ngươi), tỵ ra đổ
la (không ai sánh bằng), la bà (lợi ích), lạp
đà (đạt được), ma ha đát ma tỵ (đại ngã), duệ
nẵng (các, những), tát bà (hết thảy), nhĩ nại (Phật), dụ
diên (ngươi), sa bổ đát lại (và Bồ Tát), rị
ha (đây), xá sa nê dã (dạy), tát ra mai (hết
thảy), bả rị nghĩ rị hệ đá tát tha (nhiếp), xà da ma
nang (sanh), ma hỗ (to lớn), nại da (thực
hiện). Đế nẵng dụ diên (ngươi), ma ha dạ nê (Đại
Thừa) thấp phụ nhã đá hê (sanh vào sáng mai), bà vĩ tỷ
dã tha (đạt được).
Bài
kệ có ý nói: Ngươi từ nay trở đi, sẽ đạt được lợi ích không gì bằng, có địa vị
bằng với Đại Ngã. Đại Ngã tức là tám Tự Tại Ngã thuộc về Pháp Tự Tại do
Như Lai đã thành tựu, và các Ma Ha Tát Đỏa. Kế đó nói hết thảy Như Lai và các
vị Ma Ha Tát trong giáo pháp này, hết thảy đều đã nhiếp thọ ngươi. Đây chính là
các vị Kim Cang và Bồ Tát trong mười cõi Phật thuộc giáo pháp bí mật của Đại
Thừa. Kế đó nói “thành
biện đại sự”, tức
là có thể thành tựu đại sự. Nhân duyên để có thể hoàn thành đại sự chính
là “khai thị ngộ nhập tri kiến của Như Lai”. Vì thế, kinh đã
dung hội ý ấy để nói. Kế đó nói: “Ngày mai các ngươi sẽ được sanh trong
Đại Thừa”, tức là vào Đại Bi Mạn-đồ-la để được quán đảnh, sanh trong
chủng tánh của hết thảy Như Lai. Lại nữa, lìa duyên nghiệp mà sanh, đắc Đại
Không mà sanh, cho nên nói là “Đại Thừa sanh”.
(Kinh) Như
thị giáo thọ dĩ, hoặc ư mộng mị trung, đổ kiến Tăng trụ xứ, viên lâm tất nghiêm
hảo, đường vũ tướng thù đặc, hiển sưởng chư lâu quán, tràng, cái, ma-ni châu,
bảo đao, duyệt ý hoa, nữ nhân tiên bạch y, đoan chánh sắc xu lệ. Mật thân hoặc
thiện hữu, nam tử như thiên thân, quần ngưu phong tự nhũ, kinh quyển tịnh vô
cấu. Biến tri nhân duyên giác, tịnh Phật, Thanh Văn chúng, đại ngã chư Bồ Tát,
hiện tiền thọ chư quả, độ đại hải, hà, trì, cập văn sở nhạo thanh, không trung
ngôn cát tường, đương dữ ý nhạo quả. Như thị đẳng hảo tướng, nghi ưng đế phân
biệt. Dữ thử tương vi giả, đương tri phi thiện mộng.
(經)如是教授已,或於夢寐中,覩見僧住處,園林悉嚴好,堂宇相殊特,顯敞諸樓觀,幢蓋摩尼珠,寶刀悅意華;女人鮮白衣,端正色姝麗,密親或善友,男子如天身;群牛豐牸乳,經卷淨無垢。遍知因緣覺,并佛聲聞眾,大我諸菩薩,現前授諸果。度大海河池,及聞所樂聲,空中言吉祥,當與意樂果。如是等好相,宜應諦分別,與此相違者,當知非善夢。
(Kinh: Dạy
dỗ như thế rồi, hoặc là trong mộng mị, trông thấy chỗ Tăng ở, vườn rừng trang
nghiêm đẹp, điện đường tướng đẹp lạ, lầu đài cao, thoáng đãng. Tràng, lọng,
ma-ni châu, đao báu, hoa đẹp ý. Nữ nhân áo trắng sạch, đoan chánh, sắc xinh
đẹp. Người chí thân, bạn lành, nam tử như thân trời, đàn bò cái đầy sữa, kinh
quyển sạch chẳng dơ. Biết trọn nhân duyên giác, và Phật, các Thanh Văn, các Bồ
Tát đại ngã, hiện tiền trao các quả, vượt biển cả, sông, ao, và nghe tiếng ưa
thích, không trung nói
cát tường, trao cho trái ưa thích. Các tướng tốt như thế, hãy nên phân biệt kỹ.
Nếu trái nghịch tướng ấy, biết chẳng phải mộng lành”.
Khi
đó, A-xà-lê răn dạy, ấn trì như thế xong, lại bảo các đệ tử theo thứ tự ngồi ở ngoài
Mạn-đồ-la, hướng về phía Đông. A-xà-lê lại nên cúng dường, dùng tâm chí thành,
nghênh thỉnh chư tôn rằng: “Ngày mai con sẽ vì thương xót đệ tử mà cúng
dường các đức tôn thánh, kiến lập Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la, tùy sức cúng
dường. Kính mong từ bi nghĩ nhớ, trong ngày mai sẽ đều giáng hạ, nhóm họp trong
Mạn-đồ-la để gia trì”. Đại ý như thế, những điều khác như trong kinh
Cù Hê đã nói. Vị ấy chí thành thỉnh ba lượt xong, tuyên thuyết kim cang cú kệ
để ca ngợi chư tôn, sau đấy mới đúng như pháp tống tiễn.
Lại
vì đệ tử nói rộng pháp yếu, sắc truyền họ hệ niệm tư duy, dựa vào cỏ cát tường,
hướng mặt về Tây mà ngủ. Nếu người ấy trong mộng đạt các thứ cảnh giới, sáng
dậy nên thưa với thầy, thầy sẽ biết tướng trạng có thể thành tựu Tất Địa hay
không của hành nhân. Nếu là bậc A-xà-lê kiến đế, sẽ tự trong Du Già sâu thẳm,
thấy rõ căn duyên của đệ tử từ đầu đến đuôi, chẳng phạm sai lầm. Nếu chẳng làm
sự tướng như thế, và thuận theo Thế Đế mà hành, thì hết thảy chẳng sai lầm. Nếu
là vị thầy chưa kiến đế, hãy nên cẩn trọng nương theo pháp tắc, chớ để thiếu
sót!
Kinh
nói: “Mộng trung kiến Tăng trụ xứ” (Trong mộng thấy chỗ ở của
Tăng sĩ), tức là trông thấy các thứ trang nghiêm thanh tịnh, vi diệu. Thân vào
trong ấy, lễ, quỳ, nhiễu quanh, gặp các chuyện vui mừng, tốt lành. “Viên
lâm” tức là trông thấy hoa quả sum suê, tươi tốt, đặc biệt thù thắng,
hoặc đích thân hái, bẻ, hoặc trèo lên cành cây, bước đi trong không
trung. “Đường vũ” tức là các loại nhà cửa đẹp đẽ, tráng lệ,
được trang hoàng lộng lẫy, ở trong đó hưởng thụ tự tại, thân tâm vui
sướng. “Lâu quán” tức là đài nhiều tầng cao trội, thoáng đãng, có thể ngó
xa bốn phương, thấy các thứ cảnh thù thắng, tinh thần thư thái. Phàm các tướng
như thế đều là cát tường. Pháp môn được biểu thị trong ấy cũng giống như đã nói
trong phần chọn đất. Nếu trái nghịch các tướng ấy, như thấy tháp, chùa bị đốt,
phá hoại, bỏ hoang, dơ bẩn, tức chẳng phải là giấc mộng tốt lành.
“Tràng” tức
là cờ quạt, tràng báu, cao vời, đoan nghiêm, đẹp đẽ hiện ra trước mặt, hoặc
dùng để phất nhằm hướng dẫn mọi người, không ai chẳng vâng theo. Đấy là hình
tượng kiến lập đại Bồ Đề tâm uốn nắn vạn hạnh. “Cái” (lọng)
tức là các thứ như đuôi chim công v.v… năm màu xen kẽ [được kết lại], hoặc là để che phủ phía
trên không trung, hoặc do được người khác trao cho để cầm đi lại. Đấy chính là
hình tượng bi nguyện che chở trọn khắp. Châu Ma-ni cũng có nghĩa là viên minh,
chiếu thấu triệt, hoặc có thể sanh ra các vật thí cho mọi người. Đấy chính là
hình tượng của báu tịnh tâm giác ngộ Tứ Nhiếp lợi lạc người khác. “Đao” tức
là chói ngời, soi thấu, cứng chắc, sắc bén, hoặc do người khác đưa cho, hoặc tự
mình cầm, nắm. Đó
là biểu tượng của huệ tánh thành tựu. “Duyệt ý hoa” (hoa đẹp
ý) tức là các thứ hoa sanh dưới nước, hay mọc trên đất. Tùy theo tánh chất,
chủng loại, mà có thượng, trung, hạ, như sắc thì coi trắng sạch là loại thượng,
vị thì coi ngọt thuần là thượng, đều là điềm “mầm thiện nẩy nở”, hãy
nên suy nghĩ phân biệt [để nhận biết].
“Nữ
nhân” là
hình tượng tam-muội, nam tử tượng trưng cho trí huệ, cũng mang ý nghĩa “người
có oai đức đoan chánh, được người khác yêu kính”. “Mật thân” (người
thân thiết nhất) như cha mẹ v.v… “Thiện hữu” (bạn lành) tức là
thượng nhân truyền pháp, thiện tri thức v.v… Hoặc thấy bò cái tụ tập, vị sữa
phong phú, hoặc có người vắt sữa, hoặc tự uống, đều là tượng trưng cho đề hồ
thượng vị của Đại Bi Mạn-đồ-la. Hoặc thấy kinh sách trắng sạch, vô cấu, trang
hoàng tề chỉnh, nét chữ phân minh, ghi chép các loại chuyện thù thắng; đó là
tướng lành. Nếu quyển kinh dơ bẩn, hư hoại, chữ nghĩa tàn khuyết; hãy nên biết
là bất thiện. Hoặc thấy chư Phật đích thân vì [hành nhân] xoa đầu, hiện tiền
thọ ký, dùng âm thanh vi diệu để an ủi, phủ dụ. Hoặc thấy Thanh Văn, Bích Chi
Phật v.v… cho đến trụ trong hư không, thị hiện vô lượng thần biến, đều nên tùy
theo sự mà chọn lựa, phân biệt, hiểu rõ nhân duyên của chúng. “Các quả” tức là các thứ quả mầu nhiệm hy hữu,
quý hiếm trong cõi đời, hoặc có người trao cho, hoặc từ trên hư không giáng
xuống v.v… đều là biểu tượng của Tất Địa. Hoặc vượt qua sông, ao, biển cả, cho
đến trong mộng trong khoảnh khắc bèn uống cạn, thì đều là cát tường. Nếu trôi
giạt, chìm đắm, không được cứu giúp v.v… Hãy nên biết đó là bất thiện. Hoặc
nghe trong hư không có các loại âm thanh tốt đẹp, ca vịnh pháp âm, tấu các kỹ
nhạc, hoặc xưng dương công đức Tam Bảo mà tâm thích nghe, hoặc nói lời tốt
lành, hoặc nói “hãy nên trao cho ngươi cái quả ngươi yêu thích”. Như thế đó đều
là thiện mộng. Hãy nên phân biệt thành các loại thượng, trung, hạ. “Như
tự vũ đẳng” (như chùa, miếu v.v…) tức là ở trên mặt đất hay trong hư
không sai khác. Người được trông thấy cũng có nam, nữ, thánh, phàm sai khác. Vì
thế, kinh nói: “Nghi ưng đế phân biệt chi” (Hãy nên phân biệt
kỹ càng).
Nếu
trái nghịch với thiện tướng trên đây, hoặc mộng thấy thân mình bị voi cuồng
đuổi theo, kinh sợ, nguy cấp, hoặc cưỡi lạc đà, lừa, hoặc thấy người đáng ghét,
tệ ác, ăn mặc rách rưới, hoặc tự thấy thân mình nằm lăn trên bùn xanh, ở trong
phân nhơ, hoặc các thứ bất tịnh từ trên hư không rơi xuống; đó đều là các tướng trái nghịch. Nếu
là bậc thâm hạnh A-xà-lê, sẽ tự trong Du Già, đều biết rõ giấc mộng của người
ấy và các nhân duyên tạo nên.
(Kinh) Thiện
trụ ư giới giả, thần khởi bạch sư dĩ. Sư thuyết thử cú pháp, khuyến phát chư hành
nhân: “Thử thù thắng nguyện đạo, đại tâm Ma Ha Diễn, nhữ kim năng chí cầu,
đương thành tựu Như Lai. Tự nhiên trí đại long, thế gian kính như tháp. Hữu, vô tất siêu việt; vô cấu đồng hư
không. Chư pháp thậm thâm áo, nan liễu vô hàm tàng. Ly nhất thiết vọng tưởng,
hý luận bổn vô cố. Tác nghiệp diệu vô tỷ, thường y ư Nhị Đế,
thị thừa thù thắng nguyện, nhữ đương trụ tư đạo”.
(經)善住於戒者,晨起白師已,師說此句法,勸發諸行人:此殊勝願道,大心摩訶衍,汝今能志求,當成就如來。自然智大龍,世間敬如塔,有無悉超越,無垢同虛空。諸法甚深奧,難了無含藏,離一切妄想,戲論本無故。作業妙無比,常依於二諦,是乘殊勝願,汝當住斯道。
(Kinh: Người khéo trụ nơi giới,
sáng dậy thưa với thầy. Thầy nói câu pháp này, khuyên, phát khởi hành nhân:
“Nguyện đạo thù thắng này, là đại tâm Đại Thừa, ngươi nay hay chí cầu, sẽ thành
tựu Như Lai. Rồng lớn trí tự nhiên, thế gian kính như tháp. Hữu, vô đều vượt thoát, vô cấu như hư
không. Các pháp rất sâu thẳm, khó hiểu chẳng chứa đựng. Lìa hết thảy vọng tưởng,
hý luận vốn chẳng có. Tác nghiệp diệu khôn sánh, thường nương vào
Nhị Đế. Nương vào nguyện thù thắng. Ngươi nên trụ đạo này”).
Lúc
sáng dậy, đệ tử thưa với thầy [những chuyện đã thấy trong mộng], thầy nên tùy
cơ khuyên nhủ, phát khởi, để đoạn lưới nghi cho trò. Nếu thấy người ấy chẳng có
lẽ nào thành tựu, ắt chẳng nên phó pháp trọn đủ cho người ấy, sợ do lâu ngày
chẳng có công hiệu, có lẽ [người ấy] sẽ sanh lòng nghi hoặc, phỉ báng. Hoặc như
kinh Cù Hê đã nói: “Thầy hãy vì trò làm hộ-ma để dứt trừ tai ương. Đã
được lìa các chướng rồi mới cho vào [đàn tràng]”. Nếu thấy đủ loại
cảnh giới thù thắng, hãy nên dùng pháp ngôn để an ủi, khuyên dụ, khiến cho trò
hoan hỷ. Nói “thiện trụ giới” (khéo trụ trong giới), tiếng
Phạn là Tô Phạ La Đa (Suvrata), tức là mỹ hiệu để gọi đệ tử, giống như gọi họ
là “Phật tử” vậy. Bài kệ được nói trong phần chánh kinh cũng
là A Lợi Sa, kiêm tụng bằng tiếng Phạn thì càng hay hơn, [bản ấy] cũng được
chép đầy đủ như sau:
Ế
sa (cái này), ma lạt-già (đạo), phạ ra ra (nguyện), thất-rị
mạn (thù thắng, cũng có nghĩa là đức), ma ha (to
lớn) dạ nang (thừa), ma hộ (lớn), nại
dã (tâm), duệ nẵng (có thể) sưu diên (ngươi), nghiễm
mị sái (cái được diễn nói), đổ (cầu) ba phí (thành), thiết
tha (tựu), đát tha yết đá (Như Lai), tát diễm
bộ vô (tự nhiên trí), ma ha na già (đại long), tát
ma lô yết (người đời), tả chế để da (kính trọng như
hình tướng của tháp), a tất-để (có), na tất-để (không), vĩ-dã (đều), để
yết-lan đa (vượt khỏi), ma ca xa (hư không), mị
phạ (cùng), thư (không) để lam (cấu
nhơ), nghiêm tỵ lan (thâm áo), tát-bà (hết
thảy), đạt mê tỵ (pháp), cát bát ra đát kiên (trí
thế gian chẳng thể biết rõ), ma na la diêm (chẳng chứa đựng), tát ra-ma (hết
thảy), bát-ra bán giá ra hệ đan (lìa hết thảy hý luận,
vọng tưởng), bát-la bán chế (hý luận), cát (do
là không), bát ra bán chỉ đan (cũng là hý luận, lặp
lại), tát bà (hết thảy), cật-rị da tỵ (việc
làm), ra đổ lan (không sánh bằng), tát để-dã (chân
thật), nại-phạ dã-dã tham ma thiết-ra diêm (áo), y
năng (cái này) đát nễ-dạ nang (thừa), mạt lan (nguyện) thất-lệ
sắt sá (thù thắng), la tỵ-thiết (đạt được), tha
nại duệ (đạo), tát thể-đá (trụ) (phàm là kệ được nói
trong bản tiếng Phạn đều thêm vào câu trợ thanh, gọi là Y Để).
Nửa
đầu bài kệ ca ngợi đạo Bí Mật Thừa. “Nguyện thù thắng” chính
là nói tới nguyện Nhất Thiết Trí. Nếu nhập Bồ Đề môn thanh tịnh này, sẽ chiếu
kiến tâm pháp, hiểu đạo, đó gọi là “đại Bồ Đề đạo của cổ Phật”. Vì
thế nói là “thử thù thắng nguyện đạo” (đạo nguyện thù thắng này).
“Đại tâm” có
ý nghĩa như đã nói trong Ma Ha Tát Đỏa thuộc phần trước. Các vị đại tâm thuộc
quá khứ, hiện tại, vị lai, không vị nào chẳng ngự cỗ xe báu ấy để tới thẳng đạo
tràng; vì thế nói là “đại tâm Ma Ha Diễn”. Bài kệ thứ nhất tán
thán công đức phát Bồ Đề tâm của hành nhân, tức là dùng pháp ấn nhất định của
hết thảy Như Lai để thọ ký đại Bồ Đề. Vì thế nói: “Nhữ kim năng chí
cầu, đương thành tựu Như Lai. Tự nhiên trí đại long, thế gian kính như
tháp” (Ngươi nay dốc chí cầu, sẽ thành tựu Như Lai, rồng lớn tự nhiên
trí, thế gian kính như tháp). “Tự nhiên trí” là trí tự giác tự
chứng của Như Lai. Đối
với pháp xưa kia chưa nghe, chưa biết, mà
tự nhiên hiểu rõ, hiện tiền chẳng vướng mắc; do vậy, gọi tên như thế. Ma Ha Na Già (Mahānaga, đại long) là biệt hiệu của Như
Lai, do sánh ví tác dụng to lớn không ngằn mé, chẳng thể nghĩ bàn). Chế-để
(Caitya) được dịch nghĩa là “phước tụ” (khối phước),
nghĩa là hết thảy khối công đức của chư Phật tích tụ trong đó. Do vậy, người
đời vì cầu phước, thảy đều cúng dường, cung kính. Nay ngươi phát Bồ Đề tâm,
cũng có thể nhiếp thọ vô biên khối phước của hết thảy Như Lai. Vì vậy, thế gian
phải nên tôn kính, coi như tháp Phật. Kế đó là một bài kệ rưỡi nhằm hiển thị Bồ
Đề tâm thanh tịnh như Thật Tướng ấn, tức là khai Phật tri kiến, khiến cho [hành
nhân] được thanh tịnh. “Hữu vô tất siêu việt” (hữu và vô đều
vượt thoát) tức là Trung Đạo chẳng thể nghĩ bàn, từ các duyên mà sanh, vượt
khỏi đoạn, thường, chẳng phải có, chẳng phải không, hết thảy tâm lượng đều chẳng phải là hành xứ, nên
gọi là “vô cấu hư không kim cang trí ấn”.
“Chư
pháp thậm thâm áo” (các pháp rất sâu xa): Do tâm tánh
quá sâu, hãy nên biết Ấm, Giới, Nhập v.v… cho đến Nhất Thiết Chủng Trí cũng đều
quá sâu, do hết thảy các pháp chẳng vượt ngoài Thật Tướng của cái tâm. Thật
Tướng như thế chỉ có Phật và Phật mới có thể biết, chẳng do suy lường, phân
biệt mà có thể thấu đạt, nên nói là “thậm thâm áo”. “Thế trí bất năng
liễu” (trí thế gian chẳng hiểu rõ) là nói người thông huệ, lợi căn
trong thế gian chẳng thể nghĩ bàn tâm tánh ấy được! Giả sử các vị đại luận sư
như Trường Trảo phạm chí v.v… dùng đủ loại nhân duyên và thí dụ trang nghiêm để
sánh ví, dò lường, đều trọn chẳng phải là cảnh giới ấy. Hễ tư duy nhọc nhằn để
cầu [thấu hiểu], chỉ khiến [kẻ tư duy] phát cuồng. Chỉ riêng người có tín lực
kiên cố nương theo phương tiện bí mật này là có thể nhập mà thôi! “Vô
hàm tàng” (chẳng chứa đựng) nghĩa là khó thể biết rõ, chính là trong
chỗ không chứa đựng như thế, do như thật biết Uẩn A Lại Da vốn bất sanh, không
có gì để chấp thọ, mà cũng chẳng chứa đựng gì. Lúc bấy giờ, hết thảy tâm ý thức
vọng tưởng hý luận thảy đều thanh tịnh, chiếu trọn vẹn pháp giới như vầng
trăng Thu ở trên hư không. Do
vậy, câu kế tiếp nói: “Ly nhất thiết vọng tưởng” (Lìa hết thảy
vọng tưởng). Bản tiếng Phạn ghi là “lìa hết thảy hý luận vọng tưởng”,
nay trong bài kệ [do số chữ có hạn], từ ngữ bị giản lược, nhưng ý nghĩa chẳng
khác, cho nên chẳng ghi đủ! Câu kế tiếp nói “hý luận bổn vô cố” (vì
hý luận vốn chẳng có), nếu nói đầy đủ theo bản tiếng Phạn, phải nên nói
là “hý luận, vô hý luận cố, dĩ nhất thiết hý luận giai tất tùng duyên
sanh, vô hữu tự tánh” (do hý luận chẳng phải là hý luận, vì hết thảy
các hý luận đều từ duyên sanh, chẳng có tự tánh). Do chẳng có tự tánh, tức là
vốn sẵn bất sanh. Đây là giải thích câu trước, tức là nói “hý luận ấy
vốn chẳng có hý luận”. Nay dùng cách hội ý để nói, bèn bảo là “bổn
vô” (vốn chẳng có).
Kế
đó có hai câu nói về phương tiện rốt ráo của Bồ Đề tâm thanh tịnh ấy: Do vượt ngoài hết thảy vọng nghiệp, tức là
có thể thành tựu trí nghiệp của Như Lai. Phổ môn hướng dẫn lợi ích trọn khắp,
không gì chẳng phải là đại sự nhân duyên. Vì thế, hết thảy việc làm đều chẳng
thể sánh bằng. Cho nên nói “nhất thiết nghiệp vô tỷ” (hết thảy
các nghiệp đều chẳng sánh bằng). Tiếp đó là diễn giải câu trước, luận định
chung đại cương của Quyền và Thật; do đó nói: “Thường y ư Nhị Đế” (thường
nương vào Nhị Đế), tức là do vậy mà luận nói: “Chư Phật thuyết pháp
thường nương vào Nhị Đế”. Nhưng điều được đề cao trong kinh này là các
loại phương tiện thuộc các chi phần đều tùy thuận Thế Đế; do nhân duyên ấy mà
đắc trí ấn Nhất Thiết Trí, tức là Chân
Đế. Vì thế, dùng
Thế Đế làm nhân, Chân Đế làm quả, nhân như bốn vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô)
thảy đều là vô thường, quả như đề hồ tức là thường. Nhưng dùng mười câu duyên
sanh để quán, Thật Tướng của Thế Đế chính là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Vì thế, tướng
của Quyền và Thật đều chẳng thể nghĩ bàn. Hai câu kinh văn này tuy giản lược,
nhưng có thể khiến cho hành giả trong hết thảy các phương tiện của Như Lai sẽ
chẳng còn ngờ vực nữa. Vì thế, hãy nên “xúc loại nhi trưởng”[38],
khiến cho văn nghĩa của toàn bộ bản kinh đều được [thấu hiểu] xuyên suốt như
thế. Đã khai thị đại lược đại Bồ Đề đạo xong, lại kết khuyến (khuyên lơn để kết
lại) ấn trì, cho nên nói “thừa thù thắng nguyện, nhữ đương trụ tư đạo” (nương
vào nguyện thù thắng, ngươi nên trụ trong đạo này). Đấy cũng là nhắc lại ý nghĩa thọ ký vậy!
(Kinh)
Nhĩ thời, Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Nguyện
thuyết tam thế vô ngại trí giới. Nhược Bồ Tát trụ thử giới giả, linh chư Phật,
Bồ Tát giai hoan hỷ cố”. Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim
Cang đẳng ngôn: - Phật tử đế thính! Nhược tộc tánh tử trụ thị giới giả, dĩ
thân, ngữ, ý hợp vi nhất, bất tác nhất thiết chư pháp. Vân hà vi giới? Sở vị
quán sát xả ư tự thân, phụng hiến chư Phật, Bồ Tát. Hà dĩ cố? Nhược xả tự thân,
tắc vi xả bỉ tam sự. Vân hà vi tam? Vị thân, ngữ, ý. Thị cố, tộc tánh tử! Dĩ
thọ thân, ngữ, ý giới, đắc danh Bồ Tát, sở dĩ giả hà? Ly bỉ thân, ngữ, ý cố, Bồ
Tát Ma Ha Tát ưng như thị học.
(經)爾時住無戲論執金剛白佛言:世尊!願說三世無礙智戒。若菩薩住此者,令諸佛菩薩皆歡喜故。如是說已,佛告住無戲論執金剛等言:佛子諦聽。若族姓子住是戒者,以身語意合為一,不作一切諸法。云何為戒?所謂觀察捨於自身,奉獻諸佛菩薩。何以故?若捨自身則為捨彼三事。云何為三?謂身、語、意。是故族姓子!以受身語意戒得名菩薩。所以者何?離彼身語意故。菩薩摩訶薩應如是學。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Xin
hãy nói tam thế vô ngại trí giới. Nếu Bồ Tát trụ trong giới này, sẽ khiến cho
chư Phật, Bồ Tát đều hoan hỷ”. Nói như thế xong, đức Phật bảo các vị như Trụ Vô
Hý Luận Chấp Kim Cang v.v… rằng: - Phật tử lắng nghe! Nếu tộc tánh tử trụ trong
giới này, do thân, ngữ, ý hợp thành một, sẽ chẳng làm hết thảy các pháp. Thế
nào là giới? Chính là quán sát, xả tự thân, dâng hiến chư Phật, Bồ Tát. Vì sao
vậy? Nếu bỏ tự thân, tức là bỏ ba sự. Những gì là ba? Tức là thân, ngữ, ý. Vì
thế, tộc tánh tử! Do thọ thân, ngữ, ý giới, mà được gọi là Bồ Tát. Vì lẽ nào
vậy? Do lìa thân, ngữ, ý. Bồ Tát Ma Ha Tát hãy nên học như thế).
Phần
kinh văn trước đó chỉ nhắc tới “thọ Tam Thế Vô Chướng Ngại Giới”, chưa nói rõ tướng ấy. Vì thế, ngài Trụ Vô Hý Luận Kim
Cang bèn thừa dịp nêu lời
hỏi. Lại
nữa, đức Thế Tôn chờ [có người hỏi] rồi mới nói, cũng là vì quyến thuộc trong
pháp môn mà nêu rõ. Nay tịnh giới ấy chính vì lấy trí ấn Trụ Vô Hý Luận Kim
Cang làm Thể; do vậy, [đức Phật] đặc biệt nói với vị tôn thánh này (ngài Trụ Vô
Hý Luận Chấp Kim Cang), vì muốn cho nhân và pháp tương ứng, hòng gởi gắm lưu
truyền. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê lại nói: “Giới tướng này cũng là câu gia
trì. Nếu khi truyền trao, trước hết hãy nên tụng trì bản tiếng Phạn; sau đấy
mới dùng ngôn ngữ địa phương để giải thích thì càng tốt lành hơn”. Nay
chép đầy đủ [nguyên âm tiếng Phạn] như sau:
Thất
rị nô (lắng nghe), củ la bổ đát-ra (tộc tánh
tử), đát thảm mạt lan (giới ấy), duệ đát-ra (nếu), củ
la bổ đát-ra (tộc tánh tử) ca da phạ ngập-mãng na sa (thân,
ngữ, ý), mế yết đát-ra nễ cật-sái bố na ram bà (kết hợp thành
một). A cật-rị tà (chẳng làm), tát ra-ma đạt ma xá (hết
thảy các pháp), ca đá ma giả bà (gọi là như thế nào), dã
a đát mãng bà phạ (quán tự thân), bát rị đát-dã ngung (xả
để hiến dâng), bột đà bồ đề tát đá-phệ tệ (các vị Phật, Bồ
Tát), trớ yết sa-ma đệ đổ (vì sao vậy), rị
dữu hệ a đát-ma bà vãm (nếu tự thân), bát rị để-dã
nhã để (xả thí), đế na phạ tát-đổ đát-rị diên (ba vật
ấy), bát rị để-dã yết-đan bà phạ để (bỏ làm), yết đá
mãng thất-giả phạ-đát tốt đổ đát-ra diên (thế nào là ba vật) dã
nỗ đá ca tà phạ ngập mãng na y để (thân, ngữ, ý), đát
tát man trớ rị-hệ (vì thế), câu la bổ đát-ra (thiện
nam tử) ca tà phạ ngập mãng na tam phạ ra tam vật-lật đế na (thọ
thân ngữ ý giới), bồ đề tát đát-phệ na (Bồ Tát), bà vĩ
đát vật-diễm (sẽ đạt được), đát yết sa-ma đệ đổ (vì
lẽ nào), lật-nẵng ca tà phạ ngập mãng na san bát rị để-dã nhĩ-dã (bỏ
lìa thân, ngữ, ý ấy), thích xoa cật-ra ha xá (hãy nên
học), củ mạn (chẳng lạnh) để (làm), Bồ
Đề Tát Đỏa Ma Ha Tát Đỏa y để” (Bồ Tát Ma Ha Tát, Y Để là câu để đệm).
Câu
thứ nhất là nói “Phật tử đế thính” (Phật tử hãy lắng nghe). Củ
La (Kula) trong tiếng Phạn có nghĩa là “tộc”,
hoặc “bộ”, Bổ Đát La (Putra) có nghĩa là “nam tử” (con trai). Nếu giải thích theo Thế Đế, thì sanh
trong bốn chủng tánh đều gọi là Đại Tộc; vì thế gọi là Tộc Tánh Tử. Nay được
sanh trong nhà Như Lai, thù thắng nhất trong các gia tộc. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê
nói: “Hãy nên hiểu ý, dịch là Phật tử vì chú trọng nơi ý nghĩa”.
Kinh
dạy “nhược tộc tánh tử trụ thị giới giả, đương dĩ thân ngữ ý hợp nhi vi
nhất” (nếu tộc tánh tử trụ trong giới này, hãy nên đem thân, ngữ, ý
hợp thành một). Giới này tiếng Phạn gọi là Tam Phạ La (Saṁvara), có nghĩa là “cộng duyên, cùng
thành tựu giới này”. Đó gọi là huệ, phương tiện v.v… hợp thành.
Như Thi La (Śīla) chỉ có nghĩa
là “thanh tịnh”. Hơn nữa, Tam Phạ La có nghĩa là “bình
đẳng”. Đức Phật bảo kết hợp thân, ngữ, ý thành một, tức là trụ trong
pháp môn Tam Bình Đẳng (thân, ngữ, ý bình đẳng); cho nên
được gọi là Tam Thế Vô Chướng Ngại Giới. Như đức Phật đã vì các Thanh Văn nói
đại lược giáo giới, tức là nói ba nghiệp đạo thanh tịnh ấy chính là đạo của bậc
đại tiên nhân. Từ mười
hai năm sau, Ngài hơi diễn nói ý nghĩa, tạo thành các thứ luật nghi. Nay phần
lược giảng ý nghĩa của giới trong trì minh (trì chân ngôn) cũng giống như thế.
Nếu phương tiện nơi ba nghiệp của hành nhân thảy đều thật sự thuận theo Tam Bình Đẳng Xứ
(thân ngữ ý bình đẳng), hãy nên biết đấy chính là trọn đủ luật nghi của hết
thảy chư Phật. Lại còn xé rách lưới tưởng, đó là ý nghĩa của Tam Phạ La. Ý nói:
Lưới các hý luận và kiến giải, do sợi ngang và sợi dọc hợp thành, trùng lặp,
chồng chéo, nên gọi là Lưới. Nay hành giả quán thân nghiệp và khẩu nghiệp chẳng
có một cái Thể riêng biệt, cuối cùng đều quy vào gốc thì chỉ là một cái tâm,
nhưng Thật Tướng của cái tâm ấy luôn là pháp giới bình đẳng. Vì thế, khi
trụ trong giới ấy, các thứ thân, khẩu, ý nghiệp đều có cùng một tướng, vô lượng
lưới kiến chấp thảy đều trừ sạch. Do vậy được gọi là “Trụ Vô Hý Luận
kim cang ấn”.
Kinh
nói: “Bất tác nhất thiết chư pháp” (chẳng làm hết thảy các
pháp): Các thứ Ngũ Ấm nương vào phiền não, phiền não nương vào nghiệp. Các thứ
nghiệp ấy đều do thân, miệng, ý sanh ra. Như xét theo thân, miệng, ý, mà chia
thành mười loại nghiệp đạo thiện ác. Xét theo đầu mối của chúng, đều là vô lượng vô
biên. Do vậy, hễ tu hành ba nghiệp thì đều có hạnh để tiến nhập. Kẻ chẳng tiến
nhập tức là do suy tưởng điên đảo. Do suy tưởng điên đảo, nên có vô lượng tướng
sanh. Vì thế, bị các tướng gây trở ngại, chẳng đạt được vô ngại trí của Phật.
Nay hành giả quán sâu xa mười câu duyên sanh, biết rõ ba nghiệp rốt ráo chẳng
sanh, pháp tánh vốn tự thường hằng, chẳng có động tác. Đó gọi là “trụ
vô vi giới”. Tịnh giới như thế còn chẳng phải do Như Lai thực hiện,
huống hồ trụ vào giới này mà tạo tác các pháp ư?
Kinh
dạy: “Vân hà vi giới? Sở vị quán sát, xả ư tự thân, phụng hiến chư
Phật, Bồ Tát. Hà dĩ cố? Nhược xả tự thân, tắc vi xả bỉ tam sự! Hà đẳng vi tam?
Vị thân, ngữ, ý” (Thế nào là giới? Tức là quán sát, xả tự thân để dâng
hiến chư Phật, Bồ Tát. Vì sao vậy? Nếu bỏ thân mình, sẽ có thể bỏ ba sự. Những
gì là ba? Tức là thân, ngữ, ý). Kế đó, nói về phương tiện trọn đủ huệ để trì vô
tác giới. Hành giả quán trong Thật Tế của thân thì thân chẳng thể được. Đó
chính là sự giải thoát của Như Lai. Vì thế, bỏ sạch thân này, thí cho hết thảy
các Như Lai. Từ đấy trở đi, động tác, hành vi, hễ
thực hiện điều gì, đều là sự giải thoát của Như Lai, chẳng vì thân mình. Tuy đủ
loại vạn hạnh hừng hực, trang nghiêm cõi Phật, thành thục chúng sanh, nhưng
pháp tánh vốn sẵn như thế, chẳng phải là tạo tác. Người có thể dâng hiến, tu
tập như thế, thì gọi là “vô biên phước tụ”, gọi là “vô
tận phước hà” (sông phước vô tận). Hễ
tạo thiện căn chừng bằng mảy giọt, gieo vào biển pháp giới, sẽ có thể cứu vớt
chúng sanh giới cũng chẳng cạn kiệt.
[Thiện
Vô Úy] A-xà-lê nói: “Trong bản tiếng Phạn, có bài kệ rằng: - Nếu có
người giải thoát, trì pháp giải thoát này, cúng dường bậc giải thoát, phước ấy
thù thắng nhất”. Nếu hành nhân Chân Ngôn chẳng hiểu tịnh giới như
thế, dẫu miệng tụng chân ngôn, thân trì mật ấn, tâm trụ trong Bổn Tôn
tam-muội, tu trọn đủ các nghi thức cúng dường chư tôn theo thứ tự, vẫn gọi
là “tạo tác các pháp, chẳng lìa lưới nhân ngã”, sao có thể gọi
là Bồ Đề Tát Đỏa cho được? Vì thế, tiếp đó kinh nói: “Thị cố, tộc tánh
tử! Dĩ thọ thân ngữ ý giới, đắc danh Bồ Tát. Sở dĩ giả hà? Ly bỉ thân ngữ ý cố.
Bồ Tát Ma Ha Tát ưng như thị học” (Vì thế, tộc tánh tử! Do thọ thân,
ngữ, ý giới mà được gọi là Bồ Tát. Vì cớ sao vậy? Do lìa thân, ngữ, ý. Bồ Tát
Ma Ha Tát hãy nên học như thế). “Ưng học” ở đây, được
dịch theo lối cũ là Thức Xoa Ca La Ni (Śikṣākāraṇī),
giống như thiên thứ năm trong Giới, thâu nhiếp chung các kiền-độ[39] oai
nghi hành pháp trong Tỳ Ni (Vinaya, Luật Tạng). Người học Đại Thừa
cũng giống như
thế, hãy nên trì giới phương tiện này, nhập trọn khắp hết thảy các hạnh chân
ngôn. Nếu giới có thiếu khuyết mà được thành Bồ Tát hạnh, chẳng có lẽ ấy!
(Kinh) Thứ ư minh nhật, dĩ Kim
Cang Tát Đỏa gia trì tự thân, vị Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na tác lễ. Ưng thủ tịnh
bình, thịnh mãn hương thủy, trì tụng Hàng Tam Thế chân ngôn, nhi dụng gia chi,
trí sơ môn ngoại, dụng sái thị chư nhân đẳng. Bỉ A-xà-lê dĩ tịnh hương thủy, thọ dữ linh ẩm, bỉ
tâm thanh tịnh cố.
(經)次於明日,以金剛薩埵加持自身,為世尊毘盧遮那作禮,應取淨瓶盛滿香水,持誦降三世真言而用加之。置初門外,用灑是諸人等。彼阿闍梨以淨香水授與令飲,彼心清淨故。
(Kinh: Kế
đó, vào ngày hôm sau, dùng Kim Cang Tát Đỏa để gia trì tự thân, vì Thế Tôn Tỳ
Lô Giá Na mà làm lễ. Hãy nên lấy cái bình sạch, đựng đầy nước thơm, trì tụng
chân ngôn Hàng Tam Thế, dùng để gia trì, đặt ở ngoài cửa tầng ngoài cùng [của
đàn tràng], dùng rưới lên những người ấy. Vị A-xà-lê dùng nước thơm thanh tịnh
trao cho họ bảo uống, nhằm [khiến cho] tâm họ thanh tịnh).
Kinh
dạy: “Thứ ư minh nhật, dĩ Kim Cang Tát Đỏa gia trì tự thân, vị Thế Tôn
Tỳ Lô Giá Na tác lễ” (Kế đó, vào ngày hôm sau, dùng Kim Cang Tát Đỏa
để gia trì bản thân, đảnh lễ Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na Phật), tức là nói ngày hôm
sau thọ giới, chính là chiều ngày thứ bảy. Khi thực hiện các sự việc để tạo tác
Mạn-đồ-la, đều nên dùng Kim Cang Tát Đỏa để gia trì tự thân, tức là quán thân
mình chính là Chấp Kim Cang. Phương tiện trong ấy, sẽ như kinh văn trong phần
sau và Thứ Tự Cúng Dường sẽ nói. Nếu là bậc A-xà-lê kiến đế, sẽ trụ trong tâm
Kim Cang Tát Đỏa; đó gọi là “vô
đẳng đẳng Bồ Đề tâm”. Do được bí mật gia trì như thế, các việc làm đều
chẳng thể phá hoại. Kế đó, hãy như trước mà vận tâm, lễ bái Đại Nhật Như Lai. Sau đấy mới trì tụng chân ngôn Hàng Tam Thế
để gia trì tịnh bình[40].
Đấy cũng là chân ngôn Thành Biện Chư Sự. Trước hết, hãy nên đúng như pháp, lấy
cái bình sạch sẽ, múc nước
thanh khiết [từ giếng hay suối thanh tịnh], đúng như pháp chắt lọc. Trong bình
đựng, bỏ vào đó năm thứ báu, ngũ cốc, lại lấy các thứ nước thơm, các thứ hoa
quả đẹp đẽ cắm
vào đó, trang nghiêm đủ mọi lẽ, dùng vải lụa sạch sẽ buộc cổ bình, đều nên dựa
theo Thứ Tự Cúng Dường để gạt trừ cấu nhơ, tịnh hóa bằng chữ Pháp Giới Tâm
(Raṃ) rồi mới gia trì. Nói chung, số lượt
tụng chân ngôn chẳng có hạn lượng nhất định, hãy nên dùng chữ để tính như trong
kinh Tô Tất Địa[41] đã
nói.
Lại
nữa, ở trong ấy, hễ thực hiện Mạn-đồ-la của tam bộ (Phật bộ, Liên Hoa bộ, Kim
Cang bộ), đối với mỗi bộ, đều dùng Bộ Tâm (tâm chú trong một bộ) hoặc Bộ Mẫu[42] chân
ngôn để gia trì. Nay trong kinh này, thông dụng dùng Biện Sự Chân Ngôn để gia
trì. Chân ngôn ấy lại có rộng và lược. Vì thế, chẳng luận định cặn kẽ số lượt,
hãy nên suy nghĩ cân nhắc. Nếu chú quá lớn (quá nhiều chữ) thì tụng tới một
trăm lượt, kém hơn thì năm trăm lượt, ít chữ thì tụng tới một ngàn lượt. Đã gia
trì xong, hãy nên đặt [bình chứa nước sạch ấy] ở ngoài cửa của bạch đàn như đã
hoạch định trước đó. Người muốn vào Mạn-đồ-la, hãy nên dùng nước này rẩy lên,
khiến cho túc chướng của người đó trừ sạch thì mới được thấy Mạn-đồ-la.
Lại
từ trong một bình chứa khác, pha chế nước thơm, dùng các thứ hương tốt đẹp như
uất kim, long não, chiên đàn v.v… [để pha trộn], trao cho [đệ tử] bảo họ uống
một chút. Đó gọi là Kim Cang Thủy. Do được bí mật gia trì, thậm chí trọng
chướng địa ngục thảy đều trừ diệt, trong lẫn ngoài đều thanh tịnh, kham làm
pháp khí. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Đây gọi là thệ thủy, cũng là
thuận theo Thế Đế, giống như cách giao ước lập thệ, khiến cho hành nhân đối
trước các vị tôn thánh, uống nước thơm ấy, tự thệ nơi tâm, sao cho chẳng thoái
thất đại Bồ Đề nguyện”. Lại dùng vô ngại giới hương hòa hợp với tâm
thủy trong sạch nơi môn chữ Phạ (व, Va), ai được uống vào, hoặc tiếp xúc, đều
nhất định thành Vô Thượng Bồ Đề. Thanh
tịnh cái tâm như thế, tức là kham nhập Bí Mật Mạn-đồ-la.
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim
Cang Bí Mật Chủ dĩ kệ vấn Phật: - Chủng Trí thuyết trung
tôn, nguyện thuyết bỉ thời phần. Đại chúng ư hà thời, phổ tập hiện linh thụy,
Mạn-đồ-la xà-lê, ân cần trì chân ngôn?
(經)爾時執金剛祕密主以偈問佛:種智說中尊,願說彼時分。大眾於何時,普集現靈瑞,漫荼羅闍梨,慇懃持真言?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim
Cang Bí Mật Chủ dùng kệ hỏi đức Phật: “Đấng thuyết pháp bậc nhất, bậc Nhất
Thiết Chủng Trí, xin hãy nói thời phần, đại chúng vào lúc nào, cùng nhóm hiện
điềm lành. Mạn-đồ-la xà-lê, ân cần trì chân ngôn?”)
Từ “nhĩ
thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ dĩ kệ vấn Phật” (lúc bấy giờ, Chấp Kim
Cang Bí Mật Chủ dùng kệ hỏi đức Phật) trở đi, nói về chi phần “tạo lập Mạn-đồ-la”. Trong kệ tụng, trước hết là tán thán
Phật: Kính mong đấng Nhất Thiết Trí, bậc nhất trong các vị thuyết pháp, sẽ nói
về thời phần của pháp môn này. “Thời phần” tức là thời gian
hạn lượng từ lúc mới vẽ Mạn-đồ-la cho đến khi xong việc. Kế đó nói “đại
chúng ư hà thời, phổ tập hiện linh thụy” (đại chúng vào lúc nào, sẽ
nhóm họp trọn khắp, hiện điềm lành linh diệu), tức là hết thảy các thân phổ môn
[của các vị tôn thánh] theo từng loại trong Đại Bi Thai Tạng khi nào sẽ nhóm
họp trọn khắp, hiện tiền trong đạo tràng, dùng thần lực gia trì, thị hiện oai
thần ứng nghiệm. Nếu đệ tử các căn thanh tịnh, nhạy bén, căn cơ đáng được độ
sâu xa, sẽ có thể là từ ngay trong thân này, đích thân trông thấy vô biên thánh chúng,
chẳng khác gì người tham dự hội Linh Sơn cùng thấy [đức Phật] ba lượt biến ra
cõi tịnh để dung nạp phân thân chư Phật. Hãy nên biết khi đó, tức là lúc
Mạn-đồ-la A-xà-lê truyền trì lời chân thành, chắc thật, thực hiện Như Lai sự.
Vì thế nói: “Ân cần trì chân ngôn”.
(Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm,
cáo Trì Kim Cang Huệ: - Thường đương ư thử dạ, nhi tác mạn-đồ-la, truyền pháp
A-xà-lê, như thị ưng thứ thủ, ngũ sắc Tu-đa-la, khể thủ nhất thiết Phật, Đại Tỳ
Lô Giá Na, thân tự tác gia trì. Đông phương dĩ vi thủ, đối trì Tu-đa-la, chí tề
nhi tại không, tiệm thứ hữu toàn chuyển. Như thị Nam cập Tây, chung
cánh ư Bắc phương. Đệ nhị an lập giới, diệc tùng sơ phương khởi, ức niệm chư
Như Lai. Sở
hành như thượng thuyết, hữu phương cập hậu phương, phục châu ư thắng phương.
A-xà-lê thứ hồi, y ư Niết-rị-để, thọ học đối trì giả, tiệm thứ dĩ Nam hành. Tùng thử hữu toàn nhiễu,
chuyển y ư Phong phương. Sư vị di bổn xứ, nhi cư
ư Hỏa
phương. Trì chân ngôn hành giả, phục tu như thị pháp. Đệ tử tại Tây Nam, sư cư
Y-xá-ni. Học giả phục toàn nhiễu, chuyển y ư Hỏa phương. Sư vị di bổn
xứ, nhi trụ ư Phong phương.
(經)爾時薄伽梵,告持金剛慧:常當於此夜,而作漫荼羅。傳法阿闍梨,如是應次取,五色修多羅,稽首一切佛。大毘盧遮那,親自作加持,東方以為首,對持修多羅,至齊而在空,漸次右旋轉,如是南及西,終竟於北方。第二安立界,亦從初方起,憶念諸如來,所行如上說,右方及後方,復周於勝方。阿闍梨次迴,依於涅哩底,受學對持者,漸次以南行,從此右旋遶,轉依於風方,師位移本處,而居於火方。持真言行者,復修如是法,弟子在西南,師居伊舍尼,學者復旋遶,轉依於火方,師位移本處,而住於風方。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Bạc Già Phạm bảo Trì Kim Cang Huệ: - Thường nên trong đêm này, tạo lập Mạn-đồ-la. A-xà-lê
truyền pháp, kế đó hãy nên lấy, chỉ ngũ sắc như thế. Đảnh lễ hết thảy Phật, Đại
Tỳ Lô Giá Na, đích thân làm gia trì. Khởi đầu từ phương Đông, đối diện tay cầm
chỉ, ngang rốn tại hư không, xoay dần theo chiều phải, từ Nam cho đến Tây, rốt
cuộc tới phương Bắc. An lập giới thứ hai, cũng từ phương đầu khởi (từ phương
Đông mà bắt đầu), nghĩ nhớ các Như Lai, đi đúng như nói trên, phương phải và
phương sau, hết một vòng về Bắc. Kế đó, thầy trở về, ở nơi Niết-rị-để (phương
Tây Nam). Người học đối diện cầm (tức cầm chỉ ngũ sắc đã được gia trì), lần
lượt sang phương Nam. Từ đó, vòng chiều phải, chuyển sang ở phương
Phong (phương Tây Bắc). Thầy bèn dời khỏi chỗ, đến ở nơi Hỏa phương (phương
Đông Nam). Hành giả trì chân ngôn, lại tu pháp như vậy. Đệ tử ở Tây Nam, thầy ở
Y Xá Ni (phương Đông Bắc). Người học lại nhiễu quanh, chuyển sang trụ phương
Hỏa (Đông Nam). Thầy lại dời khỏi chỗ, sang trụ nơi phương Phong).
[Ngài
Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ] nói bài kệ ấy xong, lúc đó, đức Thế Tôn bảo Trì Kim
Cang Huệ rằng: “Thường đương ư thử dạ, nhi tác Mạn-đồ-la” (thường
ngay trong đêm ấy, mà tạo Mạn-đồ-la), tức là trong đêm thứ bảy, khiến cho pháp
sự đều hoàn tất. Trong ngày hôm ấy, [khoảng thời gian] sau khi mặt trời lặn cho
đến khi tướng sáng xuất hiện (tức rạng đông ngày hôm sau) được gọi chung
là “đêm”. Khi bắt đầu vào đêm (lúc mặt trời lặn), liền vẽ vời, xếp đặt
tọa vị của các vị tôn thánh, sắp đặt các vật cúng dường. Khi tướng sáng [của ngày hôm sau] chưa xuất hiện, bèn tống
tiễn [chư thánh] xong xuôi. Nếu trái nghịch pháp tắc này, sẽ sanh ra chướng
ngại, cho tới khiến cho chỗ nương vào để trụ cũng chẳng cát tường.
Nhưng
nếu giải thích theo cách bí mật, sâu xa, thì chính là coi cơ hội tốt lành cho
đạo cơ là “thời”, hoặc dùng phương tiện gia trì, rút gọn trăm
kiếp thành một đêm, hoặc kéo dài một đêm thành trăm kiếp. Dài hay ngắn do
duyên, chẳng có thời hạn nhất định! Nếu
là thiển hạnh A-xà-lê, sẽ cần phải hoàn toàn tuân theo pháp tắc, trong lúc ban
ngày sẽ tính toán, vẽ phần đường ranh [của Mạn-đồ-la], dùng các thứ thảo mộc
như bạch đàn v.v… để ấn định phương vị của hình tượng chư tôn thánh. Từ ban ngày cho tới lúc tối, sắp sẵn hương, hoa,
đèn, đuốc v.v… đều phải chuẩn bị đầy đủ. Kinh Cù Hê nói: “Ư Mạn-đồ-la
Bắc diện nhất xứ, dĩ bạch sắc quy hoạch Biện Sự Chân Ngôn tịch trừ chư nạn, trí
chư cúng cụ dã” (Ở một chỗ tại mặt Bắc của Mạn-đồ-la, dùng màu trắng
để ấn định chỗ vẽ chân ngôn biện sự nhằm đoạn trừ các nạn, đặt các vật cúng
dường). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu chẳng thể trong một đêm vẽ khắp
hình tượng của các tôn giả, hãy từ ngày thứ năm, sau khi thọ trì địa, bèn lần
lượt làm, theo lý thì chẳng trở ngại gì”. Lại còn có ba loại phương
tiện vẽ hình ấn và chữ chủng tử của chư tôn như kinh văn trong phần sau sẽ nói.
Kinh
nói “truyền pháp A-xà-lê” đã biết thời phần, tức là hiểu rõ
nghi quỹ tạo lập. Tới lúc mặt trời lặn, A-xà-lê cùng các đệ tử phụ giúp đúng
như pháp tắm gội xong, mặc áo mới sạch, dấy tâm đại bi, cầm các vật cúng đến chỗ Mạn-đồ-la. Trước hết, hãy
nên mỗi mỗi đều gia trì đúng pháp trọn đủ như trong phần Thứ Tự Cúng Dường đã
nói. Kế đó, hãy nên đúng như pháp hộ trì bản thân. Gọi đệ tử được độ đến, thầy
tác pháp thủ hộ cho họ, dùng nước thơm rảy lên, bảo họ đều theo thứ tự mà ngồi
tại một nơi. Sau đấy, A-xà-lê tới trước cửa đạo tràng, vận tâm trọn khắp, dập
đầu đảnh lễ mười phương hết thảy chư Phật cũng như trong phần trên đã nói. Sau
đấy, cầm dây ngũ sắc, đứng hướng về phương vị của Mạn-đồ-la mà đặt lên đỉnh đầu. Kế đó, quán thân mình là
Tỳ Lô Giá Na, kinh gọi chuyện này là “Đại Tỳ Lô Giá Na nhi tự tác gia
trì” (dùng Tỳ Lô Giá
Na để tự gia trì). Vì cớ sao vậy? Do Đại Nhật Như Lai chính là
A-xà-lê của Đại Bi Thai Tạng này. Vì vậy, nếu lúc hành giả làm chuyện của A-xà-lê, liền phải
nên tưởng tự thân là Tỳ Lô Giá Na. Nếu lúc làm các việc dựa theo Mạn-đồ-la, bèn
quán tự thân là Kim Cang Tát Đỏa. Phương tiện gia trì này sẽ được nói trong
pháp Cúng Dường thuộc phần sau.
Lại
nữa, hành giả hãy nên biết tám vị trí thủ hộ thuộc các phương. Phàm tạo tác
Mạn-đồ-la đều thuận theo các vị trí ấy mà di chuyển. Từ phương Đông Nhân
Đà La (Indra, Đế Thích) theo thứ tự chuyển tới phương Nam Diễm Ma La (Yamarāja, Diêm Vương), phương Tây Phạ Rô Noa (Varuṇa, thủy thần), phương Bắc Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa, Đa Văn thiên vương), Đông Bắc Y Xá
Ni (Īśana, tức thần Shiva), Đông Nam là Hộ Ma (hỏa cúng), Tây Nam là Niết Rị Để (Nirṛti)[43], Tây
Bắc là Phạ Dữu (Vāyu, thần gió). Các tôn thánh thuộc phương trên phần
nhiều ở bên phải của Đế Thích. Chư tôn thuộc phương hạ phần nhiều ở
bên phải của Long Tôn. Phương thượng là Không Cư, phương hạ là Địa Cư.
Lại
nữa, đối với Trung Đài Tạng thì ba lớp thành trì[44] ranh
giới đều đã hoạch định sẵn để làm tiêu chí, khiến cho các phương và các góc cân
bằng. Phải ấn định phương vị trọn vẹn để vẽ mạn-đồ-la sao cho vị trí của
Đại Nhật Phật nằm ở ngay giữa năm loại khối báu. Tới lúc vẽ các hình tướng,
A-xà-lê trước hết tới phương Nhân Đà La (phương Đông), đúng như pháp lễ bái. Kế
đó, đứng ở phương Hỏa (phương Đông Nam), hướng về phương Bắc. Các đệ tử phụ tá
thầy thì đứng ở phương Y Xá Ni (phương Đông Bắc). Đối diện nhau, tay cầm
Tu-đa-la (chỉ ngũ sắc như đã nói trong phần trước) để chuẩn định [phương vị của] ngoại
giới. Kế đó, đệ tử xoay theo chiều phải tới vị trí Niết Rị Để (phương Tây Nam),
thầy cũng xoay theo chiều phải hướng về phương Tây, đối diện nhau mà cầm [chỉ ngũ
sắc]. Kế đó, A-xà-lê lại
nhiễu theo chiều phải, tới phương vị của
Phạ Dữu (Tây Bắc). Đệ tử cũng nhiễu theo chiều phải trở về phương Bắc đối diện thầy, cầm chỉ. Đệ tử lại nhiễu theo
chiều phải tới phương vị Y Xá Ni (Đông Bắc). Thầy cũng nhiễu theo chiều phải,
trở về phương Đông, cầm chỉ đối diện [với trò]. Hễ giáp một vòng xong, đều nên
căn [sao cho chỉ được căng ấy] ngay ngắn, vuông vắn trên không trung. Tới vòng
thứ hai, cũng chuyển theo chiều phải như trên, theo thứ tự căng dây để làm
đường ranh (tức phân định ranh giới giữa các viện trong Mạn-đồ-la). Kế đó,
chuẩn định đúng bốn góc. A-xà-lê lại nên nhiễu theo chiều phải tới Niết Rị Để
(Tây Nam), còn đệ tử trước tiên ở Y Xá Ni (Đông Bắc), xoay theo chiều phải, đối
diện mà cầm dây. Kế đó, đệ tử lại nhiễu theo chiều phải đến phương Phạ Dữu (Tây
Bắc), thầy liền chuyển theo chiều phải đến phương Hộ Ma (Đông Nam), đệ tử cũng
theo xoay theo chiều phải đối diện mà cầm chỉ ngũ sắc, sao cho [chỉ được căng] ngang rốn ở trên hư không,
để chuẩn định phương vị. Kế đó, đệ tử lại xoay theo chiều phải đến phương Niết
Rị Để, thầy liền chuyển theo chiều phải đến phương vị Y Xá Ni, đối mặt nhau mà
buộc dây. Kế đó, đệ tử lại nhiễu theo chiều phải tới phương vị Hộ-ma (Đông
Nam), thầy liền chuyển theo chiều phải tới phương Phạ Dữu, đối diện mà buộc
dây. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Đối với đường chữ thập ở bốn
phương, tuy kinh không nói, nhưng theo lý ắt phải có, cũng cần phải xoay theo
chiều phải, đối diện nhau để buộc”.
(Kinh)
Như thị chân ngôn giả, phổ tác tứ phương tướng, tiệm thứ nhập kỳ trung, tam vị
dĩ phân chi, dĩ biểu tam phận vị, địa tướng phổ châu biến. Phục ư nhất
nhất phần, sai biệt dĩ vi tam. Thị trung, tối sơ phần, tác nghiệp sở hành đạo.
Kỳ dư trung hậu phần, thánh thiên chi trụ xứ.
(經)如是真言者, 普作四方相,漸次入其中,三位以分之。已表三分位,地相普周遍,復於一一分,差別以為三。是中最初分,作業所行道,其餘中後分,聖天之住處。
(Kinh:
Người trì chú như thế, tạo trọn tướng bốn phương, dần dần vào chính giữa, chia
mỗi tầng làm ba, biểu thị ba phận vị, tướng đất đều trọn khắp. Ở trong mỗi một
phần, chia ba phần sai khác. Trong ấy, phần thứ nhất, nơi tác nghiệp, tu đạo. Phần
giữa và sau đó, chỗ trụ của thánh, trời).
Ấn
định [phương vị của] ngoại giới (phía ngoài Trung Đài Bát Diệp) và tướng tám
phương như thế xong. Kế đó, vào bên trong, trước hết ấn định ngoại giới của
Trung Đài, cũng giống như trên xoay chuyển để căng dây hòng xác định tướng bốn phương. Ấn định
tướng tám phương xong, sẽ chẳng còn làm nữa. Kế đó, ấn định tầng ngoại giới thứ
nhất, rồi ấn định tầng ngoại giới thứ hai, cũng theo cùng pháp tắc như Trung
Đài. Kích thước rộng hẹp sẽ đều lần lượt bằng một nửa, [nghĩa là]: Giả sử Trung
Đài có kích thước mỗi bề là tám thước, tầng thứ nhất [ở ngoài Trung Đài] sẽ là bốn thước,
tầng thứ hai là hai thước, tầng thứ ba thì rộng một thước. [Thiện Vô Úy]
A-xà-lê nói: “Bổn pháp là như thế. Nếu sợ lớn nhỏ cách biệt quá nhiều,
có thể cân nhắc sao cho cân bằng, theo lẽ thì chẳng trở ngại gì”.
Chia
như thế xong, lại trong mỗi tầng, đều
chia thành ba phần. Phần ở trong cùng là chỗ đường bao quanh để đi lại, vì thế
nói là “Phật tử sở hành đạo”. Phần kế tiếp là chỗ đặt các vật
cúng dường. Phần ngoài cùng là chỗ đặt tọa vị của các vị tôn thánh. Vì thế, hai
phần đó đều là chỗ của tôn thánh và chư thiên [cho nên kinh nói: “Kỳ dư
trung hậu phần, thánh thiên chi trụ xứ” (hai phần giữa và sau còn lại
kia, là chỗ trụ của tôn thánh và chư thiên)]. Kế đó, ở phía ngoài lại làm đường
ranh bao quanh trọn khắp. Đối với các tọa vị trống không đó, hãy nên vận tâm
quán sát, thuận theo chư tôn tương ứng với phương diện phần vị mà đều nên thỉnh vời,
cúng dường. Bởi lẽ, khi A-xà-lê gặp chuyện lỡ quên mất, hoặc sai lầm, có thể là
xếp đặt chư tôn [trong
Mạn-đồ-la] chẳng
toàn vẹn. Đối với các vị đáng nên thỉnh vời mà không có tọa vị, đều nên vận tâm
cúng dường nơi ấy. Cách chia thành ba phần này [như sau]: Trước hết, ở phía trong của tầng thứ nhất thuộc ngoại giới (tức phần ngoài của
Trung Đài Bát Diệp], chọn lấy chút phần dùng làm đường ranh
giới. Kích thước rộng hay hẹp đều nên cân nhắc để định đoạt, sao cho hơi thông
với các tọa vị. Phía trong ranh giới, hãy nên chia thành ba phần đều nhau. Hãy
nên là trước hết ấn định phần đặt tọa vị của chư tôn xong xuôi. Kế đó, ấn định
ranh giới của phần đặt đồ cúng dường và phần dùng làm đường đi. Tầng thứ nhất
như thế đã xong.
Kế
đó, đối với tầng thứ hai, cũng từ ngoài hướng vào trong mà lần lượt chia [thành
ba phần]. Kế đó, đối với tầng thứ ba, cũng [chia ba phần] giống như phần kinh
văn trên đây đã nói. Quang minh tỏa ra từ rốn của Đại Nhật Như Lai trở xuống là
các tọa vị thuộc tầng thứ ba. Quang minh phát ra từ rốn cho đến yết hầu là tọa
vị thuộc tầng thứ hai. Quang minh phát ra từ yết hầu cho đến đảnh tướng là tọa
vị thuộc tầng thứ nhất. Thai Tạng trong đó chính là hoa sen tám cánh nơi tự tâm
của đức Tỳ
Lô Giá Na. Các kim cang đệ tử cùng [giúp thầy] kiến lập Mạn-đồ-la cần phải khéo
thông đạt chân ngôn, pháp yếu, gần bằng với thầy, thì sẽ có thể giúp thầy chẳng
sai sót. Nếu chẳng có người như thế, chỉ chọn lấy người đã từng được quán đảnh
đúng pháp, gặp việc bèn chỉ dạy họ hành trì. Nếu lại chẳng có người như thế thì
dùng cọc [để đánh dấu phương vị]. Trước hết, đóng cọc tại Hỏa phương (phương
Đông Nam), kế đó ở tại phương Y Xá Ni (Đông Bắc) cũng đặt dây chăng, tức là
thầy trước đã ghi nhớ chỗ có cọc ở Hỏa phương là chỗ của thầy. Sau đấy, từ
phương Y Xá Ni kéo dây tới chỗ Niết Rị Để (Tây Nam); những điều khác cứ chuẩn
theo cách làm này
mà suy ra. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê lại bảo: “Muốn cùng kéo dây, cần phải
chọn đệ tử muốn được quán đảnh. Trước hết, dùng nước thơm đã gia trì rảy lên họ
để cùng làm việc. Đối với các phương vị được vẽ trong đàn, hãy dùng vật che
lại, đừng để cho họ trông
thấy”.
(Kinh)
Phương đẳng hữu tứ môn, ưng tri kỳ phận tễ. Thành tâm dĩ ân trọng, vận bố chư
thánh tôn. Như thị tạo chúng tướng, quân điều thiện phân biệt. Nội tâm diệu
bạch liên, Thai Tạng chánh quân đẳng, tạng trung tạo nhất thiết, Bi Sanh
Mạn-đồ-la. Thập lục ương-cụ-lê, quá thử thị kỳ lượng. Bát diệp chánh viên mãn,
tu nhị giai nghiêm hảo. Kim cang chi trí ấn, biến xuất chư diệp gian.
(經)方等有四門,應知其分劑,誠心以殷重,運布諸聖尊。如是造眾相,均調善分別,內心妙白蓮,胎藏正均等。藏中造一切,悲生漫荼羅,十六央具梨,過此是其量。八葉正圓滿,鬚蘂皆嚴好,金剛之智印,遍出諸葉間。
(Kinh:
Vuông vắn có bốn cửa, hãy nên biết ngằn mé. Thành kính, tâm trân trọng, sắp đặt các tôn thánh.
Tạo các tướng như thế, đều khéo léo phân biệt. Nội tâm diệu bạch liên, thai
tạng vừa ngay ngắn.
Trong đó, tạo Nhất Thiết, Bi Sanh Mạn-đồ-la. To mười sáu ngón tay, hơn đó làm
hạn lượng. Tám cánh thật tròn đầy, tua nhụy đều tươi đẹp. Các trí ấn kim cang,
hiện khắp trong các cánh).
“Phương
đẳng hữu tứ môn” (vuông vắn có bốn cửa), tức là mỗi
tầng viện đều đặt bốn cửa, sao cho ngay chính giữa, cân bằng. Cửa mở ra hướng
Tây thì thông suốt để ra vào, các cửa kia dùng dây chăng làm ranh giới chặn
ngang. Kinh Cù Hê nói: “Phàm chư phương khai môn, giai tùy bỉ phương
ngung quảng hiệp, chuẩn vi cửu phần. Thủ trung nhất phần vi môn. Kỳ dư bát phần
tắc môn chi tả hữu các đắc tứ phần. Sở xuất nhập môn sảo linh hoát tác. Tự dư
chư môn, dĩ
bạch sắc mạt tác họa bế chi” (Trổ cửa ở các phương đều tùy
theo mỗi phương
và góc rộng hay hẹp để chuẩn theo đó mà chia [phương đó] thành chín phần, dùng
một phần làm cửa. Tám phần
khác đều ở hai bên cửa, sao mỗi bên đều có bốn phần. Cửa để ra vào làm hơi rộng
hơn, các cửa khác đều dùng bột màu trắng để vẽ đóng lại). [Thiện Vô Úy]
A-xà-lê nói: “Dùng dây kim cang để chặn ngang ranh giới xong, ví như kim
cang chẳng thể vượt qua. Kẻ vượt qua sẽ phạm tam-muội-da. Hơn nữa, kinh
văn đều nói cửa để thông suốt hướng về phía Tây. Nếu có nhân duyên phải trổ cửa
hướng về phương khác, theo lý cũng chẳng phạm lỗi gì”. Những điều khác
như kinh văn trong phần sau sẽ nói.
“Thành
tâm dĩ ân trọng, vận bố chúng thánh tôn” (Thành tâm lòng trân trọn,
sắp xếp các vị tôn thánh): Khi vẽ vời, trước hết trụ trong Du Già, quán đại
chúng hội trong Mạn-đồ-la này, mỗi mỗi hình sắc, tướng mạo, oai nghi, tánh
loại, tọa vị, các ấn, thảy đều hiện tiền
rõ ràng trọn đủ. Sau đấy, dùng cái tâm vô lượng ân cần, cung kính mà vẽ vời,
cho đến mức độ lớn, nhỏ, thưa thớt hay dày đặc, cũng đều cân bằng tương xứng.
Vì thế nói: “Như thị tạo chúng tướng, quân điều thiện phân biệt” (tạo
các tướng như thế, đều khéo điều chỉnh, phân biệt sao cho tương xứng).
“Nội
tâm diệu bạch liên”: Đấy là bổn tâm của chúng sanh, là biểu trưng bí mật
của Diệu Pháp Phân-đà-lợi hoa (hoa sen trắng). Đài hoa có tám cánh, viên mãn,
cân bằng như hình thể đang nở tung. Đài hoa sen ấy chính là trí huệ tự nhiên
nơi Thật Tướng. Cánh hoa sen là phương tiện đại bi. Chính là dùng tạng này để
nói về cái Thể của Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la, ba tầng kia (ba tầng ngoại giới bao quanh Trung Đài) là
công đức tự chứng lưu xuất từ đó, tức các thiện tri thức nhập pháp giới môn
vậy. Bốn cánh sen đối diện với bốn phương chính là tứ trí của Như Lai, bốn cánh
sen ứng với bốn phương bàng là tứ hạnh của Như Lai. Xét theo đó, hiện thành tám
loại thiện tri thức, mỗi vị đều trì kim cang huệ ấn. Vì thế nói “biến xuất chư diệp gian” (hiện
ra trọn khắp trong các cánh sen). Mười sáu pháp như thế, mỗi mỗi đều bằng với
pháp giới, cho tới chẳng có chút phần nào không bình đẳng. Vì thế, tướng được
biểu thị cũng ngầm phù hợp, lược nhiếp vạn đức của Như Lai thành các vị tôn
thánh trong [đàn tràng Mạn-đồ-la to] mười sáu ngón[45],
mở rộng ra sẽ là vô lượng vô biên. Do vậy, kích thước nhỏ nhất của Mạn-đồ-la
bằng mười sáu ngón, lớn thì vô hạn.
“Tua
nhụy” là hết thảy các tam-muội môn, đà-la-ni môn, lục độ, mười tám món
Không v.v… như kinh Đại Bát Nhã đã nói. Từ mỗi
tua nhị ấy, do
được thần lực gia trì, sẽ hiện một loại quyến thuộc trang nghiêm trong ba tầng
Mạn-đồ-la. Đấy là pháp bí truyền của Như Lai, chẳng thể dùng văn tự để hình
dung được. Do vậy, gởi gắm vào hình vẽ để chỉ dạy hành nhân. Nếu hiểu được thâm
ý, sẽ tự ngầm biết mà thôi! Từ trong Thật Tướng hoa đài ấy, biểu lộ tướng gia trì của Đại Nhật Như
Lai, ý nghĩa như đã giải thích trong phần trước. Tám ấn bí mật kia sẽ được nói
trong phẩm sau và đồ hình.
(Kinh) Tùng thử
hoa đài trung, Đại Nhật thắng tôn hiện, kim sắc cụ huy diệu, thủ trì phát kế
quan. Cứu thế viên mãn quang, ly nhiệt trụ tam-muội. Bỉ Đông ưng họa tác, Nhất
Thiết Biến Tri Ấn, tam giác liên hoa thượng. Kỳ sắc giai tiễn bạch, quang diệm
biến vi nhiễu, hạo khiết phổ châu biến. Thứ ư kỳ Bắc duy, đạo sư chư Phật mẫu,
hoảng diệu chân kim sắc, cảo tố dĩ vi y, biến chiếu do nhật quang, Chánh Thọ
trụ tam-muội. Phục ư bỉ Nam phương, cứu thế, Phật, Bồ Tát. Đại đức thánh tôn
ấn, hiệu danh Mãn Chúng Nguyện, Chân Đà Ma Ni châu, trụ ư bạch liên hoa.
(經)從此華臺中,大日勝尊現,金色具暉曜,首持髮髻冠,救世圓滿光,離熱住三昧。彼東應畫作,一切遍知印,三角蓮華上,其色皆鮮白,光焰遍圍遶,皓潔普周遍。次於其北維,導師諸佛母,晃曜真金色,縞素以為衣,遍照猶日光,正受住三昧。復於彼南方,救世佛菩薩,大德聖尊印,號名滿眾願,真陀摩尼珠,住於白蓮華。
(Kinh: Từ
trong đài hoa ấy, hiện Đại Nhật thù thắng, sắc vàng trọn chói ngời, đội
mão che búi tóc. Cứu thế quang viên mãn, ly nhiệt trụ tam-muội. Phía Đông hãy
nên vẽ, Nhất Thiết Biến Tri Ấn, hình tam giác trên sen. Màu sắc đều trắng
sạch. Ánh lửa nhiễu trọn quanh, trắng sạch đều trọn khắp. Kế đó, ở góc Bắc, đạo
sư chư Phật mẫu, sắc vàng ròng chói ngời, dùng lụa trắng làm áo, chiếu khắp như
vầng dương, Chánh Thọ trụ tam-muội. Lại ở phía Nam Phật, cứu thế, Phật, Bồ Tát,
đại đức thánh tôn ấn, tên là Mãn Chúng Nguyện, châu Chân Đà Ma Ni, trụ trên
hoa sen trắng).
Kế
đó, ở phương Đông của nội viện[46],
ở phía trên của Đại Nhật Như Lai, hãy vẽ Nhất Thiết Biến Tri Ấn, có hình tam
giác, mũi nhọn hướng xuống dưới[47],
được bao quanh bằng quang minh có hình ngọn lửa sắc trắng, đặt trên hoa sen
trắng. Đấy chính là Đại Cần Dũng Ấn của mười phương ba đời hết thảy Như Lai,
cũng gọi là Tâm Ấn của chư Phật. “Tam giác” có nghĩa là hàng
phục, trừ chướng, tức là đức Phật ngồi nơi đạo thụ (cây Bồ Đề), dùng thế lực to lớn oai mãnh, hàng phục
tứ ma, thành Chánh Giác. Trắng tươi là màu của đại từ bi. Sức phấn tấn đại tinh
tấn của Như Lai chính là đại sự nhân duyên, cho tới phóng đại bi quang thường
trọn khắp pháp giới. Vì thế nói là “phổ châu biến” (giáp vòng
trọn khắp).
Kế
đó, ở phương Bắc của Đại Cần Dũng, ở góc phía Bắc, đặt Hư Không Nhãn (Gagana-locanī),
tức Tỳ Lô Giá Na Phật Mẫu. Oai nghi của Phật Mẫu như trong phẩm Phật Mẫu của
kinh Bát Nhã đã rộng nói. Chân kim (vàng ròng) là cái Thể của Như Như Thật
Tướng. “Tất cánh tịnh cú” (câu thành tựu rốt ráo) là trang sức
bên ngoài trong giáo môn của Ngài. Vì thế nói “cảo tố dĩ vi y” (dùng
lụa trắng làm áo). Khi diệt hết thảy hý luận, quang minh của vầng mặt trời nơi
tâm không đâu chẳng chiếu thấu; cho nên nói: “Biến chiếu do nhật quang” (chiếu
trọn khắp như ánh sáng mặt trời). Người điềm tĩnh mới có thể thấy quang minh
ấy. Vì thế, điểm đặc trưng của Ngài là có hình tượng giống
như thiên nữ trụ trong Chánh Thọ.
Kế
đó, ở phía Nam của Đại Cần Dũng, cho đến góc phía Nam, vẽ Nhất Thiết Chư Phật
Bồ Tát Chân Đà Ma Ni Ấn. Đấy là do tổng thể của vô biên hạnh nguyện thuộc Bồ
Đề tâm thanh tịnh kết thành,
thường có thể mưa trọn khắp hết thảy các của báu thế gian và xuất thế gian. Các
đấng cứu thế đều từ đài sen tánh tịnh hiện ra vật báu như thế. Vì thế nói “trụ
ư bạch liên thượng” (trụ trên hoa sen trắng). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê
nói: “Ấn này bao gồm hết thảy các ấn, cũng có thể đặt ở mọi phương. Như
chư Phật, Bồ Tát nếu trong kinh không nói rõ trì ấn tướng nào thì cũng cầm ấn
này, vô giá bảo châu đều đạt được”.
Nói
chung, trong tầng thứ nhất, phương trên [của Trung Đài Bát Diệp] là các đức
trang nghiêm nơi thân Phật. Phương dưới là Trì Minh Sứ Giả của Phật, đều gọi là
môn Như Lai Bộ. Bên phải[48] [của
Trung Đài Bát Diệp] là đại bi tam-muội của Như Lai, có thể trưởng dưỡng dồi dào
muôn điều thiện, nên gọi là Liên Hoa Bộ. Bên trái [của Trung Đài Bát Diệp] là
đại huệ lực dụng của Như Lai, có thể phá tan ba chướng, nên gọi là Kim Cang Bộ.
Vì thế, nhập vào môn chữ A, hết thảy các pháp chẳng sanh, đó là ý nghĩa của
Pháp Thân. Nhập môn chữ Sa, hết thảy các pháp chẳng đắm nhiễm, đó là ý nghĩa
của Liên Hoa. Nhập môn chữ Phạ, hết thảy các pháp lìa ngôn thuyết, đó là ý
nghĩa của Kim Cang. Như trong phẩm Tự Luân thuộc phần sau, sẽ dùng ba chữ ấy để
thống nhiếp hết thảy trăm bài minh chú là do ý nghĩa này.
(Kinh) Bắc
phương đại tinh tấn, Quán Thế Tự Tại giả, quang sắc như hạo nguyệt, Thương-khư,
Quân-na hoa, vi tiếu, tọa bạch liên. Kế hiện Vô Lượng Thọ. Bỉ hữu đại danh
xưng, thánh giả Đa La Tôn, thanh bạch sắc tương tạp, trung niên nữ nhân trạng,
hiệp chưởng trì thanh liên, viên quang mỵ bất biến, huy phát do tịnh kim. Vi
tiếu, tiễn bạch y. Hữu biên Tỳ Câu Chi, thủ thùy sổ châu man, tam mục, trì phát
kế, tôn hình do hạo tố, viên quang sắc vô chủ. Hoàng, xích, bạch tương nhập.
Thứ cận Tỳ Câu Chi, họa đắc Đại Thế Tôn, bỉ phục thương-khư sắc, đại bi liên
hoa thủ, tư vinh nhi vị phu, vi nhiễu dĩ viên quang. Minh phi trụ kỳ trắc, hiệu
Trì Danh Xưng giả. Nhất thiết diệu anh lạc, trang nghiêm kim sắc thân, chấp
tiễn diệu hoa chi, tả trì bát-dận-ngộ, cận thánh giả Đa La. Trụ ư Bạch Xứ Tôn, phát quan tập thuần
bạch, Bát Đàm Ma hoa thủ. Ư thánh giả tiền tác, Đại Lực Trì Minh Vương. Thần
triêu nhật huy sắc, bạch liên dĩ nghiêm thân. Hách dịch thành diễm man, hống nộ
nha xuất hiện. Lợi trảo, thú vương phát, Hà Da Yết Lợi Bà. Như
thị tam-ma-địa, Quán Âm chư quyến thuộc.
(經)北方大精進,觀世自在者,光色如皓月,商佉軍那華,微笑坐白蓮,髻現無量壽。彼右大名稱,聖者多羅尊,青白色相雜,中年女人狀,合掌持青蓮,圓光靡不遍,暉發猶淨金,微笑鮮白衣。右邊毘俱胝,手垂數珠鬘,三目持髮髻,尊形猶皓素,圓光色無主,黃赤白相入。次近毘俱胝,畫得大勢尊,彼服商佉色,大悲蓮華手,滋榮而未敷,圍遶以圓光。明妃住其側,號持名稱者,一切妙瓔珞,莊嚴金色身,執鮮妙華枝,左持鉢胤遇。近聖者多羅,住於白處尊,髮冠襲純帛,鉢曇摩華手。於聖者前作,大力持明王,晨朝日暉色,白蓮以嚴身,赫奕成焰鬘,吼怒牙出現,利爪獸王髮,何耶揭利婆,如是三摩地,觀音諸眷屬。
(Kinh:
Phương Bắc, Đại Tinh Tấn, là Quán Thế Tự Tại, quang sắc như trăng trong, Thương-khư, hoa Quân-na. Mỉm cười, ngồi sen
trắng. Đỉnh hiện Vô Lượng Thọ. Bên phải, Đại Danh Xưng, là đức thánh Đa La. Màu
xanh, trắng chen
lẫn. Tướng nữ nhân trung niên, chắp tay, cầm sen xanh. Viên quang chiếu trọn
khắp, rực rỡ như vàng ròng. Mỉm cười, áo trắng sạch. Bên phải, Tỳ Câu Chi, tay
cầm tràng hạt rủ, ba mắt, tóc kết búi. Hình dạng trắng tinh sạch. Viên quang
không màu chánh, vàng, đỏ, trắng xen lẫn. Gần bên Tỳ Câu Chi, hãy vẽ Đại Thế Chí.
Mặc áo màu thương-khư, tay hoa sen đại bi, tươi tốt, chưa nở xòe. Viên quang phủ khắp thân. Minh phi ở bên cạnh,
hiệu là Trì Danh Xưng. Hết thảy diệu anh lạc, trang nghiêm thân sắc vàng, cầm
cành hoa tươi đẹp. Trái cầm Bát-dận-ngộ. Gần thánh giả Đa La, là vị Bạch Xứ
Tôn. Mão che tóc lụa trắng, tay cầm hoa sen hồng. Trước thánh giả bèn vẽ, Đại
Lực Trì Minh Vương. Màu như ánh nắng sớm, hoa sen trắng nghiêm thân. Chói ngời
như vòng lửa,
giận, rống, nhe răng nanh. Vuốt bén, tóc thú vương, Hà Da Yết Lợi Bà. Tam-ma-địa
như thế, các quyến thuộc Quán Âm).
Kinh
dạy: “Đại Nhật hữu phương, trí đại tinh tấn Quán Thế Tự Tại” (ở
bên phải của đức Đại Nhật, vẽ bậc đại tinh tấn là Quán Thế Tự Tại); đó chính là
Liên Hoa Bộ Chủ[49],
tức là Như Lai rốt ráo quán sát mười câu duyên sanh, được thành tựu Phổ Nhãn
Liên Hoa, nên tên là Quán Tự Tại (Avalokiteśvara). Xét theo Như Lai hạnh, nên gọi là Bồ
Tát. “Đảnh hiện Vô Lượng Thọ” (kinh chép là “kế hiện
Vô Lượng Thọ” tức là trong búi tóc hiện ra Phật Vô Lượng Thọ) là nói
tới cực quả của cái hạnh ấy,
tức là Phổ Môn Phương Tiện Trí của Như Lai. Ngài có hình tượng giống như thân
Bồ Tát, đều hiện dung mạo trụ trong “hiện pháp lạc”, mỉm cười vui sướng. Thân
sắc của ngài Quán
Tự Tại như vầng trăng sạch, hoặc như Thương-khư
(Śaṅkha), tức là vỏ ốc thượng diệu. Hoặc như hoa Quân-na (Kunda)[50].
Hoa ấy mọc tại phương Tây, cũng rất trắng ngần. Hãy nên gộp chung cả ba thí dụ
ấy để nói [màu thân của Quán Tự Tại Bồ Tát] sáng ngời, tươi nhuận, trắng ngần
bậc nhất.
Bên
phải của Quán Âm, vẽ Đa La (Tārā) Bồ Tát. Phàm các vị tôn thánh đều hướng mặt
về đức Đại Nhật, nay nói “bên phải của Quán Âm”, tức là phía
Tây của tòa. Những vị khác đều phỏng theo lệ này. Đấy là Quán Tự Tại tam-muội;
vì thế, Ngài có hình tượng nữ nhân. Đa La có nghĩa là “mắt”. Hoa
sen xanh nghĩa là “thanh tịnh, vô cấu”. Dùng Phổ Nhãn như
thế để nhiếp thọ quần sanh, do chẳng phải thời trước mà cũng chẳng phải thời
sau, cho nên vẽ hình Ngài có hình dạng nữ nhân trung niên, [tức là] hình dạng
không quá già, mà cũng chẳng quá trẻ. Xanh[51] là
màu hàng phục, trắng là màu của đại bi; điểm
hay khéo là ở trong hai tác dụng ấy, nên khiến cho hai sắc hòa hợp. Do bởi
nghĩa ấy, [thân Ngài có màu sắc] chẳng xanh, chẳng trắng. Tượng Ngài được vẽ
chắp tay, bàn tay cầm hoa sen xanh, tay và mặt đều hướng về đức Quán Âm, vẻ mặt
như mỉm cười. Viên quang[52] nơi
toàn thân như sắc của chất vàng trong sạch (vàng ròng). Ngài mặc áo trắng, đầu
có búi tóc giống như hình búi tóc của chư thiên, khác với cái mão che búi tóc
của đức Đại Nhật.
Bên
trái đức Quán Âm, đặt thánh giả Tỳ Câu Chi (Bhṛkuṭī)[53].
Thân Ngài có bốn tay, một tay bên phải cầm mấy tràng hoa đẹp đẽ rủ xuống[54].
Một tay kết Thí Nguyện Ấn. Một tay bên trái cầm hoa sen, tay kia cầm bình Quân
Trì. Mặt Ngài có
ba mắt giống như hình tượng Ma Hê Thủ La (Maheśvara, Đại Tự Tại Thiên). Đầu đội mão bịt tóc,
giống như mão che búi tóc của đức Tỳ Lô Giá Na. Nói “trì” thì
như nói “đất duy trì vạn vật”, tức là ý nghĩa “chuyên chở” vậy.
Thân Ngài trắng sạch, viên quang vây quanh. Trong quang minh có ba màu vàng,
đỏ, trắng, chẳng phải là thuần trắng, thuần đỏ, hay thuần vàng. Vì thế nói
là “vô chủ” (không có màu chủ yếu). Màu vàng là màu Tăng Ích,
trắng là màu Tịch Tai (Tức Tai), đỏ là màu Hàng Phục. Do trong quang minh tam-muội này kiêm
đủ ba lực. Vì thế, dùng điều đó để biểu trưng.
Kế
đó, gần bên
trái của Tỳ Câu Chi, vẽ Đại Thế Tôn (Mahāsthāmaprāpta, Đại Thế Chí Bồ
Tát), như oai thế tự tại của quốc vương và đại thần trong thế gian thì được gọi
là Đại Thế. Ý nói: Vị thánh giả này đã đạt được địa vị đại bi tự tại như vậy.
Do đó, dùng điều này làm tên. Bởi đó, Ngài cầm hoa sen chưa nở, như hoa đài
Thật Trí của đức Tỳ Lô Giá Na đã kết thành quả, Ngài lại cầm chủng tử như thế
rải trọn khắp vào tâm thủy của hết thảy chúng sanh, nên sanh ra hoa sen chưa
nở. Vị tôn thánh này cũng hiện dấu tích giống như thế, cũng có thể thủ hộ trọn
khắp điều thiện tiềm tàng của
chúng sanh, khiến cho chúng chẳng bị tổn hoại, mà thường tăng trưởng trong mỗi
niệm. Ngài chính là Trì Minh Vương của Liên Hoa Bộ.
Kế
đó, bên trái của Minh Vương[55] (Đại
Thế Chí), vẽ minh phi Da Thâu Đà La (Yaśodhāra), dịch nghĩa là Trì Danh Xưng.
Thân Ngài màu vàng ròng, dùng các thứ anh lạc để trang hoàng tột bậc đoan
nghiêm, có hình dáng như thiên nữ. Tay phải cầm cành diệu hoa trắng ngần, quả
lá xen kẽ, cành nhánh tươi tốt. Hoa ấy hoặc vừa chớm búp, hoặc sắp nở, hoặc
đang nở xòe, hoặc năm, hoặc mười bông, cho đến mấy chục bông. Tay trái cầm
Bát-dận-ngộ (Priyaṅgu), cũng là một loại hoa thù thắng ở phương Tây. Do Đắc Đại
Thế Minh Vương chủ trì an lập chủng tử Bồ Đề cho hết thảy chúng sanh, mà minh
phi thì chủ trì hàm tàng xuất sanh các loại công đức ấy. Vì thế, y phục và biểu
tượng của Ngài tương ứng với ý nghĩa ấy.
Bên
phải của đức Đa
La, đặt Bán Noa La Phạ Tất Ninh (Pāṇḍaravāsinī), dịch nghĩa là Bạch Xứ, do vị
tôn thánh này thường ngự trên hoa sen trắng, nên đặt tên như thế. Ngài cũng đội
mão che búi tóc cõi trời, mặc áo trắng tinh, tay trái cầm hoa sen nở xòe. Từ
chỗ trắng sạch nhất ấy, sanh ra Phổ Nhãn; do vậy, tam-muội tên là Liên Hoa Bộ
Mẫu.
Kế
đó, phía dưới Quán Tự Tại Bồ Tát, đặt Hà Da Yết Rị Bà (Hayagrīva)[56],
dịch là Mã Đầu. Vị này thân chẳng vàng, chẳng đỏ, như lúc mặt trời mới mọc.
Dùng hoa sen trắng để làm chuỗi ngọc trang nghiêm thân thể. Quang minh chói rực
oai mãnh, sáng ngời như tràng hoa. Móng tay dài bén, hai nanh chĩa ngược lên.
Đầu tóc như bờm sư tử (do vậy, kinh nói “thú vương phát” tức
tóc giống như
lông của vua các loài thú), hiện hình trạng hét to vì phẫn nộ tột bậc. Đây là
Phẫn Nộ Trì Minh Vương của Liên Hoa Bộ, giống như ngựa báu của Chuyển Luân
Vương tuần tra khắp bốn châu, trong hết thảy thời, tới hết thảy các chốn, tâm
chẳng ngưng nghỉ. Sức đại tinh tấn của các vị Bồ Tát cũng giống như thế. Do đạt
được thế lực oai mãnh như thế, ở trong trọng chướng sanh tử, chẳng đoái hoài
thân mạng, dùng nhiều cách dẹp tan. Chính vì tâm đại bi trắng sạch, cho nên
dùng hoa sen trắng làm chuỗi ngọc để trang nghiêm thân thể. Đã đúng như pháp kiến lập
quyến thuộc của Quán Âm xong.
(Kinh)
Phục thứ hoa đài biểu, Đại Nhật chi hữu phương, năng mãn nhất thiết nguyện, Trì
Kim Cang Huệ giả. Bát-dựng-ngộ hoa sắc, hoặc phục như lục bảo, thủ đới chúng
bảo quan, anh lạc trang nghiêm thân, gián thác hỗ nghiêm sức, quảng đa số vô
lượng, tả chấp Bạt-chiết-la, châu hoàn khởi quang diễm. Kim Cang Tạng chi hữu,
sở vị Mang Mãng Kê, diệc trì kiên huệ chử, nghiêm thân dĩ anh lạc. Bỉ hữu thứ
ưng trí, Đại Lực Kim Cang Châm. Sứ giả chúng vi nhiễu, vi tiếu đồng chiêm
ngưỡng. Thánh giả chi tả phương, Kim Cang Thương Yết La, chấp trì kim cang tỏa,
tự bộ chư sứ câu. Kỳ thân thiển hoàng sắc, trí chử vi tiêu xí. Ư Chấp Kim Cang
hạ, Phẫn Nộ Hàng Tam Thế, tồi phục đại chướng giả, hiệu danh Nguyệt Yểm Tôn.
Tam mục, tứ nha hiện. Hạ thời vũ vân sắc, A Trá Trá tiếu thanh, kim cang bảo
anh lạc. Nhiếp hộ chúng sanh cố, vô lượng chúng vi nhiễu, nãi chí bách thiên
thủ, thao trì chúng khí giới. Như thị Phẫn Nộ đẳng, giai trụ liên hoa trung.
Thứ vãng Tây phương họa, vô lượng Trì Kim Cang, chủng chủng kim cang ấn, hình
sắc các sai biệt. Phổ phóng viên mãn quang, vị chư chúng sanh cố. Chân Ngôn Chủ
chi hạ, y Niết Rị Để phương, Bất Động Như Lai sứ, trì huệ đao, quyến sách. Đảnh
phát thùy tả kiên, nhất mục nhi đế quán. Oai nộ thân mãnh diễm, an trụ tại bàn thạch.
Diện môn thủy ba tướng, sung mãn đồng tử hình. Như thị cụ huệ giả, thứ ưng vãng
Phong phương, phục họa Phẫn Nộ tôn, sở vị Thắng Tam Thế, oai mãnh diễm vi
nhiễu. Bảo quan, trì kim cang, bất cố tự thân mạng, chuyên thỉnh nhi thọ giáo.
Dĩ thuyết sơ giới vực, chư tôn phương vị đẳng.
(經)復次華臺表,大日之右方,能滿一切願,持金剛慧者,鉢孕遇華色,或復如綠寶,首戴眾寶冠,瓔珞莊嚴身,間錯互嚴飾, 廣多數無量,左執跋折羅,周環起光焰。金剛藏之右,所謂忙莽雞,亦持堅慧杵,嚴身以瓔珞。彼右次應置,大力金剛針,使者眾圍遶,微笑同瞻仰。聖者之左方,金剛商羯羅,執持金剛鎖,自部諸使俱,其身淺黃色,智杵為幖幟。於執金剛下,忿怒降三世,摧伏大障者,號名月黶尊,三目四牙現,夏時雨雲色,阿吒吒笑聲,金剛寶瓔珞,攝護眾生故,無量眾圍遶,乃至百千手,操持眾器械。如是忿怒等,皆住蓮華中。次往西方畫,無量持金剛,種種金剛印,形色各差別,普放圓滿光,為諸眾生故。真言主之下,依涅哩底方,不動如來使,持慧刀羂索,頂髮垂左肩,一目而諦觀,威怒身猛焰,安住在盤石,面門水波相,充滿童子形。如是具慧者,次應往風方。復畫忿怒尊,所謂勝三世,威猛焰圍遶,寶冠持金剛,不顧自身命,專請而受教。已說初界域,諸尊方位等。
(Kinh:
Kế đó, ngoài đài
hoa, bên phải của Đại Nhật, hay mãn hết thảy nguyện, là Trì Kim Cang Huệ, sắc
hoa Bát-dựng-ngộ. Hoặc lại như lục bảo. Đầu đội mão các báu, anh lạc trang
nghiêm thân, xen kẽ để trang hoàng, rộng nhiều số vô lượng. Tay trái: Chày kim
cang, ánh lửa bốc quanh thân. Bên phải Kim Cang Tạng, chính là Mang Mãng Kê,
cũng cầm chày kiên huệ, dùng anh lạc nghiêm thân. Kế đó, bên phải đặt, Đại Lực
Kim Cang Châm. Các sứ giả vây quanh, mỉm cười, cùng chiêm ngưỡng. Bên phải của
thánh giả, Kim Cang Thương Khiết La, cầm nắm xiềng kim cang, và sứ giả tự bộ[57].
Thân Ngài sắc vàng nhạt, đặc trưng: Chày trí huệ. Phía dưới Chấp Kim Cang,
Phẫn Nộ Hàng Tam Thế, bậc dẹp tan chướng lớn, hiệu là Nguyệt Yểm Tôn. Ba mắt,
bốn nanh lộ. Màu như mây mưa hạ, tiếng cười A Trá Trá[58],
kim cang anh lạc báu. Do nhiếp hộ chúng sanh, vô lượng chúng vây quanh, cho đến
trăm ngàn tay, vung nắm các khí giới. Các Phẫn Nộ như thế, đều trụ trong hoa
sen. Kế đó, phương Tây vẽ, vô lượng Trì Kim Cang, các loại kim cang ấn, hình
sắc đều sai biệt, phóng trọn viên mãn quang, do vì các chúng sanh. Ở dưới Chân
Ngôn Chủ, nơi phương Niết Rị Để, Bất Động Như Lai sứ, cầm đao huệ, dây trói,
tóc rủ xuống vai trái. Một mắt quan sát kỹ. Thân oai nộ rực lửa, an trụ trên
tảng đá. Mặt có vết sóng nhăn. Thân bé trai đậm chắc. Bậc huệ trọn như thế.
Kế đó, sang phương Phong, lại vẽ đức Phẫn Nộ, tức là Thắng Tam Thế, lửa oai
mãnh vây quanh. Mão báu, cầm kim cang. Chẳng đoái thân mạng mình, chuyên thỉnh
cầu, thọ giáo. Đã nói giới vực đầu, phương vị chư tôn thánh).
Kế
đó, bên trái của Đại Nhật Như Lai, an trí Kim Cang Bộ Minh Vương, tức là vị Chấp Kim Cang có thể thỏa mãn hết thảy các
nguyện. Ngài có màu như hoa Bát-dận-ngộ, tức là màu vàng nhạt. Hoặc như lục
bảo, tức là Lục Mạt Yết Bảo, giống như hiển sắc[59] của
hư không. Do sắc của pháp giới thanh tịnh và kim cang trí thể hòa hợp. Do vậy,
thân Ngài màu trắng pha sắc vàng. Trí thân như thế ví như hư không chẳng thể
phá hoại, hết thảy chẳng thể hàng phục Ngài. Vì thế, dùng hiển sắc của hư không
để làm biểu trưng. Điều này có nghĩa là nếu pháp có chút phần dẫu nhỏ như cực
vi để có thể đạt được, sẽ là vô thường, thay đổi, tùy thuộc các hành. Do vậy, trí
Tất Cánh Không là tánh kiên cố bậc nhất. Mật ấn[60] mà
Ngài cầm chính là chày kim cang năm nhánh. Ngũ trí Như Lai đều kiêm hai tác
dụng Quyền và Thật, nhưng dùng tay kim cang huệ để chấp trì. Vì thế kinh
nói “[tay] trái cầm bạt-chiết-la (vajra, chày kim cang)”. Ấn
ấy nên dùng tràng hoa bằng quang minh để vây quanh trọn khắp. Vì thế nói
là “châu hoàn khởi quang diễm” (ánh sáng như ngọn lửa cháy rực
vây quanh). Đầu Ngài đội mão báu có ba chóp, hình dạng như chữ Sơn (山). Giữa các chóp, có hình dáng như vầng
trăng non ngửa lên, dùng các nhiều loại chất báu vi diệu để làm hết thảy các
thứ anh lạc hòng trang nghiêm thân thể. Điều này có nghĩa là: Bát Nhã Ba La Mật
đạt tới cái tâm nơi quả địa, đổi danh xưng thành Nhất Thiết Chủng Trí. Vì thế,
đầu Ngài đội mão bằng các thứ báu. Dùng diệu huệ ấy để trải qua hết thảy các
pháp, tự tại xoay chuyển, sanh ra vô lượng pháp giới trang nghiêm. Vì thế nói
là “gián thác hỗ nghiêm sức” (xen kẽ để trang hoàng lẫn
nhau). “Quảng đa” có nghĩa là số đến vô lượng.
Kế
đó, bên phải Kim Cang Bộ Chủ, đặt Mang Mãng Kê (Māmakī)[61]. Đó là Kim Cang Bộ Mẫu, cũng cầm chày kim cang trí, dùng các
thứ anh lạc để trang nghiêm thân. Đây là Xuất Sanh Kim Cang Trí Lực tam-muội,
được gọi là Kim Cang tam-muội.
Kế
đó, bên phải Bộ Mẫu, đặt Đại Lực Kim Cang Châm (Mahābala Vajrasūcī), [Bạt Chiết
La] Tố Chi (Vajrasūcī) được dịch là Kim Cang Châm, cầm bạt-chiết-la một nhánh
để làm biểu tượng. Bạt-chiết-la ấy chính là trí huệ nhất tướng, nhất duyên,
cứng chắc, sắc bén, dùng nó để quán triệt các pháp, không gì chẳng thông suốt, nên gọi là
Kim Cang Châm. Phía dưới vị này có hai sứ giả đều mang hình dáng nữ nhân, hồ
quỳ, mỉm cười, ngước mắt
chiêm ngưỡng. Hình dạng của họ nhỏ [hơn Đại Lực Kim Cang Châm], nhưng tròn đầy,
sắc vàng nhạt, dùng kim cang làm vật biểu tượng, tức là tam-muội phá nát các
trọng chướng.
Kế
đó, ở bên trái của Chấp Kim Cang, đặt Kim Cang Thương Yết La (Vajra-śṛṅkhala),
dịch nghĩa là
Kim Cang Tỏa (金剛鏁, dây xích kim cang). Ấn
của vị này là cầm dây xích, hai đầu xích đều làm thành hình bạt-chiết-la. Phía
dưới Kim Cang Tỏa cũng có hai nữ sứ giả, chẳng khác sứ giả của ngài Kim Cang
Châm. Dùng trí ấn này để nhiếp trì hết thảy chúng sanh ương ngạnh, khó giáo
hóa, khiến cho họ chẳng thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề, cho nên Ngài có tên như
vậy.
Kế
đó, ở phía dưới Chấp Kim Cang, đặt Phẫn Nộ Trì Minh hàng phục hết thảy các kẻ gây chướng nạn to lớn trong
ba đời, hiệu là Nguyệt Yểm Tôn (Candratilaka)[62].
Mặt Ngài có ba mắt, bốn răng nanh chìa ra, [thân có màu] như sắc mây lúc trời
đổ mưa trong mùa Hè,
hiện vẻ cười to, dùng chất báu kim cang làm anh lạc. Vị Trì Kim Cang này dùng
vô lượng môn tam-muội có thế lực to lớn, oai mãnh để nhiếp thủ, hộ trì chúng
sanh, cũng có vô lượng quyến thuộc tự vây quanh, thảy đều [vẽ thành hình dáng]
nhỏ bé, mà mập mạp.
Ngài hiện hình dạng phẫn nộ, cho đến một thân mà có trăm ngàn tay, cầm nắm các
thứ khí giới, đứng thẳng oai nghiêm. Nếu chẳng thể vẽ hết, hãy nên vẽ một, hai
sứ giả cho đến năm, sáu người, đều nên [vẽ họ] đứng trên hoa sen. Ý nói trong
tâm liên hoa này đã vốn sẵn thành tựu hết thảy các sức đại tinh tấn dũng kiện,
chẳng từ nơi khác tới. Kiến lập các quyến thuộc của Kim Cang Tát Đỏa đã xong.
Kế
đó, ở phương Tây[63],
vẽ Trì Minh Sứ Giả và các vị Chấp Kim Cang, có các thứ hình sắc, tánh loại, các
thứ mật ấn để làm vật biểu trưng, đều dựa vào đồ hình mà vẽ. Đại huệ quang minh của mỗi vị tôn thánh
ấy thảy đều trọn khắp pháp giới, hiện ra thân, khẩu, ý mật cũng trọn khắp pháp
giới. Vì thế nói là “phổ phóng viên mãn quang, vị chư chúng sanh cố” (tỏa
trọn khắp quang minh viên mãn, vì các chúng sanh vậy).
Phía
dưới tôn vị này, nơi phương Niết Rị Để (Tây Nam), vẽ Bất Động (Acala) Minh
Vương là sứ giả của Như Lai, có hình dạng đồng tử (bé trai), bên phải cầm đại
huệ đao ấn, bên trái cầm dây trói. Đỉnh đầu có sa kế[64],
tóc rủ xuống bên vai trái, hơi nhắm mắt trái. Răng thuộc hàm dưới nghiến lên
góc phải của môi trên, bên trái của môi dưới hơi đưa ra ngoài. Trán có vết nhăn
giống như sóng nước, ngồi trên tảng đá. Thân Ngài thấp bé, nhưng đầy đặn, mập
mạp, hiện tư thế phẫn nộ, hình dạng giận dữ cùng cực. Đó là hình tướng biểu trưng cho mật ấn
của Ngài. Nơi hoa đài của đức Đại Nhật, vị này thành Phật đã lâu. Do
tam-muội-da bổn thệ nguyện, mà thị hiện mới vừa phát đại tâm, có hình dạng các
tướng chưa trọn vẹn, làm người hầu để thực hiện các sự vụ cho Như Lai. Vì
thế, Ngài cầm đao bén và dây trói, vâng theo mạng lệnh phẫn nộ của Như
Lai, tận lực muốn sát hại [các phiền não và
nghiệp chướng của] hết thảy chúng sanh. Quyến sách (羂索: Dây trói) chính là phương tiện Tứ Nhiếp
trong Bồ Đề tâm. Dùng đó để bắt trói kẻ chẳng hàng phục, dùng đao bén trí
huệ để đoạn trừ mạng sống của nghiệp thọ vô cùng, khiến đạt được Đại Không Sanh. Nếu chủng tử của nghiệp
thọ đã trừ, ắt gió ngôn ngữ hý luận
cũng đều diệt mất, dứt bặt. Vì thế, Ngài ngậm kín miệng. Ý nghĩa của việc “dùng một
mắt để nhìn” là “Như Lai dùng mắt bình đẳng xem hết thảy chúng
sanh không gì chẳng thể
khoan dung”. Do
vậy, phàm các sự nghiệp
tạo tác của vị tôn thánh này chỉ vì một sự nhân duyên ấy. Ngài trấn áp tảng đá
trọng chướng, khiến cho nó chẳng còn động, thành tựu núi chúa Diệu Cao Bồ Đề
tâm thanh tịnh. Vì thế nói: “An trụ tại bàn thạch” (ở yên trên
tảng đá).
Lại
ở góc Tây Bắc ở phía dưới, họa hình đức Tam Thế Phẫn Nộ Trì Minh Vương, đầu đội
mão báu, trì chày Kim Cang năm nhánh làm ấn, chiêm ngưỡng đức Tỳ Lô Giá Na, dáng
vẻ như thỉnh cầu [đức Phật] truyền trao mệnh lệnh. Kệ nói “bất cố tự
thân mạng” (chẳng đoái hoài thân mạng của chính mình), tức là nói hãy
vẽ hình dạng Ngài cực phẫn nộ, dáng vẻ như liều mình chẳng tiếc mạng, nghĩa là
muốn nhiếp triệu pháp giới chúng sanh, khiến cho họ đều tùy thuận oai mạng
(mạng lệnh oai nghiêm) của đấng pháp vương. Đây cũng là [vị Bồ Tát nói ra] chân ngôn Thành
Biện Chư Sự. Do được sức đại tự tại của Ngũ Như Lai Trí gột rửa, dẹp tan, mà thảy đều đạt tới quả địa trang
nghiêm, chẳng phải chỉ là không chướng ngại, riêng chứng Thiên Không mà thôi!
Vì thế, Ngài cầm ngũ cổ ấn (chày kim cang năm nhánh), đầu đội mão báu, trụ
trong phong luân, tức là có ý nghĩa như kinh Pháp Hoa đã nói: “Chư hữu
sở tác, giai
vị khai Phật tri kiến, sử đắc thanh tịnh” (Các việc làm đều
nhằm khai tri kiến của Phật, khiến cho được thanh tịnh). An lập chư tôn thượng
thủ trong tầng thứ nhất của Mạn-đồ-la đã xong.
(Kinh)
Trì Chân Ngôn hành nhân, thứ vãng đệ nhị viện. Đông phương sơ môn trung, họa
Thích Ca Mâu Ni, vi nhiễu tử kim sắc, cụ tam thập nhị tướng, bị phục ca-sa y,
tọa bạch liên hoa đài. Vị linh giáo lưu bố, trụ bỉ nhi thuyết pháp.
Thứ ư Thế Tôn hữu, hiển thị Biến Tri Nhãn, hy di tướng vi tiếu, biến thể viên
tịnh quang, hỷ kiến vô tỷ thân. Thị danh Năng Tịch Mẫu. Phục ư bỉ tôn hữu, đồ
tả hào tướng minh, trụ Bát Đầu Ma hoa, viên chiếu thương-khư sắc, chấp trì như
ý bảo, mãn túc chúng hy nguyện, huy quang đại tinh tấn. Cứu Thế Thích Sư Tử,
thánh tôn chi tả phương, Như Lai chi ngũ đảnh. Tối sơ danh Bạch Tán,
Thắng Đảnh, Tôn Thắng Đảnh, Chúng Đức Quang Hỏa Tụ, cập dữ Xả Trừ Đảnh. Đại ngã
chi Thích chủng, ưng đương y thị xứ, tinh tâm tạo chúng tướng. Thứ ư kỳ Bắc
phương, bố liệt Tịnh Cư chúng, Tự Tại dữ Phổ Hoa, Quang Man cập Ý Sanh, Danh
Xưng Viễn Văn đẳng, các như kỳ thứ đệ. Ư hào tướng chi hữu, phục họa tam Phật
Đảnh. Sơ danh Quảng Đại Đảnh, thứ danh Cực Quảng Đại, cập Vô Biên Âm Thanh,
giai ưng thiện an lập. Ngũ chủng Như Lai Đảnh, bạch hoàng chân kim sắc. Phục
thứ tam Phật Đảnh, bạch hoàng xích kiêm bị. Kỳ quang phổ thâm quảng, chúng
anh lạc trang nghiêm. Sở phát hoằng thệ lực, nhất thiết
nguyện giai mãn. Hành giả ư Đông ngung, nhi tác Hỏa Tiên tượng, trụ ư xí diễm
trung, tam điểm hôi vi tiêu, thân sắc giai thâm xích, tâm trí tam giác ấn, nhi
tại viên diễm trung, trì châu cập tháo bình. Hữu phương Diễm Ma vương, thủ bỉnh
Đàn Noa ấn, thủy ngưu dĩ vi tòa, chấn lôi huyền vân sắc, thất mẫu tịnh Hắc Dạ,
hậu phi đẳng vi nhiễu.
(經)持真言行人,次往第二院,東方初門中,畫釋迦牟尼,圍遶紫金色,具三十二相,被服袈裟衣,坐白蓮華臺,為令教流布,住彼而說法。次於世尊右,顯示遍知眼,熙怡相微笑,遍體圓淨光,喜見無比身,是名能寂母。復於彼尊右,圖寫毫相明,住鉢頭摩華,圓照商佉色,執持如意寶,滿足眾希願,暉光大精進,救世釋師子。聖尊之左方,如來之五頂,最初名白傘,勝頂最勝頂,眾德火光聚,及與捨除頂,是名五大頂,大我之釋種,應當依是處,精心造眾相。次於其北方,布列淨居眾,自在與普華,光鬘及意生,名稱遠聞等,各如其次弟。於毫相之右,復畫三佛頂,初名廣大頂,次名極廣大,及無邊音聲,皆應善安立。五種如來頂,白黃真金色,復次三佛頂,白黃赤兼備,其光普深廣,眾瓔珞莊嚴,所發弘誓力,一切願皆滿。行者於東隅,而作火仙像,住於熾焰中,三點灰為標,身色皆深赤,心置三角印,而在圓焰中,持珠及澡瓶。右方閻摩王,手秉壇拏印,水牛以為座,震電玄雲色,七母并黑夜,
妃后等圍繞。
(Kinh:
Hành nhân trì Chân Ngôn, kế sang viện thứ hai. Ở cửa đầu phương Đông, vẽ Thích
Ca Mâu Ni, sắc vàng tía vây quanh, trọn đủ băm hai tướng, thân mặc y ca-sa,
ngồi trên đài sen trắng. Vì lưu truyền giáo pháp, trụ nơi đó thuyết pháp.
Ở bên phải Thế Tôn, hiển thị Biến Tri Nhãn, tướng vui sướng, mỉm cười. Khắp
thân, quang
tròn sạch, vui thấy thân khôn sánh. Đó là Năng Tịch Mẫu. Lại bên phải vị ấy, vẽ
hình Hào Tướng Minh, trụ trên hoa sen hồng, sắc thương-khư chiếu trọn. Cầm
nắm báu như ý, trọn thỏa các mong nguyện, chói ngời, đại tinh tấn. Cứu Thế
Thích Sư Tử, bên trái của đức thánh, có năm đảnh Như Lai, thứ nhất tên Bạch Tán, Thắng
Đảnh, Tôn Thắng Đảnh, Chúng Đức Quang Hỏa Tụ, cùng với Xả Trừ Đảnh. Đó gọi Ngũ Đại Đảnh. Đại
ngã thuộc họ Thích, hãy nên nương vào đó, tâm chuyên ròng tạo tướng. Kế đó, ở
phương Bắc, xếp đặt chúng Tịnh Cư: Tự Tại và Phổ Hoa, Quang Man cùng Ý Sanh,
Danh Xưng Viễn Văn thảy, mỗi vị theo thứ tự. Ở bên phải hào tướng, lại vẽ ba
Phật Đảnh. Trước là Quảng Đại Đảnh. Kế đó, Cực Quảng Đại, và Vô Biên Âm Thanh,
đều nên khéo an lập. Năm loại Như Lai Đảnh, trắng, vàng, sắc vàng ròng. Lại
nữa, ba Phật Đảnh, trắng, vàng, đỏ đều trọn. Quang ấy sâu rộng khắp, các anh
lạc trang nghiêm. Do sức phát hoằng thệ, hết thảy nguyện đều thỏa. Hành giả ở
góc Đông, lại vẽ hình Hỏa Tiên, ở trong ngọn lửa rực, ba chấm tro tiêu biểu, thân sắc
đều đỏ rực, ngực có ấn tam giác.
Ở trong vòng lửa nung, cầm châu và tháo bình. Bên phải vua Diễm Ma, tay cầm gậy
đầu lâu, dùng trâu nước làm tòa, rền sấm, sắc mây đen. Thất Mẫu và Hắc Dạ, các hậu phi vây quanh).
Kế
đó, tới viện thứ hai, vẽ Thích Ca Mâu Ni. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Trong
ấy, tầng thứ hai là ẩn mật ngữ. Nếu từ trong hướng ra ngoài, hãy nên đặt quyến
thuộc của Phật Thích Ca Mâu Ni thuộc viện thứ ba”[65]. Nay
coi pháp môn quyến thuộc của đức Tỳ Lô Giá Na[66] là
thứ nhất, quyến thuộc nơi sanh thân của Phật Thích Ca Mâu Ni thuộc thứ ba. Các
vị Bồ Tát thượng cầu hạ hóa trong bi trí, cho nên thuộc tầng thứ hai (tức các vị Bồ Tát thuộc Liên Hoa Bộ và
Kim Cang Bộ).
Sở dĩ nói tương hỗ như vậy, vì đây là mật tạng của Như Lai, phải ngăn ngừa kẻ
mạn pháp chẳng do thầy dạy mà sửa đổi kinh văn lung tung. Do đó, cần phải khẩu
truyền trao dạy.
Ở
cửa thứ nhất thuộc phương Đông, trước hết, vẽ
Thích Ca Mâu Ni, thân chân kim sắc, và ba mươi hai tướng rạng rỡ. Ngài mặc y
ca-sa có màu Càn Đà[67],
ngồi trên hoa sen trắng, hiện tướng thuyết pháp, tức là dùng tay trái nắm góc y
ca-sa, giống như tượng A Dục Vương hiện thời. Các ngón trong tay phải giơ thẳng
lên, hai ngón Không và Thủy (ngón cái và ngón áp út)[68] chạm
đầu nhau; đó là biểu trưng. Hoa sen trắng ấy chính là Trung Đài tịnh pháp giới
tạng. Thế Tôn vì muốn cho giáo pháp này được lưu truyền rộng, nên dùng sanh
thân làm hình tướng biểu trưng để diễn nói, nhưng với thân bổn pháp giới sẽ chẳng hai, chẳng khác. Vì thế nói: “Trụ
bỉ nhi thuyết pháp” (trụ trong đó thuyết pháp).
Kế
đó, ở phía Bắc của đức Thế Tôn, đặt Phật Nhãn, cũng là Thích Ca Mâu Ni
Phật Mẫu, phương này dịch là Năng Tịch Mẫu (Śākyamuṇi-Mātṛ). Hãy nên vẽ Ngài có
thân đoan nghiêm khôn sánh mà thế gian thích thấy, khắp thân đều có viên quang,
[dáng vẻ] vui sướng, mỉm cười. Đấy là xuất sanh tùy loại sanh hình
tam-muội (tam-muội có thể xuất
sanh các hình tướng giống như từng loại chúng sanh) của Như Lai. Tam-muội ấy
lấy Đại Từ Phổ Nhãn làm Thể, quán sát chúng sanh
đáng độ mà hướng dẫn, tạo lợi ích cho họ. Quang minh của Từ
Nhãn không đâu chẳng trọn khắp, nên nói là “biến thể viên tịnh quang” (khắp
thân là quang minh viên mãn, thanh tịnh).
Kế
đó, ở phía Bắc của Phật Mẫu, vẽ Như Lai Bạch Hào Tướng Ấn, trụ trong hoa sen,
có màu như thương-khư, thân có viên quang, tay cầm hoa sen có hình dạng vừa nở
một nửa; trong đó có Như Ý Bảo Châu. Đấy là do vô biên phước nghiệp của Như Lai
hợp thành, như kinh Quán Phật Tam Muội v.v… đã rộng nói, có thể mãn nguyện cho
hết thảy chúng sanh.
Kế
đó, ở phía Nam của Thích Ca Sư Tử, vẽ Như Lai Ngũ Đảnh:
- Thứ
nhất là Bạch Tán Cái Phật Đảnh[69] (Sitātapatroṣṇīṣa).
-
Thứ hai là Thệ Da (Jayoṣṇīṣa), dịch là Thắng Đảnh.
-
Thứ ba là Vi Thệ Da (Vijayoṣṇīṣa), đây là dùng nhiều âm để gọi, dịch nghĩa là
Tối Thắng Đảnh.
-
Thứ tư là Đế Thù La Thí (Tejorāśi-uṣṇīṣa), dịch là Hỏa Tụ Đảnh. Kinh ghi là
Chúng Đức, tức là chỉ dịch ý nghĩa chánh yếu, phải nên hiểu nghĩa là “có
oai đức to lớn”.
-
Thứ năm là Vi Cát La Noa (Vikiraṇoṣṇīṣa), dịch là Xả Trừ Đảnh, có nghĩa là vứt
bỏ hết thảy phiền não, cũng có nghĩa là “đập tan”.
Đấy
là năm trí đảnh của Thích Ca Như Lai, trong hết thảy các công đức, giống
như Luân Vương trọn đủ thế lực to lớn. Các vị ấy đều được vẽ giống như hình dạng Chuyển Luân Thánh Vương, tức là đỉnh đầu có
nhục kế, trên ấy lại có búi tóc, tức là búi tóc trùng lặp. Các tướng mạo khác
đều như Bồ Tát, sao cho cực đoan nghiêm, hoan hỷ. Mật ấn do các vị ấy cầm
giống như trong đồ hình. Kế đó, ở phương Đông, gần rìa phía Bắc nhất, đặt năm
vị Tịnh Cư thiên chúng:
-
Thứ nhất là Tự Tại Thiên Tử (Īśvara).
-
Thứ hai là Phổ Hoa Thiên Tử (Samantapuṣpaka).
-
Thứ ba là Quang Man Thiên Tử (Prabhamālaka).
-
Thứ tư là Ý Sanh Thiên Tử (Manojava).
-
Thứ năm là Danh Xưng Viễn Văn Thiên Tử (Prakirtita-viśrūta).
Hãy
nên xếp theo thứ tự. Ấn tướng của họ đã được nói đầy đủ trong đồ hình. [Thiện Vô
Úy] A-xà-lê nói: “Đấy là Ngũ A Hàm thiên tử. Qua khỏi đó là chỗ của Bồ
Tát thọ chức vị Phật, cũng gọi là Tịnh Cư Thiên, phần đông là Nhất Sanh Bổ Xứ
Bồ Tát, thuộc vào viện thứ hai, chẳng thuộc vào điều đang được nói ở đây”.
Kế
đó, phía Nam của các vị trời ấy, ở bên phải của Hào Tướng, lại vẽ ba vị Phật
Đảnh: Thứ nhất tên là Quảng Đại Phật Đảnh (Mahodgatoṣṇīṣa), thứ hai là Cực
Quảng Đại Phật Đảnh (Abhyudgatoṣṇīṣa), thứ ba là Vô Biên Âm Thanh Phật Đảnh
(Anantasvaraghoṣa-uṣṇīṣa), hình tướng đều giống như Ngũ Đảnh, tức là các đảnh
thuộc về các đức của Như Lai trong ba bộ. Năm loại Như Lai Đảnh gồm năm loại
màu, tức là màu chân kim, màu uất kim, màu
vàng nhạt, màu cực trắng, màu trắng nhạt. Trong ấy, hai màu chân kim và uất kim
tương tự, nhưng chân kim thì tươi sáng, màu uất kim tối hơn. Ba vị Phật
Đảnh có ba màu, tức là trắng, vàng, đỏ, tức là kiêm trọn các màu Tịch Tai, Tăng
Ích và Hàng Phục. Tám vị ấy đều là quanh thân có quang minh, quang minh tột bậc
rộng dày. Dùng các thứ anh lạc để trang nghiêm thân thể, do bổn thệ nguyện của
Như Lai, thảy đều có thể thỏa mãn hết thảy các nguyện.
Bên
phải góc Đông Nam, đặt các vị Hỏa Thiên (Agni-ṛṣī), trụ trong vầng lửa, trán và hai tay đều
có ba vạch tro, tức là như Bà-la-môn dùng ba ngón tay bốc tro xoa lên thân thể.
Hết thảy đều có sắc đỏ đậm, giữa ngực có ấn tam giác được vòng lửa bao quanh.
Tay trái cầm tràng hạt,
tay phải cầm tháo bình (tức bình Quân Trì để đựng nước dùng khi rửa ráy). Đấy
là một thân Phổ Môn, nhằm dẫn dắt, nhiếp thọ các Vi Đà phạm chí thờ lửa mà
phương tiện khai thị pháp Vi Đà của Phật. Vì thế, chỉ bày biểu trưng của Đại
Huệ Hỏa Đàn Tịnh Tu Phạm Hạnh này.
Kế
đó, ở bên phải của phương Nam, đối diện thẳng với đức Đại Nhật, vẽ hình pháp
vương Diễm Ma, tay cầm Đàn Noa (Daṇḍa) ấn. Ấn tướng có hình dạng giống như
cái gậy, trên đó có hình đầu người dáng vẻ cực phẫn nộ. Vua dùng thủy ngưu làm
tòa, thân có màu đen tuyền. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Khi nhỏ, ta do bệnh
nặng, thần thức mê muội, đi đến minh ty (cõi âm), thấy vị pháp vương này và hậu
phi cùng trò chuyện, hình dạng hết sức từ bi, nhẫn nại. Nhưng ấn Đàn Noa ấy
dùng hình dạng phẫn nộ để kiểm giảo những tội đã phạm trong khi [phạm nhân] còn
sống, miệng phóng quang minh lớn tột bậc nghiêm khắc, và kiểm nghiệm công
nghiệp sau khi xuất gia. Sau đó, lặng im chẳng nói gì nữa. Vua Diễm Ma và hoàng
hậu lập tức xuống khỏi bệ, dùng lời lẽ tốt lành khen ngợi, ân cần hết sức tôn
kính, cầu thọ quy giới. Do vậy, bèn thả ta trở về. Tới khi tỉnh lại, chỗ buộc
dây trói ở hai tay hãy còn có vết trầy trụa, mười tháng mới lành”.
Ở
phía Tây của vua Diễm Ma vẽ Diễm Ma Hậu và Tử Hậu, đó cũng là vợ của Diễm Ma.
Phía Đông vẽ Hắc Dạ Thần (Kālarātrī)[70] và
bảy Ma Đát Lý (Mātṛka), dịch nghĩa là Thất Mẫu[71],
đều là nữ quỷ. Hình dạng họ đều có màu đen.
(Kinh)
Niết Rị Để quỷ vương, chấp đao khủng bố hình. Phạ Rô Noa long vương, quyến sách
dĩ vi ấn. Sơ phương Thích thiên vương, an trụ Diệu Cao sơn, bảo quan, bị anh
lạc, trì bạt-chiết-la ấn, cập dư chư quyến thuộc, huệ giả thiện phân bố. Tả trí Nhật Thiên chúng, tại ư dư lộ
trung, Thắng, Vô Thắng phi đẳng, dực tùng nhi thị vệ. Đại Phạm tại kỳ hữu, tứ
diện trì phát quan. Án tự tướng vi ấn. Chấp liên, tại nga thượng. Tây
phương chư địa thần, Biện Tài cập Tỳ Nữu, Tắc Kiến Na, Phong Thần. Thương Yết
La, Nguyệt Thiên. Thị đẳng y long phương, họa chi vật di mậu. Trì chân ngôn
hành giả, dĩ bất mê hoặc tâm. Phật tử thứ ưng tác, Trì Minh Đại Phẫn Nộ, hữu
hiệu Vô Năng Thắng, tả Vô Năng Thắng Phi. Trì Địa Thần phụng bình, kiền kính
nhi trường quỵ, cập nhị đại long vương, Nan Đà, Bạt Nan Đà, đối xử sương khúc
trung, thông môn chi đại hộ. Sở dư Thích chủng tôn, chân ngôn dữ ấn đàn, sở
thuyết nhất thiết pháp, sư ưng cụ khai thị.
(經)涅哩底鬼王,執刀恐怖形,嚩嚕拏龍王,羂索以為印。初方釋天王,安住妙高山,寶冠被瓔珞,持跋折羅印,及餘諸眷屬,慧者善分布。左置日天眾,在於輿輅中,勝無勝妃等,翼從而侍衛。大梵在其右,四面持髮冠,唵字相為印,執蓮在鵝上。西方諸地神,辯才及毘紐,塞建那風神,商羯羅月天,是等依龍方,畫之勿遺謬。持真言行者,以不迷惑心,佛子次應作,持明大忿怒,右號無能勝,左無能勝妃,持地神奉瓶,虔敬而長跪。及二大龍王,難陀拔難陀,對處廂曲中,通門之大護。所餘釋種尊,真言與印壇,所說一切法,師應具開示。
(Kinh:
Quỷ vương Niết Rị Để, cầm đao, dạng đáng sợ. Vua rồng Phạ Rô Noa, dùng dây
trói làm ấn. Phương trước Thích thiên vương, an trụ núi Diệu Cao, mão báu, đeo
anh lạc, cầm ấn bạt-chiết-la, và các quyến thuộc khác. Người trí khéo xếp bày. Trái đặt các Nhật Thiên, ngự
ở trong cỗ xe, Thắng phi, Vô Thắng phi, chầu hầu ở hai bên. Đại Phạm ở bên
phải, bốn mặt, đầu đội mão, dùng chữ Án làm ấn. Cầm hoa sen, cưỡi ngỗng. Các
địa thần phương Tây, Biện Tài và Tỳ Nữu, Tắc Kiến Na, thần gió. Thương Yết La,
Nguyệt Thiên. Bọn họ ở phương Rồng (phương Tây). Hãy vẽ, đừng sai sót. Hành giả
trì chân ngôn, do
tâm chẳng mê hoặc. Phật tử kế đó vẽ, Trì Minh Đại Phẫn Nộ, bên phải Vô Năng
Thắng, trái: Vô Năng Thắng Phi. Trì Địa Thần nâng bình, thành kính, đều quỳ thẳng, và hai vua rồng lớn:
Nan Đà, Bạt Nan Đà. Góc xép, đối nhau cuộn, nơi cửa lớn thông suốt. Các
tôn thánh họ Thích, chân ngôn và ấn đàn, nói ra hết thảy pháp, thầy đều nên
khai thị trọn).
Kế đó, ở góc Tây Nam, vẽ
quỷ vương Niết Rị Để, cầm đao, hiện hình dáng đáng kinh sợ; đó là vua La Sát
thủ hộ phương vị. Phạ Rô Noa (Varuṇa) là long vương thủ hộ ở phương Tây,
cầm dây trói làm ấn. Ở phương Đông, nơi phía Nam của Ngũ Đảnh, hãy nên vẽ Nhân
Đà La Thích Thiên Chúa (Đế Thích), ngồi trên núi Tu Di, thiên chúng nhiễu
quanh, đầu đội mão báu, thân khoác đủ thứ anh lạc, cầm phạt-chiết-la (vajra, chày
kim cang), và các quyến thuộc khác, tức là Xá Chi (Śacī)[72] phu nhân và Lục Dục Thiên v… chi tiết như đồ hình đã
nêu bày.
Phía
Nam của quyến thuộc Đế Thích, hãy vẽ các chúng trời thuộc Nhật Thiên (Sūrya), ngồi trong cỗ xe do
tám ngựa kéo, và hai phi tần ở hai bên tức là Thệ Da Vi (Aparājita) và Thệ
Da (Jaya), phương này dịch Thắng và Vô Thắng. Quyến thuộc của Nhật Thiên xếp
đặt các tinh tú: Áng Già (Aṃgāraka, Hỏa
Tinh) ở phương Tây, Thâu Già (Śukra,
Kim Tinh) tại phương Đông, Bột Đà (Buddha, Thủy Tinh) ở phương Nam,
Vật Lạc Tát Bát Để (Brhaspati, Mộc Tinh)
ở phương Bắc, Thiết Nễ Thiết Giá (Śanaiścara,
Thổ Tinh) tại Đông Nam, La Hầu (Rāhu) tại Tây Nam, Kiếm Bà ở Tây Bắc, Kế Đô
(Ketu) tại Đông Bắc. Lại ở phía Nam của trục ngang của phía Nam mạn-đồ-la, đặt
Niết Già Đa (Nirghāta), tức là sao Thiên Cẩu[73].
Phía Bắc của trục ngang phía Bắc, đặt Ốt Ca Bả Đa, tức là Lưu Hỏa.
Phía
Bắc của quyến thuộc Đế Thích gần với Tịnh Cư Thiên, đặt Đại Phạm Vương, đội mão
che búi tóc, ngồi trên xe do bảy con ngỗng kéo, bốn mặt, bốn tay: Một tay cầm
hoa sen, một tay cầm tràng hạt. Đó là tay bên phải. Một tay cầm bình quân-trì, một tay kết ấn chữ Án (Auṃ, ॐ), đó là tay bên trái. Thủ
ấn là hơi gập ngón trỏ, các ngón khác duỗi thẳng, đặt nghiêng tay trước người
như đang nói năng. Đó là ấn Cát Tường của bậc tịnh hạnh. Các vị trời khác thuộc
Tứ Thiền Thiên đều
xếp vào bên trái, Ngũ Tịnh Cư Thiên như Vô Nhiệt v.v… đều xếp vào bên phải. Tỳ
Ni có nói giới “hãy nhìn cách ăn mặc của Tịnh Cư Thiên, chế định cách
ăn mặc ba y và nội y tề chỉnh” là nói tới các vị trời này. Ở phương
Tây, gần cửa, đặt các vị Địa Thần. Kế đó, ở phương Bắc đặt Tát Ra Tát Phạt
Để (Sarasvatī), dịch là Diệu Âm Nhạc
Thiên, hoặc dịch là Biện Tài Thiên. Cũng đặt phi tử của vị này ở
phương Bắc. Kế đó, lại đặt Vi Sắt Nữu (Viṣṇu),
dịch theo lối cũ là Tỳ Nữu. Đấy chính là Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa). Và đặt Thương Yết La Thiên (Śaṅkara); đây chính là Ma Hê Thủ La (Maheśvara), có thế lực to lớn trong một
thế giới, nhưng chẳng phải là chủ của tam thiên đại thiên thế giới. Kinh
văn trong phần sau cũng có Rô Nại La (Rudra), tức là thân phẫn nộ của Thương
Yết La, do sự mà đặt tên. Lại đặt Tắc Kiến Na Thiên (Skanda), tức là Đồng Tử
Thiên, đều đặt phi tử của họ bên cạnh. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Hãy nên theo thứ tự đặt các
vị thiên chúng ấy ở hai bên của Đế Thích và Phạm Vương”.
Ngay góc Tây Bắc, đặt quyến thuộc của Phong Thiên để thủ hộ phương vị. Phía Nam
của cửa Tây, đối diện với Nhật Thiên, hãy nên đặt Nguyệt Thiên (Candra) cưỡi xe
ngỗng trắng. Ở hai bên vị này, đặt hai mươi bảy tinh tú, mười hai cung thần
v.v… để làm quyến thuộc. Kế đó, ở cửa Bắc, hãy nên đặt Tỳ Sa Môn thiên vương,
hai bên vị này, đặt tám Dạ Xoa đại tướng:
-
Một là Ma Ni Bạt Đà La (Maṇibhadra),
dịch nghĩa là Bảo Hiền.
-
Hai là Bố Rô Na Bạt Đà La (Pūrnabhadra),
dịch nghĩa là Mãn Hiền.
-
Ba là Bán Chỉ Ca (Pāñcika, Mật Chủ), dịch
theo lối cũ là Tán Chi.
-
Bốn là Sa Đa Kỳ Rị (Śatagiri, Oai Thần).
-
Năm là Hê Ma Phạ Đa (Himavanta), tức là
Trụ Tuyết Sơn Giả.
-
Sáu là Tỳ Sái Ca (Viśakha, Đại Mãn, Trì Pháp).
-
Bảy là A Trá Phạ Ca (Ātavaka, Vô Tỷ Lực).
-
Tám là Bán Giá La (Pañcala, Mật Nghiêm) và
Ha Lợi Để Mẫu (Hārītī).
Kinh
văn không nhắc tới Công Đức Thiên Nữ (Śrīdevi, Lakṣmī).
[Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Công Đức Thiên đáng nên ở cùng chỗ với Tỳ
Sa Môn ở phương Bắc. Nếu đặt riêng thì nên để ở phương Tây”. Phàm các
vị đại thiên thần này, đều là những vị được nhiều người biết, chúng sanh trong
thế gian ai nấy tùy theo tánh tình và lòng ưa thích mà tôn thờ, cúng dường. Đức Tỳ Lô
Giá Na vì muốn Phổ Môn nhiếp thọ chúng sanh, trọn khắp hết thảy mọi nơi đều thị
hiện thân giống như họ, dùng các biểu tượng mà thế gian cùng biết để làm biểu
tượng bí mật xuất thế gian. Ví như hình tượng Đế Thích an trụ trên núi chúa
Diệu Cao, Nhân Đà La tam-muội của Như Lai cũng chẳng dời khỏi nơi đây mà khai
xuất núi chúa Diệu Cao trong Bồ Đề tâm thanh tịnh. Các pháp môn khác đều là như
thế, chẳng thể nói cặn kẽ được! Nhưng hành giả hễ công hạnh thành tựu trong mỗi
thừa, sẽ tự khai giải.
Hơn
nữa, dưới tòa của Thích Ca Mâu Ni Phật, hãy nên vẽ hình Phẫn Nộ Trì Minh. Vị
bên phải hiệu là Vô Năng Thắng, bên trái hiệu là Vô Năng Thắng Minh Phi, đều là
sắc trắng, cầm đao ấn, quán Phật mà ngồi nơi đó. Nói tới “địa thần” thì
chính là địa thần [được vẽ] ở cửa Tây như đã nói ở phần trên. Hãy nên vẽ hình họ nâng
bình báu, kiền thành cung kính, quỳ thẳng. Trong bình ấy, cắm các loại hoa mọc trên đất hay sanh
trong nước, các điều khác như đồ hình đã nói. Và ở bên góc xép của cửa thông ra nơi tầng
thứ hai, đặt hai long vương, bên phải là Nan Đà, bên trái là Bạt Nan Đà. Trên
đầu họ đều có bảy đầu rồng, tay phải cầm đao, tay trái cầm dây trói, đứng ở
trên mây. Những vị này đều là [các tôn thánh] trọng yếu trong Mạn-đồ-la. Vì thế, hành giả
Chân Ngôn hãy nên dùng cái tâm không mê hoặc để nương theo thứ tự mà thực hiện!
Kinh
nói: “Sở dư Thích chủng tôn, chân ngôn dữ ấn đàn, sở thuyết nhất thiết
pháp, sư ưng cụ khai thị” (Các tôn thánh họ Thích, chân ngôn và ấn
đàn, nói ra hết thảy pháp, thầy nên khai thị đủ): Như các thứ bát, tích trượng, ấn v.v… thuộc Thích Ca Bộ,
chủng loại rất nhiều, kinh chẳng liệt kê trọn hết, chỉ tùy thuộc phương ấy có
chỗ nào trống khuyết, bèn chọn lựa theo những điều đã được nói trong các kinh
khác để xếp đặt. Giả sử khuyết thiếu, cũng chẳng phạm lỗi. Nhưng đối với các vị thượng thủ được
kinh này nhắc tới, đều phải nên mỗi mỗi đúng như pháp mà vẽ, chẳng được bỏ sót.
Đối với các phương thuộc Liên Hoa Bộ, Kim Cang Bộ, cũng phỏng theo lệ này mà
suy ra.
(Kinh)
Trì chân ngôn hành giả, thứ chí đệ tam viện, tiên đồ Diệu Cát Tường. Kỳ thân uất kim
sắc, ngũ kế quan kỳ đảnh, do như đồng tử hình. Tả trì thanh liên hoa, thượng
biểu kim cang ấn. Từ nhan biến vi tiếu, tọa ư bạch liên đài. Diệu tướng viên
phổ quang, châu táp hỗ huy ánh. Hữu biên ưng thứ họa, Võng Quang
Đồng Tử thân, chấp trì chúng bảo võng, chủng chủng diệu anh lạc. Trụ bảo liên
hoa tòa, nhi quán Phật trưởng tử. Tả biên họa ngũ chủng, dữ nguyện kim
cang sứ, sở vị Kế Thiết Ni, Ưu Bà Kế Thiết Ni, cập dữ Chất Đa La, Địa Huệ,
tịnh Thỉnh Triệu. Như thị ngũ sứ giả, ngũ chủng phụng giáo giả, nhị chúng cộng
vi nhiễu, thị
vệ vô thắng trí.
(經)持真言行者,次至第三院,先圖妙吉祥,其身欝金色,五髻冠其頂,猶如童子形,左持青蓮華,上表金剛印,慈顏遍微笑,坐於白蓮臺,妙相圓普光,周匝互暉映。右邊應次畫,網光童子身,執持眾寶網,種種妙瓔珞,住寶蓮華座,而觀佛長子。左邊畫五種,與願金剛使,所謂髻設尼,優婆髻設尼,及與質多羅,地慧并請召,如是五使者,五種奉教者,二眾共圍遶,侍衛無勝智。
(Kinh:
Hành giả trì chân ngôn, kế đến viện thứ ba. Trước vẽ Diệu Cát Tường, thân Ngài
màu uất kim. Đỉnh đầu năm
búi tóc, giống như thân bé trai. Trái cầm hoa sen xanh, trên hiện ấn kim cang.
Vẻ từ nhan, mỉm cười, ngồi trên đài sen trắng. Diệu tướng quang trọn khắp, giáp
vòng chiếu lẫn nhau. Bên phải, kế nên vẽ, thân Võng Quang Đồng Tử, cầm nắm các
lưới báu, đủ loại diệu anh lạc. Trụ trên tòa sen báu, nhìn ngắm Phật trưởng tử.
Bên trái vẽ năm vị, kim cang sứ thỏa nguyện, tức là Kế Thiết Ni, Ưu Ba Kế Thiết
Ni, cùng với Chất Đa La, Địa Huệ và Thỉnh Triệu. Năm sứ giả như thế, có năm vị
phụng giáo, hai chúng cùng vây quanh, chầu hầu vô thắng trí).
Kế
đó, kinh nói quyến thuộc của Bồ Tát thuộc viện thứ ba. Hãy nên ở phía trong cửa
chánh đông, tương ứng với Phật
Thích Ca, vẽ Văn Thù Sư Lợi, thân có màu uất kim, đỉnh đầu có năm búi tóc,
có hình dạng như bé trai. Tay trái cầm Nê Lô Bát La (Nīla-utpala), tức là hoa sen xanh có cánh nhỏ. Trên hoa có kim
cang ấn. Vẻ mặt Ngài cực vui sướng, mỉm cười, ngồi trên đài hoa sen trắng. Đó
là biểu tượng bí mật của Ngài. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Uất kim
chính là sắc vàng Diêm Phù, biểu thị kim cang thâm huệ. Đầu có năm búi
tóc, biểu thị Ngài đã thành tựu Ngũ Trí của Như Lai từ lâu. Do bổn nguyện nhân
duyên, hiện hình đồng chân pháp vương tử. Hoa sen xanh là tam-muội chẳng nhiễm
đắm các pháp, do tâm chẳng trụ vào đâu, tức là thấy Thật Tướng Kim Cang Trí Ấn,
có thể dùng thường tịch quang để chiếu trọn khắp pháp giới. Do vậy, Ngài ngồi trên hoa sen trắng nhằm biểu thị ý nghĩa:
Chẳng khác với Trung Đài Tạng”.
Ở
phía Bắc của ngài Văn
Thù, hãy nên vẽ Quang Võng Đồng Tử (Jālinīprabha-kumāra) Bồ
Tát, thân màu vàng ròng, cầm nắm lưới báu, dùng các thứ anh lạc để trang
nghiêm, ngồi trên hoa sen báu. Ngài Văn Thù trì vô tướng diệu huệ, còn
ngài Quang Võng trì vạn đức trang nghiêm, như Trí Độ Luận đã nói: “Dùng
muối nêm các món ăn, tăng thêm mùi vị, chẳng nhạt nhẽo”. Vì
thế, hành nhân đánh mất phương tiện Bát Nhã, chỉ tu Không Huệ, sẽ đọa vào Đoạn
Diệt. Thuần tu phước đức, sẽ đọa vào “có sở đắc”. Do vậy, “quán trưởng
tử của Phật”, ý nghĩa ở chỗ này!
Kế
đó, ngài Văn Thù có năm sứ giả: Một là Kế Thiết Ni (Keśinī), hai là Ưu Bà
Kế Thiết Ni (Upakeśinī), ba là Chất Đa La (Citrā), bốn là Địa Huệ (Vasumatī),
năm là Thỉnh Triệu (Ākarṣaṇī), được xếp theo thứ tự ở hai bên ngài Diệu Cát
Tường (Văn Thù Sư Lợi),
vì mỗi vị trì một trí của ngài Văn Thù. Kế Thiết Ni nghĩa là “tóc đoan nghiêm”.
Ổ Bá (Ưu Bà) là Á (kém hơn). Ngài Văn Thù dùng năm búi tóc để biểu thị ngũ
trí. Do vậy, sứ giả cũng lấy “tóc đẹp” làm tên. Chất Đa La có nghĩa là “nhiều
màu”. Phía dưới năm sứ giả, [dưới mỗi vị] đều vẽ một người tuân phụng giáo
pháp, đều quỳ gối hướng về sứ giả, có dáng vẻ như đang vâng lãnh lời dạy, đều
là Văn Thù tam-muội. Vì thế, kinh nói: “Thị vệ vô thắng trí” (Chầu
hầu vô thắng trí).
(Kinh)
Hành giả ư hữu phương, thứ tác đại danh xưng, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, chấp
trì như ý bảo. Xả ư nhị phần vị, đương họa bát Bồ Tát, sở vị Trừ Nghi
Quái, Thí Nhất Thiết Vô Úy, Trừ Nhất Thiết Ác Thú, Cứu Ý Huệ Bồ Tát, Bi
Niệm cụ huệ giả, Từ Khởi đại chúng sanh, Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não, bất khả tư
nghị huệ.
(經)行者於右方,次作大名稱,除一切蓋障,執持如意寶。捨於二分位,當畫八菩薩,所謂除疑怪,施一切無畏,除一切惡趣,救意慧菩薩,悲念具慧者,慈起大眾生,除一切熱惱,不可思議慧。
(Kinh:
Hành giả ở hữu phương, kế vẽ đại danh xưng, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, cầm nắm
báu như ý. Ngoại trừ hai phần vị, hãy vẽ tám Bồ Tát, tức là Trừ Nghi Quái, Thí
Nhất Thiết Vô Úy, Trừ Nhất Thiết Ác Thú, Cứu Ý Huệ Bồ Tát, Bi Niệm: Đấng trọn
huệ, Từ Khởi đại chúng sanh, Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não, huệ chẳng thể nghĩ bàn).
Kế
đến là tầng thứ hai, ở phía trái của Đại Nhật Như Lai, vẽ Trừ Cái Chướng Bồ Tát
(Sarvanīvaraṇa-viṣkaṃbhin). Theo thói
tục ở phương Tây (Ấn Độ), đi theo hướng Đông, coi phương Đông là sơ phương,
phương Nam là hữu phương, phương Tây là hậu phương, phương Bắc là thắng phương.
Nay do cửa của đàn Mạn-đồ-la này hướng về Tây, nên [ngài Trừ Cái Chướng thuộc
về phía Nam của đàn tràng, được] coi là bên trái của đức Đại Nhật. Trong đồ
hình, Trừ Cái Chướng Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen, trên hoa đặt ma-ni bảo châu,
tay phải kết ấn Thí Vô Úy[74].
Vị Bồ Tát này và các quyến thuộc đều là môn “đại
từ bi dẹp khổ, trừ chướng”. Chính là dùng Như Ý Bảo
Châu trong Bồ Đề tâm để bố thí cho hết thảy chúng sanh chẳng sợ hãi, thỏa mãn điều họ mong
nguyện.
Kinh
nói: “Xả ư nhị phần vị, đương họa bát Bồ Tát”, tức là ở bên
cạnh Trừ Cái Chướng, hãy nên
vẽ hai sứ giả. Sau đấy, theo thứ tự, xếp đặt tám vị Bồ Tát. Hễ xếp đặt các
quyến thuộc, đều là người đầu tiên ở bên phải, người thứ hai bên trái, người
thứ ba lại ở bên phải, người thứ tư ở bên trái. Một trái, một phải như thế,
theo thứ tự mà xếp đặt. Nay tám vị Bồ Tát ấy, trước hết xếp Trừ Nghi Quái
(Ascarya) ở bên phải của Trừ Cái Chướng, Thí Nhất Thiết Vô Úy
(Sarvasattvābha-yaṃdada) bên phải. Kế đó, lại xếp Trừ Nhất Thiết Ác Thú
(Sarvāpāyaṃjaha) ở bên phải của Trừ Nghi Quái. Xếp Cứu Ý Huệ (Paritrāṇā-śayamati) ở bên trái Thí Vô Úy. Kế đó,
lại đặt Bi Niệm Bồ Tát (Kāruṇāmṛditamati) ở bên phải ngài Trừ Ác Thú, xếp
Từ Khởi Bồ Tát (Mahāmaitrya-bhyudgata) ở
bên phải của ngài Cứu Ý Huệ. Kế đó, lại xếp Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não
(Sarvadāha-praśamita) ở bên phải Bi Niệm, Bất Khả Tư Nghị Huệ
(Acintyamati) ở bên trái của ngài Từ Khởi. Xếp đặt các tọa vị khác đều
phỏng theo lệ này.
(Kinh)
Thứ phục xả tư vị, chí ư Bắc thắng phương, hành giả dĩ nhất tâm, ức trì bố
chúng thái, nhi tạo cụ thiện nhẫn, Địa Tạng Ma Ha Tát. Kỳ tòa cực xảo nghiêm,
thân xử ư diễm thai, tạp bảo trang nghiêm địa, ỷ thác hỗ tương gián, tứ bảo vi
liên hoa, thánh giả sở an trụ. Cập dữ đại danh xưng, vô lượng chư Bồ Tát, vị
Bảo Xứ, Bảo Thủ, cập dữ Trì Địa đẳng. Bảo Ấn Thủ, Kiên Ý, thượng thủ chư thánh
tôn, các dữ vô số chúng, tiền hậu cộng vi nhiễu. Thứ phục ư Long phương, đương họa Hư
Không Tạng, cần dũng bị bạch y, trì đao sanh diễm quang. Cập dữ chư quyến
thuộc, Chánh Giác sở sanh tử, các tùy
kỳ thứ đệ, liệt tọa chánh liên thượng. Kim thuyết bỉ quyến thuộc, đại ngã Bồ
Tát chúng, ưng thiện đồ tảo hội, đế thành, vật mê vong. Vị Hư
Không Vô Cấu, thứ danh Hư Không Huệ, cập Thanh Tịnh Huệ đẳng, Hạnh Huệ, An Huệ
đẳng. Như thị chư Bồ Tát, thường cần tinh tấn giả, các như kỳ thứ đệ, nhi họa
trang nghiêm thân. Lược thuyết Đại Bi Tạng, Mạn-đồ-la vị cánh.
(經)次復捨斯位,至於北勝方,行者以一心,憶持布眾綵,而造具善忍,地藏摩訶薩。其座極巧嚴,身處於焰胎,雜寶莊嚴地,綺錯互相間,四寶為蓮華,聖者所安住。及與大名稱,無量諸菩薩,謂寶處寶手,及與持地等。寶印手堅意,上首諸聖尊,各與無數眾,前後共圍遶。次復於龍方,當畫虛空藏,勤勇被白衣,持刀生焰光,及與諸眷屬,正覺所生子,各隨其次第,列坐正蓮上。今說彼眷屬,大我菩薩眾,應善圖藻繢,諦誠勿迷忘。謂虛空無垢,次名虛空慧,及清淨慧等,行慧安慧等,如是諸菩薩,常勤精進者,各如其次第,而畫莊嚴身。略說大悲藏,漫荼羅位竟。
(Kinh:
Lại bỏ vị trí ấy, đến chỗ Bắc thắng phương. Hành giả do nhất tâm, nghĩ nhớ sắp
các màu, vẽ đấng trọn thiện nhẫn, Địa Tạng Ma Ha Tát. Tòa Ngài cực tinh xảo,
thân ngự trong thai lửa, các báu trang nghiêm đất, lộng lẫy, xen kẽ nhau. Bốn
báu làm hoa sen, được bậc thánh an trụ. Cùng với đại danh xưng, vô lượng các Bồ
Tát, là Bảo Xứ,
Bảo Thủ, cùng với Trì Địa thảy. Bảo Ấn Thủ, Kiên Ý, các tôn thánh thượng thủ,
đều cùng vô số chúng, trước sau cùng vây quanh. Rồi lại ở phương Rồng, sẽ vẽ Hư
Không Tạng, đấng siêng năng, mạnh mẽ, khoác mặc áo trắng ngần, cầm đao, tóe ánh
lửa. Cùng với các quyến thuộc, được sanh bởi Chánh Giác, mỗi vị theo thứ tự,
sắp xếp trên hoa sen. Nay nói quyến thuộc Ngài, hàng Bồ Tát đại ngã, hãy nên
khéo vẽ vời, chân thành, đừng mê, quên. Là Hư Không Vô Cấu, rồi đến Hư Không
Huệ, và Thanh Tịnh Huệ thảy, Hạnh Huệ, An Huệ thảy. Các Bồ Tát như thế, bậc
thường siêng tinh tấn, ai nấy theo thứ tự, mà vẽ thân trang nghiêm. Lược nói
Đại Bi Tạng, Mạn-đồ-la đã xong).
Kế
đó, ở phương Bắc, đặt Địa Tạng Bồ Tát (Kṣitigarbha).
Ở trên mặt đất trang nghiêm bằng nhiều thứ báu xen kẽ, dùng vàng, bạc, pha-chi
(Sphaṭika, pha lê), thủy tinh, bốn
chất báu làm tòa hoa sen, cũng sao cho tột bậc khéo léo, đẹp đẽ. Nay Bồ Tát ngự
trên hoa tòa ấy, quang minh chói ngời trọn khắp toàn thân, như ở trong thai
tạng, nên nói là “xử ư diễm thai” (ngự trong thai lửa). Vị tôn
thánh này chủ trì vô biên tạng báu do công đức phát khởi từ tánh nơi bảo vương
tâm địa. Vì thế, biểu tượng của Ngài được trang nghiêm bằng hết thảy kỳ trân dị
bảo xen lẫn choáng lộn. Các vị Bồ Tát quyến thuộc của Ngài cũng có ý nghĩa
tương đồng. Ở bên phải của đức Địa Tạng đặt Bảo Xứ Bồ Tát (Ratnākara), bên trái
đức Địa Tạng đặt Bảo Chưởng Bồ Tát (Ratnapāṇi). Kế đó, bên phải Bảo Xứ, đặt Trị
Địa Bồ Tát (Dharanindhara), bên trái Bảo Chưởng đặt Bảo Ấn Thủ Bồ Tát
(Ratnamudrā-hasta). Bên phải Trị Địa,
lại đặt Kiên Cố Ý (Dṛḍhādhyāśaya) Bồ Tát. Các vị tôn thánh thượng thủ như thế,
ở hai bên mỗi vị, đều vẽ các quyến thuộc vây quanh.
Kế
đó, ở phương Tây, vẽ Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśagarbha),
mặc áo trắng ngần, tay trái cầm hoa sen, trên hoa có Đại Đao Ấn. Trên Đao Ấn
sanh trọn khắp các ngọn lửa chói lòa, và các quyến thuộc đều ngồi trên hoa sen.
Vị Bồ Tát này trì “trí huệ như hư không” của Như Lai, cho nên cầm đại đao; đó
là biểu tượng của trí huệ nhạy bén. Ngài mặc áo trắng, biểu thị trắng
sạch, không nhơ. Đó là trang sức phía ngoài của giáo môn. Ví như hư không, chẳng
phân biệt, mà cũng chẳng tích tập, nhưng muôn hình tượng trong thế gian đều
nương vào đó để sanh thành. Nay pháp môn này cũng thế, trong Tất Cánh Không,
xuất sanh tác dụng tự tại chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có cùng tận, như kinh Đại
Tập Hư Không Tạng đã nói cặn kẽ. Vì thế, gọi là Hư Không Tạng.
Quyến
thuộc trong pháp môn này là Hư Không Vô Cấu (Gaganāmala) Bồ Tát, Hư Không
Huệ Bồ Tát (Gaganamati), Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát (Viśuddha-mati), Hạnh Huệ Bồ Tát
(Cāritramati), An Huệ Bồ Tát (Sthiramati), cũng theo thứ tự như trên lần lượt
xếp bên trái và bên phải. Sở dĩ đều nói là “đẳng” (vân vân), nhằm
nói các vị thượng thủ trên đây, mỗi
vị đều có vô biên quyến thuộc. Hình tướng của các Ngài đều như trong đồ hình
miêu tả. Bài kệ này cuối cùng nói: “Lược thuyết Đại Bi Tạng, Mạn-đồ-la
vị cánh” (lượt nói Đại Bi Tạng, các vị trí trong mạn-đồ-la đã xong),
hai câu này chính là người truyền độ (truyền pháp, hóa độ) dùng để kết lại ý
nghĩa, chẳng phải là kinh văn trong kinh này.
Như
đã nói trên đây, Bồ Đề tâm là nhân, đại bi là căn, phương tiện là rốt ráo, tức
là Thật Tướng Hoa Đài Đại Bi Thai Tạng trong tâm xòe nở, dùng
phương tiện đại bi hiện thành ba tầng phổ môn quyến thuộc. Do vì nghĩa ấy mà
gọi là Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la. Như trong một thế giới, hiện trọn khắp các
thân theo từng loại trong sáu đường; trong hết thảy các thế giới, cũng lại như thế. Trong các chúng
đồng phận như thế, [các vị tôn thánh ấy] là thượng thủ bậc nhất. Pháp do các vị
ấy nói cũng là vi diệu bậc nhất trong các pháp. Lại do nghĩa này, có thể nhiếp
thọ trọn khắp vô tận chúng sanh. Vì thế, đức Tỳ Lô Giá Na được gọi là Pháp Giới
Vương. Nay các vị thượng thủ này cùng nhau nhóm họp, ấn trì pháp như thế, cho
nên hết thảy chúng sanh đồng loại, ai nấy đều sanh tâm hy hữu, nói rằng: “Đấng
ta tôn trọng chẳng có ai sánh bằng”. Cũng lại ở trong chúng ấy, hãy nên
biết pháp này rất hy hữu. Do sanh tâm hy hữu, sẽ tùy thuận hết thảy pháp giới
môn mà gieo thiện căn. Thậm chí, kẻ trong đêm dài dấy khởi bất thiện căn, toan
phá hoại chánh pháp, đã tới đạo tràng, thấy các vị đại thiên được tôn phụng,
lại được ban thí pháp thực chẳng thể nghĩ bàn, ác tâm liền diệt, vứt bỏ ma sự,
hoặc sanh một niệm tâm tùy hỷ. Do sanh một niệm tịnh tâm, sẽ có thể mở ra Đại
Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la.
Lại
nữa, các thứ pháp môn trong Mạn-đồ-la này tuy cùng một pháp giới, nhưng công
dụng cạn hay sâu đều có sai khác. Như do cùng sanh trưởng trong một cuộc đất,
cùng được một trận mưa tưới tắm, nhưng do các dược thảo tánh phận bất đồng, nếu
y vương xem xét, liền biết thảo dược như thế tuy chẳng thích hợp để đối trị một
căn bệnh nào đó, nhưng đối với một chứng bệnh khác, lại có thế lực thù thắng.
Nếu trong các phương tiện phổ môn như thế đó, mỗi mỗi phân biệt chẳng sai, bèn
kham làm bậc đại A-xà-lê. Trong Đại Bổn mười vạn kệ, các vị tôn thánh ai nấy
đều tự tuyên nói pháp giới môn do chính mình thông đạt, các thứ pháp phương
tiện lạ, nay lược bổn này chỉ nêu lên pháp yếu phổ thông để tiến nhập đạo mà
thôi. Nếu hành giả đúng pháp tu hành, chẳng khuyết thiếu pháp tắc, khi được gia
bị chẳng thể nghĩ bàn, sẽ tự nhiên khéo chỉ bày phương tiện, không gì chẳng
thông suốt. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Phàm hành giả chẳng trụ trong
Du Già, sẽ chẳng thích hợp vì người khác kiến lập Mạn-đồ-la”.
Thoạt
đầu, khi sắp vẽ, trước hết dùng tự môn để chuyển thành các vị tôn thánh, tọa
vị, hình sắc, tánh loại, mỗi mỗi tương ứng, liền quán Đại Bi Tạng như thế chính
là thân ta rồi mới khởi sự vẽ. Bậc thâm hạnh A-xà-lê như thế, ắt trong hết thảy
các thời, đều thường chẳng lìa Phật hội như thế. Khi làm pháp sự vẽ vời, theo
đúng như pháp, lần lượt bắt đầu [vẽ] từ đất kim cang, quán cung điện bảo
vương trên đỉnh núi Tu Di, tất cả mỗi mỗi đều trang nghiêm như trong phẩm sau
sẽ nói. Hiểu rành rẽ như thế thì mới có thể thỉnh vời được!
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần ba hết
[1] A
Tỳ Giá Lỗ Ca (Abhicāraka), còn phiên âm
là A Tỳ Trá Lưu Ca, A Tỳ Tả Lưu Ca, tức là điều phục, hàng phục, nghĩa đen là “trói
buộc khiến cho chẳng tự tại”.
[2] Hiểu theo nghĩa thông thường,
Tứ Trọng Cấm chính là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, và nói dối. Trong Mật Giáo,
Tứ Trọng Cấm là:
1. Chẳng xả chánh
pháp.
2. Chẳng xả Bồ Đề tâm.
3. Chẳng keo kiệt pháp
thù thắng.
4. Chẳng tàn hại chúng
sanh.
[3] Tiểu
Thừa sau khi chứng quả, sẽ thường nhập diệt tận định, trụ trong Thiên Chân Niết
Bàn, xả sắc thân, kinh thường nói là “hôi thân diệt trí” (thân
như tro, trí nhập diệt), do không có bi nguyện độ sanh, nên thường gọi là “hôi
đoạn” (đoạn diệt như lửa tắt, chỉ còn tro).
[4] Dư
nghiệt (餘枿): Các chủng tử tập khí xấu ác còn sót lại
từ quá khứ.
[5] Bạch
nguyệt (Śukla-paksa) chỉ nửa đầu mỗi
tháng Âm lịch, từ lúc trăng mới mọc cho đến khi trăng tròn.
[6] Hai
mươi bảy tinh tú (Nakṣatram) là hai mươi bảy
chòm sao trong thiên văn học cổ Ấn Độ, gồm: A Thuyết Nhĩ (Ashvinī),
Bạt Lạt Nhĩ (Bharanī), Cơ Lật Để Kha (Kṛttikā), Lỗ Hỷ Ni (Rohini), Ma Lê Già
Thi La (Mrigashīra), A Đà La (Ārdrā), Bất Nại Bà Tu (Punarvasu), Phất Sa
(Pushya), A Sa Ly Sa (Āshleshā), Ma Già (Maghā), Phất Bà Phả Cầu Ni (Pūrva
Phalgunī), Úc Đa La Phả Cầu Ni (Uttara Phalgunī), Ha Sa Đa (Hasta), Chất Đa La
(Chitrā), Sa Để (Svātī), Tỳ Thích Kha (Vishākhā), A Nô La Đà (Anurādhā), Chiết
Sa Tha (Jyeshtha), Mâu Lam (Mūla), Phất Bà Sa Tha (Pūrva Ashādhā), Úc Đa La Sa
Tha (Uttara Ashādhā) Sa La Ba Na (Shravana), Đản Nhĩ Sắt Đà (Dhanistha), Xá Đa
Tỳ Sa (Shatabhisha), Phất Bà Bạt Đà La Bát Tha (Pūrva Bhādrapadā), Úc Đa La Bạt
Đà La Bát Tha (Uttara Bhādrapadā), và Ly Bà Để (Revatī)
[7] Thập
Nhị Thứ còn được gọi là Phận Dã, là khái niệm thiên văn được định ra vào thời
Ân Thương. Cổ nhân căn cứ theo sự vận chuyển của Tuế Tinh (Mộc Tinh) trên bầu
trời, họ nhận thấy: Nhìn từ trái đất, Tuế Tinh xoay quanh trái đất một vòng hết
mười hai năm. Do vậy, họ chia hoàng đạo (quỹ đạo vận chuyển của Tuế Tinh) thành
mười hai cung, gọi là Thập Nhị Thứ, đặt tên là Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tu Tứ,
Giáng Lâu, Đại Lương, Thật Thẩm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại
Hỏa, và Tích Mộc. Từ đó, mở rộng thành khái niệm mỗi Thứ trong mười hai Thứ sẽ
ứng với một khu vực trên mặt đất của Cổ Trung Hoa (chỉ tương ứng với phần gọi là Trung Nguyên, tức khu vực
giữa Hoàng Hà và Trường Giang), gọi mỗi thứ là một “phận dã”, đồng thời
quy định hai mươi tám ngôi sao thuộc vào phận dã nào.
[8] Một
trăm lẻ tám Túc là do có hai mươi bảy
ngôi sao, mỗi ngôi có bốn Túc, thành ra 27x4=108 Túc. Túc (pāda) ở đây là đơn vị đo khoảng cách di chuyển của mặt
trăng trên bầu trời khi quan sát từ trái đất.
[9] Theo
thiên văn học cổ Ấn Độ, La Hầu là giao điểm giữa quỹ đạo của mặt trăng và hoàng
đạo, nên còn gọi
là Giao Hội. Do trong huyền
thoại Ấn Độ, các thiên chúng và A Tu La cùng quấy đảo biển sữa để tìm cam lộ (Amrta).
Sau đó, thiên
chúng đánh bại A
Tu La, độc chiếm cam lộ, Mohini (một hóa thân của thần Vishnu) chia cam lộ cho chư thiên.
Một A Tu La tên là Svarbhanu đã giả làm
thiên chúng để uống cam lộ. Do Nhật Thiên (Surya) và Nguyệt Thiên (Chandra)
phát hiện, tố cáo với Mohini. Mohini cắt đứt đầu Svarbhanu, phần đầu được gọi
là Rahu (La Hầu), phần thân được gọi là Ketu (Kế Đô). Để báo thù, La Hầu thường
tìm cách nuốt mặt trời, mặt trăng, tạo nên hiện tượng nhật thực và nguyệt thực.
Vì thế, La Hầu còn được gọi là Thực Thần.
[10] Trực Nhật ở đây có nghĩa là
mỗi sao ứng với một ngày trong tuần.
[11] Hộ
Ma (Homa) dịch nghĩa là hỏa thiêu, hỏa tế, còn gọi là Hỏa Cúng, tức là cúng dường bằng cách thiêu vật cúng như gỗ
thơm, thảo dược, sữa, mật v.v… trong lửa, hàm nghĩa dùng lửa trí huệ thiêu đốt
mê tâm, vọng tưởng.
[12] Tiêu
xí (摽幟) có nghĩa gốc là cờ quạt hoặc ký hiệu để
phân biệt một sự vật. Ở đây, lời sớ thường dùng chữ này để chỉ một dấu hiệu đặc
biệt, hoặc một pháp khí cầm trong tay của các vị tôn thánh để biểu thị hạnh
nguyện của vị đó, giúp cho hành nhân nhận biết vị tôn thánh ấy.
[13] Sao
Cơ (gọi đầy đủ là Cơ Thủy
Báo) là
một chùm sao trong Nhị Thập Bát Tú của Trung Hoa, nằm ở phương Đông, tương ứng
với chòm sao Nhân Mã (Sagittarius) trong thiên văn học Tây phương. Thần thoại
Trung Hoa coi sao này là hiện thân của thần Gió. Sao Tất (gọi đầy đủ là Tất Nguyệt Ô, gồm mười
lăm ngôi sao chánh như Tất, Phụ Nhĩ, Thiên Nhai, Thiên Tiết…) tương ứng với
chòm sao Kim Ngưu (Taurus) trong thiên văn học hiện đại.
[14] Đại
lực minh: Các chân ngôn (minh chú, đà-la-ni) do các thân phẫn nộ (thường gọi là
minh vương) nói ra.
[15] Tô-đa-la
ở đây không phải là Khế Kinh, mà chỉ có nghĩa là sợi dây do các sợi chỉ nhiều
màu được xe lại.
[16] Lục
Tế (sáu thứ ngăn che) chính là sáu thứ ác tâm trở ngại hành nhân chứng nhập tự
tâm thanh tịnh, gồm tâm keo kiệt, tâm phá giới, tân sân hận, tâm lười nhác, tâm
tán loạn, và tâm si.
[17] A
Lợi Sa (Ārṣa) dịch nghĩa là Cổ Thánh Chủ, tức
là công đức thù thắng, tự lợi, lợi tha, là đạo của cổ thánh tiên hiền. Nói A
Lợi Sa Kệ là gọi chung các bài kệ do cổ thánh đã soạn ra với dụng ý tán dương
các điều tốt lành, hoặc tóm tắt các pháp yếu để tu tập.
[18] Du
Già (Yoga) dùng trong kinh sách Phật giáo không có nghĩa là một môn tập luyện
để bồi bổ sức khỏe hay các phương pháp Thiền Định của ngoại đạo, mà dùng theo
nghĩa “tương
ứng”. Theo
Đại Nhật Kinh Sớ, Du Già có năm loại tương ứng: Một là tương ứng với cảnh, hai
là tương ứng với hạnh, ba là tương ứng với lý, bốn là tương ứng với quả, năm là
tương ứng với cơ duyên. Duy Thức hay dùng chữ Du Già nhằm thể hiện ý nghĩa
tương ứng với lý thú (do vậy mới có bộ luận Du Già Sư Địa). Mật Tông thì dùng
chữ Du Già nhằm thể hiện hành giả Tam Mật tương ứng, khế hợp với Bồ Đề tâm
thanh tịnh.
[19] Giác
Quán là danh xưng khác của Tầm Tứ, tức là suy nghĩ ở mức độ thô thiển thì gọi
là Giác, suy nghĩ cặn kẽ sâu xa, thì gọi là Quán.
[20] Năm thứ báu nhằm tượng trưng
cho hết thảy các vật báu, biểu thị “tôn quý nhất, vô thượng”. Tùy theo từng
kinh mà năm thứ báu khác nhau. Chẳng hạn như kinh Tô Tất Địa nói năm thứ báu là
vàng, bạc, chân châu, loa bối (vỏ ốc), xích châu. Kinh Cù Hê (kinh Nhuy Hế Da)
nói năm thứ báu là san hô, pha lê, vàng, bạc, thương-khư (vỏ ốc biển to). Kinh
Đà La Ni Tập nói năm thứ báu là vàng, bạc, chân châu, san hô, hổ phách. Kinh
Kiến Lập Mạn Đồ La Trạch Địa Pháp nói năm thứ báu là vàng, bạc, chân châu, sắt
sắt (một loại đá quý có màu xanh đậm), và pha lê.
[21] Ngũ cốc là năm loại hạt dùng
làm lương thực, gồm đại mạch (barley), tiểu mạch (lúa mì), đạo cốc (gạo tẻ),
tiểu đậu (đậu đỏ), và hồ ma (mè). Các kinh Mật giáo thường dạy như vậy, nhưng
Quán Trí Nghi Quỹ lại nói ngũ cốc là đạo cốc, đại mạch, tiểu mạch, lục đậu (đậu
xanh) và bạch giới tử (hạt cải trắng). Nói chung, ngũ cốc tượng trưng cho chủng
tử của Bồ Đề tâm thuộc Ngũ Trí của Như Lai.
[22] Năm món thuốc (ngũ dược) đại
biểu cho phá trừ mê hoặc, tận trừ các thứ bệnh khổ do vô minh phiền não chướng
gây ra. Các kinh nói ngũ dược bất đồng. Chẳng hạn như kinh Kim Cang Đảnh Du Già
nói năm thứ thuốc là Bà Hạ Tát Ra, Bà Hạ Nễ Phược, Kiến Tra Cát Rị, Ngại Rị Yết
Ra Noa, Vật Rị Đáp Hạ Định. Do Trung Hoa không có các vị thuốc ấy, bèn dùng các
thứ thuốc được coi là linh dược để thay thế, tức là dùng Phục Linh, Châu Sa,
Hùng Hoàng, Nhân Sâm, và Xích Tiễn.
[23] Đẳng
Chí là danh xưng khác của Định. Ở trong Định, thân tâm hòa hợp an trụ trong
bình đẳng, đó là Đẳng. Do Định mà có thể đạt tới địa vị bình đẳng, nên gọi là
Đẳng Chí.
[24] Phật Mẫu hiểu theo nghĩa chung
chính là Bát Nhã Ba La Mật, vì Phật do trí huệ mà sanh. Trí huệ vô thượng là
Bát Nhã Ba La Mật, nên Bát Nhã Ba La Mật được gọi là Phật Mẫu. Trong Mật giáo,
Phật Mẫu chính là thần cách hóa của nguyên tố có thể sanh ra chư Phật, Bồ Tát
(tức trí huệ Bát Nhã Ba La Mật), lập ra các tôn vị như Phật Nhãn, Chuẩn Đề v.v…
(được xếp vào Biến Tri Viện của Thai Tạng Mạn-đồ-la), đấy chính là các thân cụ
thể hóa của trí huệ chư Phật.
[25] Liên Hoa Thủ là một danh xưng
của Quán Thế Âm Bồ Tát. Tên Ngài còn được dịch thành Quang Thế Âm, Quán Tự Tại,
Quán Thế Tự Tại, Quán Thế Âm Tự Tại, Hiện Âm Thanh, Khuy Âm, Cứu Thế, Viên
Thông Đại Sĩ v.v…
[26] Thủ
Đà Hội Thiên (Suddhāvāsehi) chính là Ngũ Tịnh Cư Thiên, tức chư thiên thuộc năm
tầng trời Tịnh Cư.
[27] Thù,
lượng là các đơn vị trọng lượng thời cổ, khá nhẹ. Cách tính như sau: Một thạch
là một trăm hai mươi cân, một cân là mười sáu lượng, một lượng là hai truy, một
truy bằng sáu thù. Mà một cân thời Tần Thủy Hoàng chỉ là 253g. Như vậy, một Thù
chỉ khoảng 0,65 g.
[28] Ô
Lật Đà (hrdaya) có nghĩa là nhục đoàn tâm, kiên thật tâm.
[29] Cù
Hê là phiên âm của chữ Guhya, có nghĩa là niệm tụng. Đây là tên gọi tắt của bộ
kinh Nhuy Hế Da, gọi đầy đủ là Cúc Hế Da Đàn Đát La Kinh (Guhyatantra) gồm ba
quyển, do ngài Bất Không dịch, gồm mười một phẩm, giảng rất nhiều về nghi thức
Mật pháp.
[30] Yết Ma (Karma) có nghĩa là
“tác nghiệp”, tức là nghi thức tuyên cáo khi Tăng chúng thực hiện các việc như
thọ giới, sám hối, cử tội v.v…
[31] Bộ
kinh này do ngài Pháp Chúng dịch sang tiếng Hán vào đời Bắc Lương. Kinh này còn
có tên là Phương Đẳng Đàn Trì Đà La Ni Kinh, hoặc Đàn Trì Đà La Ni. Do Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát thỉnh vấn đức Phật bèn nói các loại đà-la-ni, tu hành, hộ giới
v.v… Ngài dạy rõ cách hành sám hối, diệt tội v.v… Đồng thời, kinh còn dạy hai
mươi bốn giới trọng của Bồ Tát. Dựa theo kinh này, Nam Nhạc đại sư đã hành pháp
Phương Đẳng tam-muội, chứng viên vị. Vì thế, Trí Giả đại sư đã soạn một quyển
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp.
[32] “Xỉ mộc” (齒木) ở
đây vốn là một phiến gỗ có chất chát hoặc tinh dầu thơm, dùng để chà răng cho
sạch sẽ, hoặc nhai nhỏ để chất chát hoặc tinh dầu tiết ra, có tác dụng khử
trùng, khử mùi hôi khiến cho hơi thở thơm tho.
[33] Kết hộ: Kết ấn hộ thân để gia trì.
[34] Ý
nói miếng xỉ mộc để dùng trong đàn pháp này phải chọn miếng ngay ngắn, không
cong vẹo, có thể phân biệt rõ đầu nào là phía trên thân cây, phần nào là dưới
(tức hướng xuống gốc cây) như trong lời sớ sẽ giải thích cặn kẽ.
[35] A
Thuyết Tha là tên gọi khác của cây Tất Bát La (Pippala), tức cây Bồ Đề.
[36] “Diên” theo
nghĩa gốc là dây để buộc, nghĩa hẹp là cái dây để buộc mũ cho khỏi rớt. “Kinh” là
sợi dọc khi căng sợi để dệt vải.
[37] Tam-muội-da
(Samaya) có rất nhiều ý nghĩa, các ý nghĩa chủ yếu là bình đẳng, thệ nguyện,
cảnh giác và trừ cấu chướng. Tuy vậy, khi nói đến Tam-muội-da, thường được hiểu
theo các nghĩa sau đây:
- Một hệ thống giáo pháp hay giáo nghĩa,
đặc biệt là giáo nghĩa Mật Tông.
- Hiểu đồng nhất với khái niệm Tam-muội-da
giới, tức các giới luật cần thiết cho hành giả chân ngôn.
- Sự nhận thức Phật tánh, Phật quả.
- Hành giả hợp nhất với Tam Mật của Phật.
[38] Đây
là một câu thành ngữ phát xuất từ kinh Dịch, hàm ý: Sau khi đã hiểu rõ, lý giải
quy luật của một chuyện, tiến cao hơn nữa là đối với những sự lý có cùng một
loại với chuyện đó, sẽ đều có thể hiểu rõ thấu đáo hơn.
[39] Kiền-độ (skandha), còn phiên âm là Kiến Đà, Kiến
Đồ, Càn Độ, Tắc Càn Đà, Sa Kiền Đồ, có các ý nghĩa: Uẩn, Tụ, Chúng, Phần Đoạn,
tức là phân loại các điều tương đồng để hợp riêng thành từng nhóm. Do vậy, Kiền
Độ tương đương với Phẩm hoặc Tiết. Trong giới luật, nói chung có hai mươi hai
loại kiền độ, chẳng hạn như: Kiền-độ nhằm quy định pháp thức xuất gia, thọ
giới, còn gọi là Đại Kiền Độ; kiền-độ về cách Bố Tát (tụng giới), kiền-độ gồm các quy định về an cư, kiền-độ về tự tứ…
[40] Tịnh
bình còn gọi là bình Quân Trì (Kuṇḍikām, còn
phiên âm là Quẫn Trĩ Ca), chỉ có nghĩa là Bình. Do tác dụng mà
chia thành hai loại là tịnh bình và xúc bình. Tịnh bình dùng để đựng nước rửa
tay sạch, còn xúc bình (tháo bình) là bình đựng nước để rửa tay dơ. Có sách còn
nói rõ tịnh bình bằng sứ, còn tháo bình thì dùng kim loại như đồng, sắt đúc
thành. Sách Ký Quy Truyện lại bảo tịnh bình đựng nước uống, còn tháo bình dùng
để rửa ráy, tắm gội. Khi cầm tịnh bình, phải dùng tay sạch, cất tịnh bình ở chỗ
sạch.
[41] Tô
Tất Địa có tên gọi là Tô Tất Địa Yết La Kinh (Susiddhikara
Mahātantra Sādhanopāyika Paṭala) do ngài Thâu Ba Ca La (Śubhakarasiṃha, tức
ngài Thiện Vô Úy) dịch vào năm Khai Nguyên 14 (726) đời Đường, gồm ba quyển,
chia thành ba mươi bảy phẩm. Kinh dạy về sự thành tựu trong ba bộ của Mật Tông
(Phật bộ, Liên Hoa bộ và Kim Cang bộ), bao gồm các nghi thức trì tụng, quán
đảnh, cầu thỉnh, hộ ma, thành tựu, thời phần v.v… Do kinh này nói nhiều về oai
nghi pháp tắc của hành giả Chân Ngôn, nên kinh này lại cùng với kinh Tô Bà Hô
Đồng Tử Thỉnh Vấn được coi là Giới Kinh của Mật Tông. Trong truyền thống Đông
Mật, kinh này cùng với kinh Đại Nhật và Kim Cang Đảnh được coi là Mật Tông Tam
Đại Bộ. Thai Mật (Mật Tông trong Thiên Thai Tông Nhật Bản) cho rằng kinh Kim
Cang Đảnh và kinh Đại Nhật nói riêng về Kim Cang Tạng và Thai Tạng, còn Tô Tất
Địa nhằm diễn bày ý chỉ sâu xa Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới bất nhị. Lời Sớ nói “dùng chữ để tính” tức
là tùy theo chú dài hay ngắn mà giảm hay tăng số lượt tụng niệm tương ứng.
[42] Trong
ba bộ của Mật Tông, vị tôn thánh có phẩm đức năng sanh ra các công đức và hành
pháp của bộ ấy, được gọi là Bộ Mẫu. Chẳng hạn như Bộ Mẫu của Phật Bộ là Phật
Nhãn, Bộ Mẫu của
Liên Hoa Bộ là Bạch Y Quán Tự Tại, Bộ Mẫu của Kim Cang Bộ là Mang Mãng Kê Bồ Tát. Bộ Mẫu thường
được gọi là Phật Mẫu, nhưng không có nghĩa là “sanh ra Phật”,
mà là vị có công năng sanh ra các phẩm đức của Tỳ Lô Giá Na Phật.
[43] Niết
Rị Để có hai cách hiểu:
1. Hiểu theo nghĩa thông thường là tên một
nữ thần chủ trì sự phá hoại, bất hạnh, tai họa, bệnh tật, nguy hiểm, sợ hãi,
hoặc là mẹ của địa ngục.
2. Theo Mật giáo, đây là tên của một La Sát Thiên, tay
cầm đao bén, hình dạng như quỷ vương đáng kinh sợ, thủ hộ phương Tây Nam.
[44] Tức
ba tầng để bọc quanh Trung Đài Bát Diệp trong Mạn-đồ-la sẽ dùng để thiết lập
từng khu (thường gọi là Viện) như Liên Hoa Viện, Kim Cang Thủ Viện, Trì Minh
Viện v.v…
[45] Ương-cụ-lê
(Aṅguli) có nghĩa là ngón tay.
[46] Trong
Thai Tạng Mạn-đồ-la, phía trên Mạn-đồ-la được coi là phương Đông.
[47] Mạt
nhân ngờ rằng đây là lỗi lầm do khắc ấn, vì trong các hình vẽ Mạn-đồ-la từ đó
tới giờ, phần nhọn của ấn này luôn hướng lên trên.
[48] Bên
trái và bên phải trong lời Sớ là nói theo Đại Nhật Như Lai trong đồ hình, không
phải là theo phương hướng của người nhìn Mạn-đồ-la. Nếu nhìn theo phương hướng của người nhìn vào
Thai Tạng Mạn-đồ-la, phía trên là phương Đông, phía dưới là phương Tây, bên
phải của người ấy là
phương Nam, bên trái là phương Bắc.
[49] Bộ
Chủ là một vị Bồ Tát trọng yếu nhất, có các phẩm đức đặc trưng nhất của một bộ.
Có thể hiểu Bộ trong Mạn-đồ-la như tập hợp các vị Bồ Tát hoặc thánh giả có phẩm
đức tương đồng. Chẳng hạn như phẩm đức của Liên Hoa Bộ là đại bi, có tác dụng
trưởng dưỡng muôn điều thiện, cứu độ chúng sanh. Các vị Bồ Tát trong một bộ có
thể là các hóa thân khác nhau của vị Bộ Chủ (chẳng hạn Đa La, Đại Bạch, Tỳ Câu
Chi, Mã Đầu đều là các thân hóa hiện của Quán Thế Âm Bồ Tát), hoặc các Bồ Tát
có phẩm đức tương đồng với vị Bộ Chủ.
[50] Hoa
Quân-na còn phiên âm là hoa Quân-đà, hoặc Quần-na, hoa nở ra trắng tinh, nên còn gọi là Bạch Mạt Lợi Hoa
(hoa nhài trắng, tuy chẳng phải là hoa nhài), thường hay được dùng để cúng
dường trong các nghi lễ của Mật giáo.
[51] Khi nói Thanh thì là màu xanh dương, không phải xanh lá
cây. Nếu nói đến màu xanh lá cây, kinh sẽ dùng chữ Lục.
[52] Viên
quang là quang minh phóng ra từ đỉnh đầu của Phật, hay Bồ Tát, có hình tròn xoe
bao quanh đầu, còn hào quang là quang minh phóng ra từ tướng bạch hào giữa hai
mày.
[53] Tỳ
Câu Chi, còn phiên âm là Tất Rị Câu Chi, có nghĩa là nhíu mày, vì vị này sanh
ra từ vết nhăn trên trán của Quán Âm khi Ngài nhíu mày. Do vậy, kinh Bất Không
Quyến Sách Tâm Chú Vương dịch tên Ngài là Sân Mục (mắt giận dữ). Ngài có
ba mắt, bốn tay, mang hình dạng thiên nữ.
[54] Ở
đây lời Sớ ghi là “sổ thù man” (數殊鬘, mấy tràng hoa thù thắng), nhưng chánh
kinh và các tự điển đều ghi là “sổ châu man” (數珠鬘, tràng hạt, xâu chuỗi). Có lẽ Châu bị viết
sai thành Thù.
[55] Minh
Vương (Vidyā-rāja) còn gọi là Trì Minh
Vương, Phẫn Nộ Tôn, Oai Nộ Vương. Minh là tên gọi khác của chân ngôn (thần chú)
vì có tác dụng phá ngu ám giống như quang minh trí huệ. Đây là giáo lệnh thân
luân, hiện vẻ phẫn nộ nhằm điều phục chúng sanh ương ngạnh, bạo ác. Phi trong
minh phi có nghĩa là nữ tính, nhằm miêu tả tác dụng nhu hòa, từ bi, sanh trưởng
hết thảy công đức của một thần chú. Có thể hiểu thô thiển Minh Vương là biểu hiện
của lực dụng, còn Minh Phi là nhân cách hóa của trí huệ.
[56] Đây là thân minh vương giáo lệnh thân luân của Liên Hoa
Bộ, còn gọi là Mã Đầu đại sĩ. Vị này được coi là thân phẫn nộ của Vô Lượng Thọ
Phật, dùng Quán Âm làm tự tánh thân, nên thường gọi là Mã Đầu Quán Âm. Do đỉnh
đầu Ngài có đầu ngựa, biểu thị hóa độ chúng sanh thuộc súc sanh đạo, đồng thời
biểu thị mã bảo của Chuyển Luân Thánh Vương có thể đi khắp tứ phương hàng phục
nghiệp chướng, oai thế đại tinh tấn hàng phục tứ ma, ăn nuốt các trọng chướng.
[57] Có nghĩa là các trì minh sứ giả thuộc Kim Cang Bộ.
[58] Đây là chữ dùng để mô phỏng tiếng cười vang dội của vị
này.
[59] Hiển
sắc: Sắc tướng có thể thấy bằng mắt thường. Xanh, vàng, đỏ, trắng, mây, khói,
bụi, sương mù, sáng, tối, bóng, ánh sáng được gọi là mười hai hiển sắc.
[60] Ở
đây, ấn phải hiểu theo nghĩa rộng, ấn có thể bao gồm các tư thế nơi tay (thủ
ấn), hoặc các vật dụng nhằm biểu thị pháp nghĩa như chày kim cang, linh (chuông kim cang), dây quyến sách, bánh
xe, ngọc ma-ni, hoa sen, gươm v.v…
[61] Mang
Mãng Kê còn được phiên âm là Mãng Mạc Kế, Mang Ma Kế, Ma Mạc Chỉ, Mang Mang Kê,
Mang Mạc Chỉ, Ma Ma Kê, Ma Mạc Kê, Mang Mạc Kế Minh Phi, dịch là Kim Cang Mẫu,
hoặc Đa Mẫu, tức là vị Bồ Tát biểu thị trí huệ Bát Nhã. Theo các kinh Mật Tông
khác, Ngài được mô tả là ngồi bán già, tay trái ngửa lên đặt dưới rốn, hoặc cầm
Như Ý Bảo Châu trong tư thế kết ấn Thí Nguyện, tay phải cầm chày kim cang ba
nhánh, hoặc cầm kinh Bát Nhã. Thân màu xanh nhạt pha sắc tía, oai nghi tịch
tĩnh. Hình tam-muội-da của Ngài là chày kim cang ba nhánh, biểu thị có thể sanh
ra trí huệ kiên cố.
[62] Theo
Phật Học Đại Từ Điển của Đinh Phước Bảo, đây là một danh hiệu khác của minh
vương Hàng Tam Thế (Trailokyavijaya).
Ngài còn được gọi là Thắng Tam Thế, Tam Thế Thắng, Hàng Tam Thế Kim Cang Bồ
Tát, là vị thứ hai trong Ngũ Đại Minh Vương của Mật Giáo. Đây chính là giáo
lệnh thân luân của Kim Cang Bộ. Ngài có mật hiệu là Tối Thắng Kim Cang. Do hàng
phục tam độc và tam giới nên gọi là Hàng Tam Thế. Hình tượng Ngài là ba mặt,
tám tay, hoặc bốn mặt, tám tay, màu xanh dương đậm. Tay cầm các thứ khí giới,
sau lưng có vòng lửa bao quanh, chân đạp lên Tự Tại Thiên và Ô Ma Phi, biểu thị
đối trị phiền não. Vị này do chính Đại Nhật Như Lai biến hiện.
[63] Đây
chính là phía dưới của Mạn-đồ la, từ đây trở đi là nói tới các vị tôn thánh
thuộc Trì Minh Viện.
[64] Sa
kế là búi tóc theo kiểu dùng cỏ để quấn lại, đây là thói quen để tóc của nô lệ
tại Ấn Độ thời cổ. Trong Mật giáo, Bất Động Minh Vương là thị giả của Như Lai,
nên Ngài để
kiểu tóc này nhằm biểu thị Ngài là nô bộc của chư Phật. Trên đầu Ngài, tóc
kết thành bảy búi nhằm biểu thị Thất Bồ Đề Phần. Đuôi tóc thả xuống vai trái
biểu thị từ bi thương xót chúng sanh xấu ác cùng cực, đang hứng chịu khổ não.
[65] Ý nói: Nếu tính từ Trung Đài Bát Diệp trở ra, ngoại giới
tầng thứ nhất ở phía trên của Trung Đài Bát Diệp là Biến Tri Viện (tức nơi đặt
Nhất Thiết Biến Tri Ấn), tầng thứ hai của ngoại giới (tức là tầng thứ ba nếu kể
luôn Trung Đài Bát Diệp) là Thích Ca Viện, nơi đặt hình tượng Phật Thích Ca và
các vị Phật Đảnh.
[66] Quyến thuộc của Tỳ Lô Giá Na Phật chính là bốn vị Như Lai
và bốn vị Bồ Tát thuộc Trung Đài Bát Diệp.
[67] Màu
Càn Đà (Kanthā, Kanṭaka), còn phiên âm là Kiện
Đà, hay Kiệm Đạt, tức là màu đỏ có ánh vàng. Sách Báo Phục Nghi giảng: “Dùng
nhựa cây mộc lan để nhuộm, sắc đỏ nhiều, sắc đen ít, thì thành màu Càn Đà”,
tức màu gần giống màu y maroon dùng tại
Tây Tạng và Miến Điện.
[68] Trong
Mật giáo, năm ngón tay sẽ tương ứng với nhiều ý nghĩa như Thập Độ, ngũ đảnh,
ngũ đại v.v… Nói riêng về ngũ đại thì:
- Ngón cái là Không, tương ứng với chủng tự
Kha.
- Ngón trỏ là Phong, tương ứng với chủng tự
Ha.
- Ngón giữa là Hỏa, tương ứng với chủng tự
Ra.
- Ngón áp út là Thủy, tương ứng với chủng
tự Va.
- Ngón út là Địa, tương ứng với chủng tự A.
[69] Phật
Đảnh (Buddhośnīsa), còn phiên âm là Ốt
Sắt Ni Sa, Ô Sắt Ni Sa, Uất Sắt Ni Sa… Nghĩa đen là nhục kế trên đỉnh đầu đức
Phật, còn gọi là Vô Kiến Đảnh Tướng. Xương đỉnh đầu Phật đột nhiên nhô cao, có
hình dạng như búi tóc, nên gọi là Nhục Kế. Phàm nhân sẽ chẳng thấy tướng
thù thắng nơi đỉnh đầu đức Phật nên gọi là Vô Kiến Đảnh Tướng. Trong Mật giáo, chia thành các vị Phật Đảnh để biểu
thị công đức trí huệ của
Phật, gồm Tam Phật Đảnh (phẩm đức của Như Lai trong ba bộ của Thai Tạng Giới),
Ngũ Phật Đảnh (năm trí của Như Lai)…
[70] Hắc
Dạ Thần còn gọi là Hắc Dạ Thiên, Ám Dạ Thiên, Hắc Ám Thiên, chính là một trong
ba người vợ của Diễm Ma Vương.
[71] Đây
chính là bảy chị em của Diễm Ma vương. Đại Nhật Kinh Nghĩa Thích giảng: “Vua
Diễm Ma có bảy chị em, một là Tả Vấn Noa, hai là Kiều Phệ Rị, ba là Phệ Sắt Noa
Vi, bốn là Kiều Ma Rị, năm là Ấn Nại Rị, sáu là Lao Nại Rị, bảy Mạt Đa Hế Nhị”.
[72] Xá
Chi, còn được phiên âm là Thiết Thí, Thích Chi, Thiết Chi, Sa Hế Ca, dịch nghĩa
là Tịnh Lượng, Diệu An, Khả Ái, là vợ cả của Đế Thích, là con gái của một A Tu
La vương. Theo kinh Hoa Nghiêm, bà này có thể trong âm thanh mà diễn xuất ngàn
loại âm. Theo Đại Tỳ Bà Sa Luận, bà này khi phát ra âm thanh siểm mị, khiến cho
các tiên nhân trong đại châu đều sanh ý niệm ái dục, đánh mất Định thù thắng,
[73] Thiên Cẩu Tinh, còn gọi là Thiên Cẩu Thất, tức là tinh tú
thuộc chòm sao Quỷ, gồm bảy ngôi sao, trong đó ba ngôi sao đầu từ một đến ba
thuộc về tinh tòa Thuyền Phàm (Vela), bốn sao còn lại thuộc về tinh tòa La Bàn
(Pyxis).
[74] Thí Vô Úy ấn (Abhayamudrā)
còn gọi là Vô Úy Ấn. Người kết ấn này, giơ tay phải lên, lòng bàn tay hướng ra
ngoài, các ngón hơi cong, biểu thị ý gia trì khiến cho chúng sanh cảm thấy được
an toàn, gia hộ.
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần bốn
大毘盧遮那成佛經疏
Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê ký
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và
Huệ Trang
Phương
vị trong Mạn-đồ-la được truyền bởi [Thiện Vô Úy] A-xà-lê liệt kê đầy đủ như
sau:
1. Phương thượng[1]
○ Như Lai Như Ý Bảo
○ Như Lai Giáp Trụ
○ Như Lai Quyến Sách
□ Như Lai Bố Ma
○ Như Lai Tề
□ Như Lai Mã Tạng
○ Như Lai Thần
□ Như Lai Thập Lực
○ Như Lai Nha
□ Như Lai Đại Hộ
△ Vô Sở Úy Đại Hộ
Giả○○
○ Như Lai Vô Sở Úy
□ Như Lai Linh Đạc
○ Như Lai Thương Khư
□ Như Lai Tam Muội Da Kim Cang
○ Như Lai Chánh Cần
□ Như Lai Tam-muội-da
○ Như Lai Thiệt
□ Như Lai Hào Tướng
○ Nhất Thiết Như Lai Tòa
□ Như Lai Đại Cần Dũng
□ Như Lai Nhãn
○ Như Lai Tâm
□ Như Lai Thước Để[2]
○ Vô Kham Nhẫn (Như Lai Vô Kham Nhẫn)
□ Thủy Tự Tại Tôn
□ Tương Hướng Thủ Hộ Môn Giả
□ Như Lai Niệm Xứ
○ Như Lai Đao
□ Như Lai Luân
□ Như Lai Liên Hoa
□ Như Lai Đảnh
○ Như Lai Kết Giới
□ Như Lai Thí Nguyện
○ Như Lai Bình Đẳng Thuyết
□ Như Lai Khẩu
○ Như Lai Yêu
□ Như Lai Diễm Quang
□ Như Lai Câu
□ Hư Không Nhãn
□ Vô Cấu Quang Đồng Tử ○ ○
□ Quang Võng Đồng Tử ○ ○
□ Nam Phụng Giáo Giả ○ ○ ○ ○
□ Nam Thủ Vệ Giả ○ ○ ○ ○
□ Nam Sứ Giả ○ ○ ○ ○
□ Nữ Sứ Giả ○ ○ ○ ○
△ Lục Diện Tôn
△ Hàng Diễm Ma Tôn
□ Địa Huệ Đồng Tử ○ ○
□ Ưu Ba Kế Thiết Ni ○ ○
* Văn Thù Sư Lợi
□ Kế Thiết Ni ○ ○
□ Chất Đa La ○ ○
□ Thỉnh Triệu Giả ○ ○
□ Nữ Sứ Giả ○ ○ ○ ○
□ Nam Sứ Giả ○ ○ ○ ○
□ Nữ Thủ Vệ Giả ○ ○ ○ ○
□ Nữ Phụng Giáo Giả ○ ○ ○ ○
□ Bảo Quan Đồng Tử ○ ○
□ Nguyệt Quang Đồng Tử
□ Thiện Tài Đồng Tử
△ Hỏa Thiên Hộ Phương
Thần
△ Hỏa Thiên
△ Hỏa Thiên Hậu
△ Bà Tư Sắt Trá Đại
Tiên
△ Kiệt Già Đại Tiên
△ Mạt Kiện Đồ Đại
Tiên
△ Cù Đàm Đại Tiên
△ Ca Diếp Đại Tiên
△ Chư Chấp Diệu Thần
đẳng
△ Tỳ Thệ Da Hậu
△ Nhật Thiên Tử
△ Thệ Da Hậu
□ Na La Diên và quyến thuộc
□ Ma Thiên Tha Hóa Tự Tại Thiên
□ Hóa Lạc Thiên
□ Đâu Suất Đà Thiên
□ Diễm Ma Thiên
□ Đông phương Đề Đầu Lại Tra thiên vương và
các Càn Thát Bà.
□ Xá Chi phu nhân ○ ○
□ Đế Thích Tam Thập Tam Thiên
□ Đồng Tử Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Hoan Hỷ Bồ Tát
□ Thượng phương Hoan Hỷ Đức Bồ Tát
□ Bồ Tát chúng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ A Nan Đà
□ Tu Bồ Đề
□ Xá Lợi Tử
□ Đại Mục Liên
□ Đại Ca Diếp
□ Vô Lượng Âm Thanh Phật Đảnh
□ Quảng Đại Phật Đảnh
□ Hỏa Tụ Phật Đảnh
□ Thắng Phật Đảnh
△ Như Lai Tích Trượng
○ Như Lai Bát
○ Như Lai Nha
□ Hào Tướng
△ Vô Năng Thắng Tôn
□ Thích Ca Mâu Ni Phật
△ Vô Năng Thắng Phi
○ Phật Mẫu
○ Như Lai Thước Để Ấn
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo tăng
□ Phổ Quang Bồ Tát
□ Đông phương Bảo Tánh Phật
□ Bồ Tát Chúng
□ Tỳ-kheo tăng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ Phật Ca Sa
△ Phật Quân Trì
□ Bạch Tán Phật Đảnh
□ Tối Thắng Phật Đảnh ○ ○
□ Tồi Toái Phật Đảnh ○ ○
□ Tối Cao Phật Đảnh
□ Bích Chi Phật
□ Đại Phạm và Minh Phi quyến thuộc
□ Tứ Thiền Thiên
□ Vô Sắc Thiên
□ Tịnh Cư Tự Tại Thiên Tử
□ Phổ Hoa Thiên Tử
□ Quang Man Thiên Tử
□ Ý Sanh Thiên Tử
□ Danh Xưng Viễn Văn Thiên Tử
□ Đại Tự Tại Phi và quyến thuộc
□ Đại Tự Tại Thiên và quyến thuộc
□ Ma Hê Thủ La Thiên Tử và phi
□ Trì Minh Phi
□ Trì Minh Tiên
2. Bên phải [của Trung Đài Bát Diệp]
△ Năng Thọ Nhất Thiết
Tôn (thỏa mãn hết thảy các nguyện)
□ Liên Hoa Bộ Nữ Phụng Giáo Giả
□ Liên Hoa Bộ Phụng Giáo Giả
□ Liên Hoa Tam Cổ Kích
□ Liên Hoa Kích
□ Liên Hoa Tôn
□ Kim Cang Liên
□ Liên Hoa Luân
□ Liên Hoa Đao
□ Liên Hoa Đức Bồ Tát
□ Đại Thủy Cát Tường
□ Đại Cát Tường
□ Tăng Cát Tường○ ○
□ Phật Cát Tường ○
□ Kim Sắc Bồ Tát
□ Danh Xưng Huệ Bồ Tát ○ ○
□ Bạch Sắc Bồ Tát
△ Hoại Chư Bố Úy Đại
Hộ Giả ○ ○
□ Đại Thế Chí Bồ Tát
□ Tỳ Câu Chi Bồ Tát ○ ○
□ Quán Thế Âm Bồ Tát
□ Đa Lợi Tôn (Tara) ○ ○
□ Quán Âm Mẫu
□ Đại Bạch Bồ Tát
□ Tư Tài Chủ Bồ Tát
□ Biến Quán Bồ Tát
□ Cát Tường Bồ Tát
□ Đới Tháp Đức Bồ Tát
□ Bảo Đức Bồ Tát
□ Lộc Bì Y Hình
□ Liên Hoa Quân Trì
□ Liên Hoa Man
□ Liên Hoa Phủ
□ Liên Hoa Sách
□ Liên Hoa Đạc
□ Liên Hoa Loa
□ Liên Hoa Bộ Sứ Giả
(□ Liên Hoa Bộ Sứ Giả △ Mã
Đầu Quán Thế Âm)
□ Liên Hoa Bổng
(Tầng thứ nhất bên phải đã xong, [tức là
hoàn tất Quán Âm Viện])
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
△ Hạnh Huệ Bồ
Tát ○ ○
○ Thắng Diệu Thiên Bồ Tát ○ ○
□ Bảo Nghiêm Bồ Tát ○ ○
△ Bảo Ấn Thủ Bồ
Tát ○ ○
○ Bảo Chưởng Bồ Tát ○ ○
□ Địa Tạng Bồ Tát ○ ○
○ Bảo Tác Bồ Tát ○ ○
○ Trì Địa Bồ Tát ○ ○
□ Hiền Ý Bồ Tát
○ Bảo Quan Bồ Tát ○ ○
△ Phát Tâm Tức Chuyển
Pháp Luân Bồ Tát ○ ○
□ Thiện Trụ Ý Bồ Tát ○ ○
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
(Tầng thứ hai ở bên phải đã xong, [tức là
hoàn tất Địa Tạng Viện])
□ Y Xá Na hộ phương thần
□ Cưu Bàn Đồ chúng quyến thuộc
□ A Danh Yết Noa (tai dê)
□ A Thấp Phạ Yết Noa (tai ngựa)
□ Thú Bà Yết Noa
□ Tạp Bảo Tạng Thần○ ○ ○ ○
△ Đồ Cát Ni
△ Đồ Ca
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Ly Trần Dũng Mãnh Bồ Tát
□ Đông Bắc phương Định Thắng Thủ Đức Phật
□ Bồ Tát chúng
□ Tỳ-kheo chúng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ Nữ Bộ Đa ○ ○ ○ ○
□ Bộ Đa Dược Xoa loại ○ ○
□ Trụ Tuyết Sơn Dược Xoa Tướng ○ ○ ○ ○ ○ ○
□ Sa Đa Kỳ Rị Dược Xoa Tướng ○ ○
□ Bán Giá La Dược Xoa Tướng ○ ○ ○ ○
□ Tỳ Sái Ca Dược Xoa Tướng ○ ○
□ A Trá Phạ Ca Dược Xoa Tướng ○ ○ ○ ○
□ Tỳ Sa Môn Tử Dược Xoa Tướng ○ ○
□ Ma Ni Bạt Đà La Thần○ ○ ○ ○
□ Hộ Phương Thần Hậu ○ ○ ○ ○
□ Câu Phệ Ra Hộ Phương Thần Tỳ Sa Môn ○ ○
□ Cát Tường Công Đức Thiên
□ Mãn Hiền Dược Xoa Tướng ○ ○
□ Ha Lật Để Mẫu (năm trai, năm gái)
□ Tán Chi Đại Tướng
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Thắng Thọ Bồ Tát
□ Bắc phương Thắng Đức Phật
□ Bồ Tát chúng
□ Tỳ-kheo chúng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
□ Chủ Điền Nông Thần
□ Chủ Tượng Mã Cứu Thần
□ Chủ Vương Khố Tạng
□ Chủ Ngoại Đạo Phước Xứ Thần
□ Chủ Nham Huyệt Thần
□ Chủ Phục Tạng Thần
□ Chủ Trách Thần
□ Chủ Thi Lâm Thần
□ Chủ Ba Trì Thần
□ Chủ Long Tuyền Thần
□ Chủ Tỉnh Thần
□ Chủ Không Trung Cung Uyển Thần
□ Chủ Cung Thất Thần
□ Chủ Hải Thần
□ Chủ Thất Trạch Thần
□ Chủ Hạng Khúc Thần
□ Phương Thần
□ Chủ Nhai Mạch Thần
□ Chủ Hà Thần
□ Chủ Đạo Thần
□ Chủ Khoáng Dã Thần
□ Chủ Giao Dã Thần
□ Chủ Thiêm Tứ Thần
□ Chủ Thành Thần
□ Chủ Thôn Thần
□ Chủ Châu Thần
□ Chủ Điểu Thần
□ Chủ Sơn Thần
□ Chủ Tất Địa Vật Thần
□ Chủ Tất Địa Thần
□ Chủ Tiên Dược Thần
□ Chủ Dược Kế Thần
□ Chủ Dược Thần
□ Tất Địa Trì Minh Phi ○ ○ ○ ○
□ Tất Địa Trì Minh Tiên ○ ○ ○ ○
(Tầng thứ ba bên phải đã xong, [tức là tầng
ngoại Kim Cang giới bên phải đã xong]).
3. Bên trái [của Trung Đài Bát Diệp]
□ Diệu Kim Cang
□ Thanh Kim Cang
□ Kim Cang Liên
□ Tịch Tĩnh Kim Cang
□ Đại Tấn Lợi Kim Cang
□ Kim Cang Nha
□ Na Mị Đồ Kim Cang (do nhân mà lập danh,
còn gọi là Đoản)
□ Xích Thể Kim Cang
□ Phật Phụng Giáo Giả
□ Việt Vô Lượng Hư Không
△ Nguyệt Yển Tôn○ ○
□ Nan Hàng Đại Hộ Giả (thân nữ) ○ ○
□ Kim Cang Bộ Sanh
□ Kim Cang Liên Tỏa
□ Chấp Kim Cang
□ Kim Cang Mẫu ○ ○
□ Kim Cang Châm
□ Kim Cang Câu
△ Kim Cang Vô Thắng
Đại Hộ Giả○ ○
△ Quân Đồ Lợi Kim
Cang○ ○
△ Đại Lực Kim Cang ○
○
□ Hư Không Vô Cấu Kim Cang
□ Tố Ra Đa Kim Cang (Diệu Trụ)
□ Đại Thân Kim Cang
□ Đại Thắng Kim Cang
□ Quảng Nhãn Kim Cang
□ Bạt-chiết-la Kim Cang
○ Đại Huệ Bồ Tát
□Tịch Huệ Bồ Tát
△ Vô Cấu Huệ Bồ Tát ○
○
○ Vô Tận Ý Bồ Tát ○ ○
□ Bất Tư Nghị Huệ Bồ Tát ○ ○
△ Đại Từ Khởi Bồ Tát
○ ○
△ Vô Tượng Bồ Tát ○ ○
○ Cứu Ý Huệ Bồ Tát ○ ○
□ Thí Nhất Thiết Vô Úy Bồ Tát ○ ○
△ Trừ Nhất Thiết Cái
Chướng Bồ Tát ○ ○
□ Trừ Nghi Quái Bồ Tát ○ ○
○ Trừ Nhất Thiết Ác Thú Bồ Tát ○ ○ ○
△ Bi Niệm Bồ Tát (còn
gọi là Đại Bi Triền) ○○
□ Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não Bồ Tát ○○
○ Hải Huệ Bồ Tát○○
△ Diệu Huệ Bồ Tát
□ Hiền Kiếp Bồ Tát ○○○○
△ Niết Rị Để Hộ
Phương Thần
△ Nữ La Sát○○
△ La Sát chúng○○
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
○ Đồng Nam Bồ Tát
○ Tỳ-kheo chúng
○ Nhật Quang Bồ Tát
□ Tây Nam Nhật Luân Biến Chiếu Thắng Đức
Phật
○ Bồ Tát chúng
○ Tỳ-kheo chúng
○ Đồng Nữ Bồ Tát
△ Tất Lăng Nghị Lật
Tri
△ Chư Tỳ Na Dạ Ca
△ Ma Ha Ca La (Hắc
Thần)
○ Ưu Bà, Lộ Hệ Đa nhị long vương
△ Tỳ Lô Giá thập
quyến thuộc ○○○○○○
△ Tỳ Xá Chi thập
quyến thuộc ○○
△ Hàn Lãnh địa ngục
△ Nhiệt Não địa ngục
□ Tỳ Lâu Bác Xoa vương ○○○○
△ Diễm Ma Một Lật Để
Hậu
△ Diễm Ma Hậu
△ Diễm Ma Đản Đồ
△ Diễm Ma La pháp
vương
△ Chất Đát La Cấp Đa
Tấn Ngục Giả
△ Dạ Hắc Thiên
□ Biện Tài Thiên ○○
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Ly Ưu Bồ Tát
□ Nam phương Vô Ưu Đức Phật
□ Bồ Tát chúng
□ Tỳ-kheo chúng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ Biệt Dị địa ngục
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
△ Giá Muộn Noa
△ Kiều Phệ Rị
△ Phệ Sắt Noa Vị
△ Kiều Rị
△ Yến Nại Rị
△ Ta Nại Rị
△ Mạt Ra Mị
□ Khẩn Na La phi ○○
○ Khẩn Na La
○ Đồng Nam Bồ Tát
○ Tỳ-kheo chúng
○ Liên Hoa Thủ Bồ Tát
○ Đông Nam Liên Hoa Thắng Đức Phật
○ Bồ Tát chúng
○ Tỳ-kheo chúng
○ Đồng Nữ Bồ Tát
△ Mộ Ha Nẵng
△ Khuyết Danh Hỏa
Thần
△ Kiếp Vi
△ Mang Mãng Sa
△ Ngật Sái Dã
△ Đỗ Trá Ra
△ Cú Rô Đản Nang
△ Một Lật Noa
△ Lộ Hệ Đa
△ Mang Rô Đa
△ Nại Rô Ca
△ Sa Ma Hê Nại La
△ Chư hỏa tiên đẳng
4. Phương dưới của Mạn-đồ-la
* Hàng Tam Thế Tôn
□ Kim Cang Đạc ○○
□ Kim Cang Quyến Sách
□ Kim Cang Đao
□ Bất Khả Việt Hộ Môn Giả ○○
□ Tương Hướng Thủ Hộ Môn Giả ○○
△ Như Lai Sứ Giả
□ Kim Cang Quyền
□ Vô Hý Luận Kim Cang
□ Kim Cang Phủ
□ Kim Cang Luân
□ Kim Cang Bổng
* Thánh Bất Động Tôn
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
□ Kim Quang Bồ Tát
○ Kim Sắc Bồ Tát
△ Bảo Đức Bồ Tát
□ Hiền Đức Bồ Tát
○ Hoa Tràng Bồ Tát
△ Kế Đô Bồ Tát
□ Vô Cấu Quang Bồ Tát
△ Thanh Tịnh Huệ Bồ
Tát ○○
□ Hư Không Huệ Bồ Tát ○○
○ Hư Không Tạng Bồ Tát ○○
□ Hư Không Vô Cấu Bồ Tát ○○
△ Pháp Huệ Bồ
Tát ○○
○ Huệ Bộ Bồ Tát ○○
□ Lạt Nê Mị Bồ Tát
△ Nê Mị Bồ Tát
○ Bảo Phan Bồ Tát
□ Kim Quang Bồ Tát
△ Quang Minh Bồ Tát
○ Diệu Tràng Bồ Tát
□ Vô Biên Tràng Bồ Tát
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
* Phong Thiên Hộ Phương Thần
* Phong Thần Hậu
△ Ca Lâu La
nữ ○○○○
△ Ca Lâu La
△ Phi nhân quyến
thuộc
△ Nhất thiết nhân
quyến thuộc
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Bảo Thắng Bồ Tát
□ Tây Bắc phương Nhất Bảo Cái Phật
□ Tỳ-kheo chúng
□ Đồng nữ chúng
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
○ Tiểu Ngật Lật Sắt Nộ nhị long vương
○ Ngật Tây Sắt Noa nhị long vương
○ Lộ Hệ Đa nhị long vương
○ Ưu Bà Tý Đa nhị long vương
○ Ưu Bà Thúc Cật Lao nhị long vương
○ Thúc Cật Lao nhị long vương
○ Sa Già La long vương
○ A Na Bà Đạt Đa long vương
○ Đắc Xoa Ca long vương
○ Ma Ca Tư long vương
○ Củ Lợi Ca long vương
○ Yết Cú Trá Ca long vương
○ Hòa Tu Cát long vương
○ A Nan Đà long vương
○ Đại Liên Hoa long vương
○ Ba Đầu Hoa long vương
○ Thương Khư long vương
○ Phạ Rô Noa hậu ○○
○ Phạ Rô Noa long vương○○○
□ Tỳ Lâu Lặc Xoa hộ phương thiên
vương ○○
○ Ưu Bà Tôn Na Thủ Môn Giả ○○
Cửa để ra vào
○ Tôn Na Thủ Môn Giả ○○
○ Địa Thần ○○
○ Long vương và hậu quyến
thuộc ○○
○ Đồng Nam Bồ Tát
○ Tỳ-kheo chúng
○ Hành Huệ Bồ Tát
○ Tây phương Bảo Diệm Phật
○ Bồ Tát chúng
○ Tỳ-kheo chúng
○ Đồng Nữ Bồ Tát
○ Chủ Bình Tương Xâm Thần
○ Chủ Nhật Lịch Thần
○ Chủ Thời Phần Thần
○ Chủ Nghiệp Tác Thần
○ Chủ Túc Thần
○ Chủ Túc Đối Thần
○ Chủ Dạ Thần
○ Chủ Nguyệt Thần
○ Chủ Nhật Thần
○ Lục Thời Thần
○ Chủ Trực Thần
○ Chủ Nhập Bát Tú Thần
○ Chủ Thập Nhị Cung Thần
○ Nguyệt Hậu tên Xích Sắc
○ Nguyệt Hậu tên Nguyệt Tường
○ Nguyệt Thiên Tử
○ Nguyệt Hậu tên Nguyệt Tướng
○ Đồng Nam Bồ Tát
○ Tỳ-kheo chúng
○ Liên Hoa Thắng Bồ Tát
○ Hạ phương Liên Hoa Đức Phật
○ Bồ Tát chúng
○ Tỳ-kheo chúng
○ Đồng nữ Bồ Tát
○ Hiền Kiếp Bồ Tát
□ A Tu La nữ quyến thuộc
□ A Tu La quyến thuộc
○ Ma Hầu La Già nữ
○ Ma Hầu La
Già
[Thiện
Vô Úy] A-xà-lê nói: “Viện thứ nhất, ở phương Đông, từ Như Lai Câu cho
đến Như Lai Giáp v.v… đều là Tỳ Lô Giá Na tam-muội. Mỗi vị đều vẽ thành hình
dạng thiên nữ, tùy theo Mạn-đồ-la vuông hay tròn[3] để biện định màu sắc của
họ. Họ ngồi trên đài sen trắng, trong tay lại cầm hoa sen. Trên hoa đều có các
vật dùng làm biểu tượng đặc trưng cho mỗi vị như móc câu, bánh xe, đao, giáo,
thương-khư (ốc tù và), chuông, khánh, dây trói, giáp trụ v.v… đều dựa theo
tướng của mỗi vật ấy mà vẽ. Đảnh tướng, hào tướng, khẩu, thiệt, nha, thần
(miệng, lưỡi, răng, môi) v.v… chuẩn theo lệ ấy để hiểu. Như Lai Tề (rốn
của Như Lai) thì trên hoa sen vẽ hình tướng vòng tròn nối liền, tròn trặn. Như
Lai Yêu (eo của Như Lai) thì cũng vẽ hình như tràng hạt hơi cong. Như Lai Tạng
giống như tạng tướng chẳng hiện nơi mã bảo của Luân Vương. Như Lai Thí Nguyện
thì vẽ thành tay Dữ Nguyện[4]. Như Lai Pháp và Biện Thuyết
v.v… thì hoặc là cầm kinh tạng, hoặc giơ tay trong tư thế thuyết pháp. Niệm,
Xứ, Thập Lực v.v… đều là pháp tương ứng với Chỉ Quán, hãy vẽ các vị ấy với dáng
điệu tam-muội lặng lẽ. Đối với Tam-muội-da, hãy vẽ như tướng Phật Đảnh. Như Lai
Đảnh tướng nhiếp trọn hết thảy các công đức. Hễ trong tay [của một vị tôn
thánh] không có vật gì để có thể biểu trưng thì đều nên dùng [Phật Đảnh tướng]
để biểu thị”.
Nếu
Mạn-đồ-la không vẽ hình các vị tôn thánh, chỉ nêu bày ấn bí mật[5] [của từng vị] thì ở trên tòa
Kim Cang, vẽ đài hoa sen, trên đài thì giống như trên, vẽ biểu tượng đặc trưng
của từng vị. Đối với Mạn-đồ-la chỉ vẽ chữ (tức là Mạn-đồ-la dùng chữ chủng tử
của từng vị tôn thánh thay vì vẽ hình tướng) thì nếu trong kinh có chữ chủng tự
[của từng vị tôn thánh], hãy nên đúng pháp mà đặt [từng chữ vào đúng vị trí
tương ứng]. Nếu trong kinh chẳng chép, hãy nên dùng chữ đầu tiên trong tiếng
Phạn (chữ A) làm chữ chủng tử, hoặc có thể đều dùng chữ A [cho tất cả các vị
tôn thánh.
Chư
tôn thuộc Liên Hoa Bộ ở phía Bắc[6] [của mạn-đồ-la], nếu trong kinh
chẳng nói hình tướng, sẽ đều vẽ chung là [thân các Ngài có] màu hoa sen đỏ,
hoặc sắc trắng sạch. Còn các vị như Kim Sắc v.v… thì theo tên gọi để biện định
thân sắc. Ấn tướng các Ngài cầm cũng giống như trong Phật Bộ đã nói, nhưng dùng
hoa sen làm biểu tượng. Như trong hình tượng Liên Hoa Luân thì dùng bốn cánh
sen [ghép lại] như hình chữ Thập để làm tướng căm bánh xe. Ở phía ngoài “căm
bánh xe” ấy, dùng hình khuyên tròn bao quanh. [Ấn tướng] Liên Hoa Đao thì đặt
đao trên hoa sen, trên mũi đao lại dùng hoa sen để biểu thị tướng đặc trưng.
Đối với chày kim cang, kim cang kích v.v… cũng đều làm giống như thế. [Ấn tướng
của] ngài Liên Hoa Quyến Sách thì dùng hoa sen làm hai đầu mối [của dây thừng].
[Ấn tướng của ngài] Liên Hoa Đạc thì dùng hoa sen để buộc [cái chuông ấy]. Ngài
Liên Hoa Man thì dùng hoa sen xâu thành tràng hoa để trang nghiêm thân, hoặc
đặt trên hoa sen Ngài cầm. Ngài Đới Tháp Cát Tường thì nơi búi tóc trên đỉnh
đầu đặt Tốt-đổ-ba (stupa, tháp), hoặc đặt trên hoa sen [mà vị ấy đang cầm]. [Ấn
tướng của] Liên Hoa Tôn thì trên hoa sen lại đặt hoa sen. Bảo Đức Tôn thì trên
hoa sen có đặt vật báu.
Năng
Thọ Nhất Thiết Nguyện Minh Vương có thể thỏa mãn hết thảy các điều mong nguyện,
hình trạng chẳng phải chỉ có một. Như đức Quán Thế Âm tay cầm hoa sen, trên hoa
đặt báu Như Ý. Tùy theo làm pháp sự Tức Tai, Tăng Ích, hay Hàng Phục mà đặt
trong đàn tràng tương ứng. Ngài Đại Cát Tường hai tay đều cầm hoa sen. Thủy Cát
Tường thì hoa sen tuôn ra nước, hoặc tay Ngài rủ xuống tuôn nước. Ngài Bị Lộc Y
(nghĩa đen là “khoác da nai”) thì nên dùng da nai để trang nghiêm thân, giống
như hình tượng Phạm Thiên. Khế ấn Mạn-đồ-la giống như trên đã nói, dùng chung
chữ Sa (स)
làm chủng tử.
Đối
với chư tôn thuộc Kim Cang Bộ ở mặt Nam [của Mạn-đồ-la], cũng có thể dựa theo
các danh hiệu được liệt kê trong kinh để sắp xếp đầy đủ, tùy thuộc đàn tràng
vuông, tròn, tam giác, bán nguyệt v.v… Thân sắc cũng thế, hoặc là cầm
bạt-chiết-la (vajra, chày kim cang) một nhánh, hoặc cầm [bạt-chiết-la] ba
nhánh, năm nhánh, hai mũi nhọn trên dưới v.v… Các thứ hình tướng đặc trưng của
kim cang, đúng như kinh đã nói mà tùy ý xếp đặt. Các thứ đao, búa, móc câu,
châm (cái kim) v.v… đều dùng kim cang làm đặc điểm biểu trưng. Đao thì nơi mũi
nhọn và cán đều làm thành hình mũi chày kim cang bén nhọn. Quyến sách (羂索, dây trói) và dây xích thì làm thành hình
hai đầu đều có hình dáng như bạt-chiết-la ba nhánh. Luân (bánh xe) thì
dùng kim cang chữ thập[7] làm bánh xe, dùng các mũi nhọn
bao quanh [để tạo thành hình bánh xe]. Đạc (鐸, linh)[8] thì dùng kim cang một nhánh làm
cán, buộc kim cang chữ thập làm quả lắc. Những điều khác đều phỏng theo lệ
này để hiểu. Trong Khế Ấn Mạn-đồ-la[9], cũng ở trên tòa kim cang đặt hoa
sen trắng, trên hoa đặt các vật [biểu tượng] ấy. Nếu làm Tự Mạn-đồ-la
(mạn-đồ-la chỉ vẽ các chữ chủng tử), đối với các quyến thuộc được thống nhiếp
bởi Chấp Kim Cang thì đều dùng chữ Phạ (व, Va), còn các vị Kim Cang khác thì dùng
chữ Hồng (हूं,
Hūṃ)
làm chủng tử.
Đối
với các vị Bồ Tát thuộc viện thứ hai, nếu trong kinh chép đầy đủ hình tướng của
các Ngài, mỗi mỗi đều theo đúng lời dạy mà vẽ. Không có kinh văn thì đều dùng
ấn Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi, Như Ý Bảo Châu) [để làm vật biểu trưng]. Hãy
nên vẽ [các vị ấy] cầm hoa sen, trên hoa đặt báu Như Ý (Như Ý Bảo Châu), có
vòng lửa vây quanh. Hoặc thuận theo ý nghĩa được diễn tả bởi danh hiệu của các
Ngài mà biểu thị, như Bảo Quan Bồ Tát thì đặt mão trên hoa sen. Bảo Võng Bồ Tát
thì đặt lưới trên hoa sen, Bảo Chưởng Bồ Tát thì trong tay Ngài đặt vật báu.
Phát Tâm Chuyển Pháp Luân Ấn thì trong tay cầm một bộ luận. Tất cả các chỗ
khuyết vị (tức các chỗ kinh không nói rõ danh xưng của vị tôn thánh ở vị trí
đó) đều đặt Hiền Kiếp Bồ Tát.
Các
vị như Sứ Giả, Phụng Giáo v.v… đều vẽ thấp nhỏ [hơn so với tôn thánh mà các vị
ấy chầu hầu]. Sứ Giả cầm nắm đao, gậy, hình dạng như đang phòng ngự cửa hẹp.
Người phụng giáo thì hoặc là cầm nắm gậy, ấn, hoặc chiêm ngưỡng vị tôn thánh
[họ đang chầu hầu], dường như đang tiếp nhận sự chỉ huy hay răn truyền. Người
thủ hộ thì [có hình dạng] như người canh cửa, truyền tin, có điều cần bẩm báo.
Mỗi mỗi đều theo từng loại [mà vẽ tương ứng]. Hàng Diễm Ma Tôn (Yamāntaka, Diễm
Man Đắc Ca) là quyến thuộc của đức Văn Thù, có oai thế to lớn. Thân Ngài sáu
mặt, sáu tay, sáu chân, dùng trâu nước làm tòa ngồi, mặt có ba mắt, sắc như mây
đen, hình dạng tột bậc phẫn nộ. Hãy nên tra bổn tiếng Phạn nói về ngài Văn Thù
để vẽ đầy đủ. Phàm các vị tôn thánh như thế, nếu các kinh khác nói đầy đủ hình
tướng, cũng có thể dựa theo đó để tô vẽ khi nhập Mạn-đồ-la. Các vị tôn thánh
ấy, nếu kinh Tỳ Lô Giá Na chẳng chép chân ngôn và thủ ấn, tức là được nói riêng
trong các kinh khác, hãy nên dựa theo các kinh ấy để trao truyền chân ngôn và
thủ ấn, bảo [hành nhân] vâng theo thứ tự của pháp hạnh cúng dường trong kinh
này để thực hiện.
Mười
phương chư Phật trong viện thứ ba đều nương theo tướng thông thường để vẽ. Nếu
làm Khế Ấn [Mạn-đồ-la], hãy nên dùng Như Lai đảnh tướng, và chủng tử thì dùng
chữ A. Thanh Văn, Duyên Giác thì nên [vẽ] giống như nghi thức của tỳ-kheo.
Trong ấy, Duyên Giác có chút sai biệt là có thể có tướng nhục kế của bậc đại
nhân. Nếu là Khế Ấn [Mạn-đồ-la], hãy nên dùng bát, ca-sa, tích trượng v.v… để
làm các vật biểu trưng. Chữ chủng tử của các Ngài thì như chân ngôn trong
kinh đã nói.
Trước
mặt Nhật Thiên ở phương Đông, có thể đặt thiên nữ Ma Lợi Chi (Marīci) như kinh Đà La Ni Tập[10] đã nêu. Tám đại tướng Dạ Xoa ở
phương Bắc nếu trong đồ hình khuyết thiếu, thì vẽ hình dạng của họ tương tự,
đều mặc giáp trụ, cầm ấn Già Đà (Gadā)[11], thân tướng viên mãn, đoan chánh.
Do trong đường ấy, sở cầu chẳng thiếu thốn, họ thường vui sướng, tùy ý. Dương
Nhĩ, Mã Nhĩ, Tượng Nhĩ v.v… đều là quyến thuộc của Cưu Bàn Đồ (Kumbhāṇḍa, Đạm Tinh Khí Quỷ, Ủng Hình Quỷ[12]). Thân hình họ chẳng giống
Dạ Xoa, đều là thân trần, lông rủ xuống, có hình dạng phi nhân, tai giống như
loài thú. Trong đồ hình có nhắc tới Trì Minh Tiên, đó là [những ngoại đạo đạt
được thành tựu] do sức của các thứ thuốc khác tạo thành. Tất Địa Trì Minh Tiên
đều là những người chuyên nương vào chú thuật mà đắc Tất Địa. Nói “tiên
nhân” đều là những người theo pháp Vi Đà thờ lửa, siêng tu khổ hạnh,
trở thành ngũ thông thần tiên. Lại còn có Dạ Xoa Trì Minh là loại phước đức tối
thắng trong loài ấy, thuộc về đường trời, lại còn thù thắng hơn tiên nhân trong
cõi đời.
Các
loại thần núi, sông, ao, rừng, cây cối, ngũ cốc, thuốc men, thành, ấp, đường sá
v.v... đều dùng danh tự của chính mình để làm tướng biểu trưng: Sơn thần ngồi
trong núi, thần sông ở trong sông, các vị thần cây cối, cỏ thuốc v.v… thì hoặc
là tay cầm nắm [các loại dược thảo], hoặc nương vào đó, hãy nên đều dựa theo
nghĩa ấy để suy ra. Trong kinh Hoa Nghiêm, lại có Túc Hành Thần, Thân Chúng
Thần, đều là các vị thần hộ trì các loài đi nhón gót và thần hộ thân, cũng có
thể dựa theo đó mà sắp đặt theo thứ tự. Hãy nên biết loài phi nhân ở phương Tây
đều thuộc vào thân phổ môn của đức Tỳ Lô Giá Na, thuần là các loại quỷ thần,
bàng sanh v.v… khác nhau. Trong đồ hình, nếu không ghi riêng danh tướng của họ,
thì phần nhiều thuộc loại này. Thuộc về loại này nhiều nhất là Lộ Hệ Đa màu đỏ,
Bích Đa màu vàng, Cật Lật Sắt Noa màu đen. Màu xanh cũng gộp trong loại này.
Nếu dựa theo ý nghĩa rõ rệt ở phương này thì cũng nên nêu riêng từng loại. Cật
Lao sắc trắng, đều là một loại long vương, mỗi mỗi đều dựa theo màu sắc của họ
mà vẽ. Nếu [tên của vị ấy có] thêm chữ Ổ Ba thì màu sắc sẽ nhạt hơn. Tốn Na, Ổ
Ba Tốn Na cũng là đại long vương thủ hộ cửa, đều là tay phải cầm đao, tay trái
cầm dây trói.
Các
vị thần chủ trì năm, tháng, ngày, giờ v.v… đều được vẽ thành hình thiên nữ, cầm
nắm các thứ như cành hoa v.v… để làm biểu tượng đặc trưng. Nếu là người chủ trì
thiện sự, cũng vẽ sao cho hoa ấy có sắc tướng trọn vẹn. Nếu là người chủ trì ác
sự thì cầm hoa, quả héo úa v.v… Vị thần chủ trì sáu thời cũng có thể cầm hoa
gồm sáu cành, thể hiện tướng tùy thời tươi tốt hay rơi rụng để biểu thị chuyện
ấy. Đối với vị thần chủ trì ngày hay đêm, cũng có thể vẽ hoa nở hay cụp để minh
thị. Những vị khác đều phỏng theo trường hợp này. Tất Lăng Cật Lật Tri (Bhṛṇgiriṭi) ở phía Nam là con của Ma
Hê Thủ La (Maheśvara),
thân cực khô gầy. Do thường hàng phục oán địch, giả sử xương thịt tiêu sạch
cũng phải đắc thắng, cho nên có hình dáng như thế. Riêng tôi cho rằng đấy là
như Trí Độ Luận nói: “Thường tu khổ hạnh, cắt thịt để tế lửa, cảm sanh
các vị ác thần, cho nên có vị trí tại phương Nam”. Mười hai vị Hỏa Thiên
ấy trong kinh có nói đại lược hình tượng, có một vị khuyết danh, chỉ dựa theo
hình tướng chung của các Hỏa Thiên [để vẽ vị khuyết danh ấy], các vị khác thì
như trong đồ hình đã dạy.
* Phụ chú của người chuyển
ngữ:
Đồ
hình Thai Tạng Mạn-đồ-la:
Ngoại Kim Cang giới (Bắc) |
Ngoại Kim Cang giới (Đông) |
Ngoại Kim Cang giới (Nam) |
||||
Văn Thù viện |
||||||
Địa Tạng viện |
Thích Ca viện |
Trừ Cái Chướng viện |
||||
Liên Hoa viện |
Chánh Biến Tri viện |
Kim Cang Thủ viện |
||||
Trung Đài Bát Diệp |
||||||
Trì Minh viện |
||||||
Hư Không Tạng viện |
||||||
Tô Tất Địa viện |
||||||
Ngoại Kim Cang giới (Tây) |
Do
lời sớ chỉ liệt kê các vị tôn thánh theo từng phương, không nói rõ vị nào thuộc
viện nào, chúng tôi xin liệt kê các vị tôn thánh thuộc từng viện theo ghi chép
trong Hiện Đồ Mạn-đồ-la[13], hơi khác đôi chút với danh sách
các vị tôn thánh trên đây.
1. Trung Đài Bát Diệp (Trung Thai Bát Diệp)
Chính
giữa là Đại Nhật Như Lai, từ vị Phật này, lưu xuất bốn vị Phật, tạo thành bốn
cánh sen chính: Đông phương Bảo Tràng Phật, Nam phương Khai Phu Hoa Vương Phật,
Tây phương Vô Lượng Thọ Phật, và Bắc phương Thiên Cổ Lôi Âm Phật. Ở bốn góc là
bốn cánh sen tương ứng với bốn vị đại Bồ Tát: Góc Đông Nam là Phổ Hiền Bồ Tát,
góc Tây Nam là Văn Thù Bồ Tát, góc Tây Bắc là Quán Âm Bồ Tát, góc Đông Bắc là
Di Lặc Bồ Tát.
2. Chánh Biến Tri viện (Phật Mẫu viện)
Ở
ngay phía trên của Trung Thai Bát Diệp (tức phía Đông của Mạn-đồ-la. Trong Thai
Tạng Mạn-đồ-la, phương Đông ở phía trên cùng của Mạn-đồ-la, trong khi Kim Cang
Giới Mạn-đồ-la thì phương Đông ở phía dưới của Mạn-đồ-la). Chính giữa viện này
là Nhất Thiết Biến Tri Ấn (Nhất Thiết Như Lai Trí Ấn) hình tam giác, đặt trên
hoa sen, bao quanh bởi vòng lửa. Bên phải của ấn ấy là Đại Dũng Mãnh Bồ Tát và
Đại An Lạc Bất Không Chân Thật Kim Cang (Phổ Hiền Diên Mạng Bồ Tát, Vajrāmoghasamayasattva). Bên trái của ấn ấy là
Phật Nhãn Phật Mẫu (Buddhalocanī) và
Thất Câu Chi Phật Mẫu (Chuẩn Đề Bồ Tát, Cundā,
Cuṇḍī). Hai bên ở phía trên của Nhất Thiết Tri Ấn có vẽ hai vị tôn
giả có kích thước nhỏ hơn, bên trái là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, và bên phải là
Già Da Ca Diếp.
3. Thích Ca Viện
Viện
này ở phía trên của Chánh Biến Tri viện, tức tầng thứ hai thuộc phương Đông của
Mạn-đồ-la. Viện này biểu thị công năng thuyết pháp lợi sanh của Đại Nhật Như
Lai, gồm ba mươi chín vị tôn thánh.
Ở
ngay phía trên của ấn Chánh Biến Tri, tương ứng với cửa Đông là Thích Ca Mâu Ni
Như Lai. Ngài là tôn chủ của viện này. Chung quanh Ngài có bốn vị tôn thánh,
được sắp xếp như sau:
Hư Không Tạng Bồ Tát |
|
Quán Tự Tại Bồ Tát |
|
Thích Ca Mâu Ni Phật |
|
Vô Năng Thắng Phi |
|
Vô Năng Thắng Kim Cang |
Bên
trái của năm vị trung ương ấy, có mười bảy vị, chia thành hai hàng, hàng trên
gồm chín vị, hàng dưới gồm tám vị như sau:
Như Lai Xả |
Như Lai Hỷ |
Xá Lợi Phất |
Ca Diếp Ba |
Tu Bồ Đề |
Đại Mục Kiền Liên |
Đa Ma La Hương Bích Chi Phật |
Chiên Đàn Hương Bích Chi Phật |
Như Lai Thước Khất Để[14] |
Như Lai Từ |
Như Lai Mẫn |
Như Lai Bi |
Vô Lượng Thanh Phật Đảnh |
Quang Tụ Phật Đảnh |
Đại Chuyển Luân Đảnh |
Như Lai Hào Tướng |
Nhất Thiết Như Lai Bảo |
|
Bên
phải của Thích Ca Mâu Ni Phật cũng gồm mười bảy vị, hàng trên là chín vị, hàng
dưới là tám vị.
Như Lai Nha |
Luân Bức Bích Chi Phật |
Bảo Bức Bích Chi Phật |
Câu Hy La |
A Nan |
Ca Chiên Diên |
Ưu Ba Ly |
Trí Câu Hy La |
Cúng Dường Vân Hải |
Bạch Tán Cái Phật Đảnh |
Thắng Phật Đảnh Chuyển Luân |
Tối Thắng Phật Đảnh Chuyển Luân |
Cao Phật Đảnh |
Tồi Toái Phật Đảnh |
Như Lai Thiệt |
Như Lai Ngữ |
Như Lai Tiếu |
|
4. Văn Thù Viện
Viện
này ở phía trên Thích Ca viện, biểu thị trí huệ mầu nhiệm của Đại Nhật Như Lai,
đoạn trừ hết thảy hý luận, quán chiếu Trí Đức, chính giữa viện này là Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát và bốn vị quyến thuộc như sau.
Quán Tự Tại Bồ Tát |
|
Phổ Hiền Bồ Tát |
|
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát |
|
Đối diện hộ môn |
|
Đối diện hộ môn |
Bên
phải của Văn Thù Bồ Tát gồm có mười vị, được phân bố như sau:
Kế Thiết Ni |
Ổ Ba Kế Thiết Ni |
Chất Đa La |
Địa Huệ |
Câu Triệu Sứ Giả |
Câu Triệu sứ giả quyến thuộc |
|
Sứ giả |
|
Sứ giả |
|
|||||
Câu Triệu sứ giả quyến thuộc |
|
Sứ giả |
Bên
trái là mười vị như sau
Phì Giả Da |
|
A Nhĩ Đa |
Diệu Âm Bồ Tát |
Nguyệt Quang Bồ Tát |
Vô Cấu Quang Bồ Tát |
Bảo Quan Bồ Tát |
Võng Quang Bồ Tát |
|
Đồng Mẫu Rô |
|
|||||
Giả Da |
|
A Ba La Nhĩ |
5. Liên Hoa Bộ Viện
Viện
này nằm bên phải của Trung Thai Bát Diệp (tức bên phải của Đại Nhật Như Lai),
biểu thị lực dụng đại bi của Đại Nhật Như Lai, gồm hai mươi mốt vị tôn thánh,
sắp xếp như sau:
Bị Diệp Y Bồ Tát |
Đại Tùy Cầu Bồ Tát |
Liên Hoa Bộ Phát Sanh Bồ Tát |
Bạch Thân Quán Thế Âm Bồ Tát |
Tốt Đổ Ba Đại Cát Tường Bồ Tát |
Đại Thế Chí Bồ Tát |
Phong Tài Bồ Tát |
Da Thâu Đà La Bồ Tát |
Tỳ Câu Chi Bồ Tát |
Bất Không Quyến Sách Bồ Tát |
Như Ý Luân Bồ Tát |
Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát |
Thủy Cát Tường Bồ Tát |
Đại Cát Tường Đại Minh Bồ Tát |
Đa La Bồ Tát |
Đại Cát Tường Biến Bồ Tát |
Đại Cát Tường Minh Bồ Tát |
Đại Minh Bạch Thân Bồ Tát |
Bạch Xứ Tôn Bồ Tát |
Tịch Lưu Minh Bồ Tát |
Mã Đầu Quán Thế Âm |
Ngoài
ra còn có các vị Đa La sứ giả (thị giả của Đa La Bồ Tát), Phụng Giáo sứ giả
(thị giả của Tỳ Câu Chi Bồ Tát), Liên Hoa Quân Đồ Lợi (thị giả của Thánh Quán
Tự Tại Bồ Tát), Man Cúng Dường (thị giả của Đại Cát Tường Đại Minh Bồ Tát),
Liên Hoa Bộ sứ giả, ba vị Liên Hoa Bộ sứ giả (thị giả của Đại Tùy Cầu Bồ Tát),
Liên Hoa Bộ sứ giả (thị giả của Da Thâu Đà La), Bảo Cúng Dường (thị giả của Như
Ý Luân Quán Âm), Thiêu Hương Bồ Tát, Liên Hoa Bộ sứ giả (thị giả của Đại Cát
Tường Minh Bồ Tát), hai vị Liên Hoa Bộ sứ giả (dâng cúng hoa tươi), Đồ Hương Bồ
Tát, Liên Hoa Bộ sứ giả (thị giả của Đại Cát Tường Biến Bồ Tát). Các vị này sẽ
vẽ rất nhỏ, gần với các vị tôn thánh mà họ chầu hầu.
6. Kim Cang Thủ viện
Nằm
bên trái trong tầng thứ nhất của Trung Thai Bát Diệp, biểu thị Thật Trí của Như
Lai cũng như lực dụng của Như Lai huệ, có thể phá tan các Hoặc nghiệp chướng,
được sắp xếp như sau:
Phát Sanh Kim Cang Bộ Bồ Tát |
Hư Không Vô Cấu Trì Kim Cang Bồ Tát |
Kim Cang Luân Trì Kim Cang Bồ Tát |
Kim Cang Câu Nữ Bồ Tát |
Kim Cang Lao Trì Bồ Tát |
Kim Cang Thuyết Bồ Tát |
Kim Cang Thủ Trì Kim Cang Bồ Tát |
Phẫn Nộ Kim Cang Trì Bồ Tát |
Trạch Duyệt Trì Kim Cang Bồ Tát |
Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát |
Hư Không Vô Biên Siêu Việt Bồ Tát |
Kim Cang Nha Bồ Tát |
Trì Kim Cang Phong Bồ Tát |
Kim Cang Tỏa Bồ Tát |
Ly Hý Luận Bồ Tát |
Kim Cang Quyền Bồ Tát |
Trì Kim Cang Bồ Tát |
Trì Diệu Kim Cang Bồ Tát |
Phẫn Nộ Nguyệt Yển Tôn Bồ Tát |
Trì Kim Cang Lợi Bồ Tát |
Đại Luân Kim Cang Bồ Tát |
7. Địa Tạng Viện
Thuộc
tầng thứ hai, bên phải của Trung Thai Bát Diệp, biểu thị sức đại bi cứu độ
chúng sanh trong chín pháp giới, bộ chủ là Địa Tạng Bồ Tát. Viện này gồm các vị
tôn thánh, xếp từ trên xuống dưới theo thứ tự: Trừ Nhất Thiết U Minh Bồ Tát
(Trừ Nhất Thiết Ưu Não Bồ Tát), Bất Không Kiến Bồ Tát, Bảo Ấn Bồ Tát, Bảo Xứ Bồ
Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Bảo Thủ Bồ Tát, Trì Địa Bồ Tát, Kiên Cố Thâm Tâm Bồ Tát,
Nhật Quang Bồ Tát.
8. Trì Minh viện (Ngũ Đại viện, Phật Mẫu
viện)
Nằm
ngay dưới Trung Thai Bát Diệp, biểu thị đức chiết phục và nhiếp thọ. Chính giữa
là Bát Nhã Phật Mẫu, hai bên lần lượt là Đại Oai Đức Minh Vương, Thắng Tam Thế
Minh Vương, Hàng Tam Thế, và Bất Động Minh Vương.
9. Hư Không Tạng viện
Nằm
ngay dưới Trì Minh Viện, biểu thị bi trí hợp nhất, bao hàm vạn đức, có thể ban
vật báu cho hết thảy chúng sanh, trọn đủ các đức. Các vị tôn thánh được chia
thành hai hàng như sau:
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát |
Đàn Ba La Mật Bồ Tát |
Giới Ba La Mật Bồ Tát |
Nhẫn Ba La Mật Bồ Tát |
Tinh Tấn Ba La Mật Bồ Tát |
Thiền Ba La Mật Bồ Tát |
Hư Không Tạng Bồ Tát |
Bát Nhã Ba La Mật |
Phương Tiện Ba La Mật |
Nguyện Ba La Mật |
Lực Ba La Mật |
Trí Ba La Mật |
Nhất Bách Bát Tý Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát |
|
Bất Không Câu Quán Tự Tại Bồ Tát |
Phẫn Nộ Câu Quán Tự Tại Bồ Tát |
Sanh Phẫn Xứ Bồ Tát |
Cộng Đăng Ý Vận Chuyển Bồ Tát |
Vô Cấu Thệ Bồ Tát |
Tô Bà Hồ Bồ Tát |
Kim Cang Châm Bồ Tát |
Tô Tất Địa Yết La Bồ Tát |
Mạn Đồ La Bồ Tát |
10. Tô Tất Địa viện
Nằm
ngay dưới Hư Không Tạng viện, biểu thị sự thành tựu trong ba bộ của Thai Tạng
Giới, gồm: Bất Không Cúng Dường Bồ Tát, Khổng Tước Vương mẫu, Nhất Kế La Sát,
Thập Nhất Diện Quán Âm, Bất Không Kim Cang Bồ Tát, Kim Cang Quân Đồ Lợi, Kim
Cang Tướng Bồ Tát, Kim Cang Minh Vương Bồ Tát.
11. Trừ Cái Chướng viện
Trong
tầng thứ hai, ở bên trái của Kim Cang Thủ Viện, biểu thị tác dụng trừ cái
chướng phiền não của Kim Cang Trí, gồm: Bi Mẫn Huệ Bồ Tát, Phá Ác Thú Bồ Tát,
Thí Vô Úy Bồ Tát, Hiền Hộ Bồ Tát, Trừ Cái Chướng Bồ Tát, Bi Mẫn Bồ Tát, Từ Phát
Sanh Bồ Tát, Chiết Chư Nhiệt Não Bồ Tát, Bất Tư Nghị Bồ Tát.
12. Kim Cang Ngoại Giới ở phương Đông
Gồm
các vị Y Xá Na Thiên, Hỷ Diện Thiên, Thường Túy Thiên, Khí Thủ Thiên Hậu, Khí
Thủ Thiên, Kiên Lao Địa Thần Hậu, Kiên Lao Địa Thần, Phi Tưởng Thiên, Vô Sở Hữu
Xứ Thiên, Thức Vô Biên Xứ Thiên, Không Vô Biên Xứ Thiên, Nặc Da (quyến thuộc
của Nhật Thiên), Nhật Thiên, Vi Nặc Da, Đế Thích Thiên, Thủ Môn Thiên, Thủ Môn
Nữ thiên nữ, Thủ Môn Thiên, Thủ Môn thiên nữ (hai vị này còn gọi là Tương Hướng
Thủ Hộ), Trì Quốc Thiên, Đại Phạm Thiên, Mão Tú, Tất Tú, Chủy Tú, Sâm Tú, Quỷ
Tú, Tỉnh Tú, Liễu Tú, Ngưu Mật Cung, Bạch Dương Cung, Phu Phụ Cung, Tuệ Tinh,
Lưu Tinh, Nhật Diệu, Bà Tẩu tiên hậu, Bà Tẩu đại tiên, Hỏa Thiên hậu, Hỏa Thiên.
13. Ngoại Kim Cang Giới viện - phương
Bắc
Nằm
ở bên phải Trung Thai Bát Diệp, ở rìa ngoài cùng, gồm hai vị Phong Thiên quyến
thuộc, Quang Âm thiên nữ (vợ thứ nhất của Quang Âm Thiên), Quang Âm Thiên,
Quang Âm thiên nữ (vợ thứ hai của Quang Âm Thiên), hai vị Đại Quang Âm thiên
nữ, Đại Quang Âm Thiên, hai vị Đâu Suất thiên nữ, Đâu Suất Thiên, hai vị Tha
Hóa Tự Tại thiên nữ, Tha Hóa Tự Tại Thiên, hai vị Trì Man thiên nữ, Trì Ma
Thiên, hai vị Thành Tựu Trì Minh tiên nữ, Thành Tựu Trì Minh Tiên, ba vị Ma Hầu
La Già, hai vị Khẩn Na La, hai vị Ca Thiên, Nhạc Thiên, Đế Thích Thiên Phi, Đế
Thích Thiên, Câu La Phì (tức Cưu Bệ La Thiên, Kubera), Câu La Phì nữ, Nan Đà
long vương, Ô Ba Nan Đà long vương, Tỳ Sa Môn Thiên, Thành Tựu Trì Minh Tiên,
Thành Tựu Trì Minh tiên nữ, Hư Tú, Nguy Tú, Thất Tú, Khuê Tú, Bích Tú, Vị Tú,
Lâu Tú, Thiếu Nữ Cung, Giải Cung, Sư Tử Cung, Kim Diệu (Kim Tinh), Chiến Quỷ,
Tỳ Na Dạ Ca, Ma Ha Ca La, Y Xá Na thiên phi.
14. Ngoại Kim Cang giới viện – phương Nam
Gồm
A Nghệ La Tiên, A Nghệ La tiên hậu, Cù Đàm Tiên, Cù Đàm tiên hậu, Tỳ Nữu nữ, Tự
Tại nữ, Dạ Ma nữ (ba vị này là quyến thuộc của Diêm Vương), Hiền Bình Cung, Yết
Ma Cung, Song Ngư Cung, La Hầu Tinh, Mộc Diệu, Hỏa Diệu, Tinh Tú, Chẩn Tú, Cang
Tú, Trương Tú, Dực Tú, Giác Tú, Đê Tú, hai vị Dược Xoa Trì Minh nữ, Dược Xoa
Trì Minh, Tăng Trưởng Thiên, Tăng Trưởng Thiên sứ giả, Nan Đà long vương, Ô Ba
Nan Đà long vương, hai A Tu La, Diễm Ma Thiên, Hắc Ám thiên nữ, Thái Sơn Phủ
Quân, Quỷ chúng, Đoạt Nhất Thiết Nhân Mạng, tám quỷ Tỳ Xá Xà, ba Đồ Cát Ni, tử
quỷ, bốn vị Trì Minh Thành Tựu Tiên, Ma Ni A Tu La, hai quyến thuộc của Ma Ni A
Tu La, A Tu La, hai quyến thuộc của A Tu La, hai Ca Lâu La, hai Cưu Bàn Trà.
15. Ngoại Kim Cang giới viện – phương Tây
Bao
gồm Niết Rị Để vương, hai La Sát nữ, Đại Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại Thiên phi,
Phạm Thiên nữ, Đế Thích nữ, Cưu Ma Lợi, Giá Văn Đồ, Ma Noa Xá (nữ), Ma Noa Xá
(nam), Thủy Diệu, Thổ Diệu, Nguyệt Diệu, Xứng Cung, Hạt Trùng Cung, Cung Cung,
Nữ Tú, Ngưu Tú, Đẩu Tú, Vĩ Tú, Cơ Tú, Phòng Tú, Tâm Tú, Thủy Thiên quyến thuộc,
Thủy Thiên, Nan Đà long vương, Ô Ba Nan Đà long vương, Đối Diện Thiên, Nan Phá
Thiên, Quảng Mục Thiên, Thủy Thiên, Thủy Thiên Phi, Thủy Thiên Phi quyến thuộc,
Na La Diên Thiên, Na La Diên Thiên Phi, Biện Tài Thiên, Cưu Ma La Thiên, Nguyệt
Thiên, Nguyệt Thiên Phi, Cổ Thiên, hai vị Ca Thiên, Nhạc Thiên, hai vị Phong
Thiên Phi quyến thuộc, Phong Thiên Phi, Phong Thiên quyến thuộc, Phong Thiên.
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ư nhất thiết chúng hội trung, đế quán Đại
Nhật Như Lai, mục bất tạm thuấn, nhi thuyết kệ ngôn: - Nhất thiết trí huệ giả,
xuất hiện ư thế gian, như bỉ Ưu Đàm Hoa, thời thời nãi nhất hiện. Chân ngôn sở
hành đạo, bội phục thậm nan ngộ. Vô lượng câu-chi kiếp, sở tác chúng tội
nghiệp, kiến thử Mạn-đồ-la, tiêu diệt tận vô dư, hà huống vô lượng xưng, trụ
chân ngôn hành pháp? Hành thử vô thượng cú, chân ngôn cứu thế giả, chỉ đoạn chư
ác thú, nhất thiết khổ bất sanh. Nhược tu như thị hạnh, diệu huệ thâm bất động.
(經)爾時執金剛祕密主,於一切眾會中諦觀大日如來,目不暫瞬而說偈言。一切智慧者,出現於世間,如彼優曇華,時時乃一現。真言所行道,倍復甚難遇,無量俱胝劫,所作眾罪業,見此漫荼羅,消滅盡無餘,何況無量稱,住真言行法。行此無上句,真言救世者,止斷諸惡趣,一切苦不生,若修如是行,妙慧深不動。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ trong hết thảy chúng hội trung, quán kỹ
Đại Nhật Như Lai, mắt chẳng tạm nháy, mà nói kệ rằng: - Hết thảy bậc trí huệ,
xuất hiện trong thế gian, như hoa Ưu Đàm kia, lâu lâu hiện một lần. Tu hành đạo
Chân Ngôn, càng khó gặp bội phần. Vô lượng câu-chi kiếp, trót tạo các tội
nghiệp, thấy Mạn-đồ-la này, diệt sạch chẳng còn sót. Huống hồ vô lượng xưng,
trụ hành pháp Chân Ngôn? Hành câu vô thượng này, chân ngôn đấng cứu thế, dứt
đoạn các đường ác, hết thảy khổ chẳng sanh. Nếu tu hạnh như thế, diệu huệ sâu
bất động).
Khi
đó, đức Phật thị hiện Phổ Môn Mạn-đồ-la như thế, diễn thuyết phương vị của chư
tôn trong đồ hình đã xong. Ngài Bí Mật Chủ dùng Phổ Nhãn quán mỗi vị tôn thánh
ấy, đều chẳng thấy căn bản, mà cũng chẳng có trụ xứ, đều là thân Thật Tướng nơi
Liên Hoa Đài Tạng, sanh ra đủ loại phương tiện chẳng thể cùng tận. Lúc bấy giờ,
Ngài tự vui mừng sâu xa, phát tâm hy hữu, sanh ý tưởng khó gặp gấp bội đối với
pháp này. Do muốn hỏi nghĩa càng sâu hơn, cho nên Ngài trước hết nói kệ. Bài kệ
đầu tiên có ý nói: “Hết thảy các bậc trí huệ xuất hiện trong thế gian, giống
như hoa Linh Thụy, rất lâu mới hiện một lần”. Phật như hoa Ưu Đàm tuy khó gặp,
nhưng pháp yếu Chân Ngôn này lại càng bội phần khó gặp hơn. Vì sao vậy? Đây là
tạng bí mật của Như Lai, được thủ hộ trong đêm dài, chẳng truyền trao bừa bãi
cho người khác! Nếu chẳng phải là căn cơ đốn ngộ, sẽ chẳng được truyền trao.
Khi đức Thế Tôn còn tại thế, pháp này còn bị nhiều nỗi oán ghét, huống hồ đời
Mạt ư?
Hơn
nữa, kinh này tự giải thích nhân duyên khó hiện: Nếu chúng sanh được thấy
Mạn-đồ-la này, ác nghiệp trọng chướng từ vô thỉ tới nay sẽ bị dẹp tan, chẳng
còn thừa sót, nhất định được thọ ký Đại Bồ Đề. Vì thế, chẳng phải là kẻ độn
căn, phước mỏng mà có thể gặp gỡ được! Được thấy còn khó, huống hồ theo thứ tự
tu hành ư? Hãy nên biết người ấy lại càng hiếm có, thường được Phổ Môn hải hội
ca ngợi, tiếng vang dội mười phương. Lại giống như Đại Nhật Như Lai có đủ loại
danh hiệu, nên nói là “vô lượng xưng”.
Kinh
nói “hành thử vô thượng cú” (hành câu vô thượng này) tức là tu
hành câu Bồ Đề vô thượng. Môn chữ A này là vua của hết thảy các chân ngôn,
giống như đức Thế Tôn là vua của các pháp. Vì thế nói: “Chân ngôn cứu
thế giả” (Đấng Chân Ngôn cứu đời). Câu thứ hai nói về nghiệp cứu thế,
có thể khiến cho hành nhân thành tựu Kim Cang Tánh, “chỉ đoạn chư ác
thú, nhất thiết khổ bất sanh” (ngưng dứt các đường ác, hết thảy khổ
chẳng sanh).
Kinh
nói “nhược tu như thị hạnh, diệu huệ thâm bất động” (nếu tu
hạnh như thế, diệu huệ sâu bất động): Nếu nói theo bản chép đầy đủ, phải
là “huệ cực thâm bất động” (trí huệ đạt đến cùng cực, sâu xa,
bất động), như tâm đại hải, do đã cực sâu rộng, lại tột bậc xa lìa hai bên,
thậm chí khi bão tố dấy lên, vẫn chẳng thể lay động. Nếu khi hành giả nhập cái
tâm biển cả Chân Ngôn này thì cũng giống như thế, do diệu huệ rất sâu vô lượng,
lại tột bậc xa lìa nhị biên, hết thảy các pháp chẳng thể lay động. Như vua
rồng Sa Kiệt La (Sāgara) tuôn
mưa suốt sáu ngày, khi đó, trong cung của chính ông ta, ba nghiệp đều chẳng dấy
khởi. Nếu hiểu nghĩa như thế, sẽ biết các thứ phương tiện trong Mạn-đồ-la
đều trụ trong Thật Tế!
(Kinh)
Thời phổ tập hội nhất thiết đại chúng, cập chư Trì Kim Cang giả, dĩ nhất âm
thanh tán thán Kim Cang Thủ ngôn: - Thiện tai! Thiện tai! Đại Cần Dũng, nhữ dĩ
tu hành Chân Ngôn hạnh, năng vấn nhất thiết Chân Ngôn nghĩa. Ngã đẳng hàm hữu ý
tư duy, nhất thiết hiện vị nhữ chứng nghiệm, y trụ Chân Ngôn chi hạnh lực, cập
dư Bồ Đề đại tâm chúng, đương đắc thông đạt Chân Ngôn pháp.
(經)時普集會一切大眾及諸持金剛者,以一音聲讚歎金剛手言:善哉善哉大勤勇,汝已修行真言行,能問一切真言義,我等咸有意思惟。一切現為汝證驗,依住真言之行力,及餘菩提大心眾,當得通達真言法。
(Kinh:
Khi đó, hết thảy đại chúng trong hội nhóm họp trọn khắp và các vị Trì Kim Cang
dùng một âm thanh tán thán ngài Kim Cang Thủ rằng: - Lành thay! Lành thay! Đại
Cần Dũng, ông đã tu hành hạnh Chân Ngôn, có thể hỏi hết thảy nghĩa Chân Ngôn.
Chúng tôi đều có ý tư duy, hết thảy sẽ vì ông chứng nghiệm, nương theo sức của
hạnh Chân Ngôn, và các Bồ Đề đại tâm chúng, sẽ được thông đạt pháp Chân Ngôn).
Các
đại chúng ấy nghe đức Phật rộng diễn các phương vị trong Mạn-đồ-la xong, muốn
hỏi các biểu tượng đặc trưng cho pháp giới và sự nghiệp Kim Cang trong ấy, do
kính trọng đức Thế Tôn, chưa dám thốt lời. Do ngài Kim Cang Thủ có thể quán sát
tâm đại chúng, bèn thừa dịp nói kệ, ắt biết họ muốn đoạn lưới nghi, lợi ích
rộng khắp vô lượng chúng sanh. Do vậy, [đại chúng] khen ngợi, chứng minh,
khuyên Ngài hỏi han. Hơn nữa, các đại chúng nhiều như số vi trần trong mười cõi
Phật, do nhất tâm, một mực, khiến cho một người tụng lời pháp âm này, chẳng
phải là mỗi người đều cùng lúc riêng nói. Kệ rằng: “Thiện tai! Thiện
tai! Đại Cần Dũng, nhữ dĩ tu hành Chân Ngôn hạnh, năng vấn nhất thiết chân ngôn
nghĩa, ngã đẳng hàm hữu ý tư duy” (Lành thay! Lành thay! Đại Cần Dũng,
ông đã tu hành hạnh Chân Ngôn, hay hỏi hết thảy nghĩa Chân Ngôn, chúng tôi đều
có ý tư duy): “Hạnh Chân Ngôn” chính là pháp môn Tam Bình
Đẳng, ông là thượng thủ bậc nhất trong những người trì Tam Mật, cho nên có thể
hỏi đức Thế Tôn về nghĩa sâu Phổ Môn. Như nhân giả toan hỏi ý nghĩa của đức
Phật, chúng tôi cũng đều suy nghĩ ấy, nay thảy đều đồng tâm suy nghĩ, mong
biết, ông hãy nên mau chóng thưa trình. Kế đó nói: “Nhất thiết hiện vị
nhữ chứng nghiệm, trụ Chân Ngôn chi hạnh lực” (Hết thảy nay vì ông
chứng nghiệm, trụ trong hạnh lực của Chân Ngôn), ý nói: Chúng tôi khi sơ phát
tâm, do trụ trong câu vô thượng này, thậm chí có thể bất động trong biển Kim
Cang huệ rất sâu. Vì thế, nhất định sẽ sư tử hống, sẽ hiện chứng minh cho bài
kệ ông vừa nói trên đây. Nếu ông muốn thưa hỏi phương tiện bí mật của Như Lai,
những người có lòng mong cầu Đại Thừa sẽ do hạnh pháp Chân Ngôn mà đều được
thông đạt. Do thông đạt, siêng năng tu hành chẳng lâu, cũng sẽ giống như chúng
tôi không khác. Do thấy nghĩa lợi như thế, dùng một âm thanh mà đồng tâm khuyến
trợ vậy!
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ phục bạch Thế Tôn, nhi thuyết kệ ngôn: - Vân
hà thái sắc nghĩa? Phục đương dĩ hà sắc? Vân hà nhi vận bố? Thị sắc thùy vi sơ?
Môn tiêu kỳ lượng đẳng, sương vệ diệc như thị. Vân hà kiến chư môn? Nguyện tôn
thuyết kỳ lượng. Phụng thực, hương, hoa đẳng, cập dữ chúng bảo bình. Vân hà dẫn
đệ tử? Vân hà linh quán đảnh? Vân hà cúng dường sư? Nguyện thuyết hộ-ma xứ. Vân
hà chân ngôn tướng? Vân hà trụ tam-muội?
(經)爾時執金剛祕密主復白世尊而說偈言:云何彩色義?復當以何色?云何而運布?是色誰為初?門標旗量等,廂衛亦如是。云何建諸門?願尊說其量。奉食華香等,及與眾寶瓶,云何引弟子?云何令灌頂?云何供養師?願說護摩處。云何真言相?云何住三昧?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ lại bạch đức Thế Tôn, mà nói kệ rằng: -
Màu sắc nghĩa thế nào? Lại nên dùng màu nào? Sắp đặt như thế nào? Màu nào dùng
đầu tiên? Kích thước cửa, cờ quạt? Góc xép cửa cũng thế. Lập các cửa ra sao?
Kính xin nói kích thước! Dâng thức ăn, hương, hoa, và bình bằng các báu. Dẫn đệ
tử ra sao? Dạy quán đảnh thế nào? Cúng dường thầy ra sao? Xin nói chỗ hộ-ma,
tướng chân ngôn thế nào? Trụ tam-muội ra sao?)
Lúc
bấy giờ, ngài Bí Mật Chủ do được đại chúng khuyến phát, liền nói già-tha (kệ
tụng) để rộng hỏi đức Thế Tôn. Bài kệ đầu tiên hỏi về ý nghĩa của màu sắc, gồm
có bốn câu. Câu đầu tiên hỏi về ý nghĩa của màu sắc [được dùng trong Mạn-đồ-la]
là như thế nào? Câu thứ hai nhằm hỏi nên chọn màu sắc nào? Câu thứ ba hỏi nên
sắp đặt các màu ấy ra sao? Trước hết, [xếp đặt] ở chỗ nào? Trong hay là ngoài?
Câu thứ tư hỏi: Sắp xếp các màu sắc thì màu nào xếp đầu tiên? Đây chính là một
loại chi phần thuộc về Thời của Mạn-đồ-la.
Bài
kệ kế đó hỏi về các biểu tượng nơi các cửa [của đàn tràng], gồm ba câu kệ: Câu
đầu tiên hỏi về hình dạng và kích thước của cửa và cờ quạt [treo trên cửa ấy].
Câu thứ hai hỏi về hình dạng và kích thước của “môn sương” (tức
là chỗ trống hai bên cửa để đặt các vị thủ hộ). Câu thứ ba hỏi về
cách kiến lập các cửa: Hình dạng, kích thước, và pháp tắc của chúng.
Đủ loại biểu trưng bí mật như thế, A-xà-lê đều nên khéo thông đạt. Đây lại là
một chi phần khác.
Kế
đó có hai bài kệ, nói chung có tám câu hỏi:
-
Câu đầu tiên hỏi về cách dâng cúng thức ăn, hương, hoa v.v… như thế nào?
-
Câu thứ hai hỏi về pháp tắc bảo bình. Hãy nên biết hết thảy các thứ vật cúng
dường đều được bao gồm trong đó, A-xà-lê hãy nên tùy theo từng sự mà biện định
tánh loại của chúng. Đây cũng lại là một loại chi
phần.
-
Câu thứ ba hỏi [thầy sẽ] dẫn dắt đệ tử vào Mạn-đồ-la như thế nào?
-
Câu thứ tư hỏi thực hiện pháp quán đảnh như thế nào?
-
Câu thứ năm là hỏi thân cận, phụng sự vị tôn thánh mà chính mình tôn thờ như
thế nào? Nhưng trong ấy lại có hai loại: 1) Nếu là hành nhân nương theo
Thế Đế Mạn-đồ-la, sẽ triệu vời đệ tử vào đàn để quán đảnh, dâng cúng A-xà-lê
như thế nào? 2) Nếu đã tu tập Du Già, thực hiện Bí Mật Quán Đảnh, sẽ triệu vời
đệ tử quán đảnh, dâng cúng A-xà-lê như thế nào? Trong khi đang tác pháp, tất cả
các phương tiện gia trì dạy bảo đều được nhiếp thuộc trong ấy. Đó lại là một
loại chi phần nữa.
-
Câu thứ sáu là hỏi về nơi chốn để hộ-ma, cũng có hai cách giải thích nông cạn
và bí mật, và các phương tiện lạ như Tức Tai, Tăng Ích, Hàng Phục v.v…
-
Câu thứ bảy hỏi về bộ loại, tự nghĩa, và cú nghĩa của chân ngôn.
-
Câu thứ tám hỏi về tướng sai biệt của các môn tam-muội cạn sâu sai khác.
Phàm
A-xà-lê mà chưa khéo thông đạt pháp như thế, chớ nên kiến lập Mạn-đồ-la. Điều
này lại hợp thành ba loại chi phần vậy!
(Kinh)
Như thị phát vấn dĩ, Mâu Ni chư pháp vương, cáo Trì Kim Cang Huệ: - Nhất tâm ưng
đế thính, tối thắng chân ngôn đạo, xuất sanh Đại Thừa quả, nhữ kim thỉnh vấn
ngã, vị đại hữu tình thuyết, nhiễm bỉ chúng sanh giới, dĩ pháp giới chi vị, cổ
Phật sở tuyên thuyết, thị danh vi sắc nghĩa. Tiên an bố nội sắc, phi an bố
ngoại sắc, khiết bạch tối vi sơ, xích sắc vi đệ nhị, như thị hoàng cập thanh,
tiệm thứ nhi chương trước, nhất thiết nội thâm huyền, thị vị sắc tiên
hậu.
(經)如是發問已,牟尼諸法王,告持金剛慧:一心應諦聽。最勝真言道,出生大乘果,汝今請問我,為大有情說。染彼眾生界,以法界之味,古佛所宣說,是名為色義。先安布內色,非安布外色,潔白最為初,赤色為第二,如是黃及青,漸次而彰著,一切內深玄,是謂色先後。
(Kinh:
Thưa hỏi như thế rồi, đấng Mâu Ni vua của các pháp, bảo ngài Trì Kim Cang Huệ:
- Nên nhất tâm lắng nghe, đạo chân ngôn tối thắng, xuất sanh quả Đại Thừa. Ông
nay thưa hỏi ta, vì đại hữu tình nói. Nhuộm chúng sanh giới ấy, dùng vị của
pháp giới, được cổ Phật tuyên nói. Đó là nghĩa của sắc. Trước xếp đặt nội sắc,
chẳng xếp bày ngoại sắc. Khiết bạch là đầu tiên, màu đỏ là thứ hai, vàng rồi
xanh như thế, lần lượt được phô rõ, sâu huyền trong hết thảy, gọi là sắc trước
sau).
Hỏi
như thế xong, đấng Đại Tịch pháp vương bảo ngài Chấp Kim Cang rằng: “Ông hãy
nên nhất tâm lắng nghe” rồi nói kệ rằng: “Tối thắng Chân Ngôn đạo, xuất
sanh Đại Thừa quả” (đạo Chân Ngôn tối thắng, xuất sanh quả Đại
Thừa). “Quả Đại Thừa” tức là vô thượng huệ của Phật, phải do
phương tiện như thế mà được sanh. Do ông khéo dùng lời tốt lành thưa hỏi ta,
nên ta nay vì trọn khắp các vị Ma Ha Tát khai thị diễn thuyết (“đại hữu
tình” trong lời kệ chính là dịch nghĩa của chữ Ma Ha Tát) .
Bài
kệ thứ nhất giải đáp ý nghĩa của sắc: “Nhiễm bỉ chúng sanh giới, dĩ
pháp giới chi vị. Cổ Phật sở tuyên thuyết, thị danh vi sắc nghĩa” (Để
nhuộm chúng sanh thì dùng vị của pháp giới. Do vậy, đức Phật tuyên nói. Đó gọi
là ý nghĩa của màu sắc): Giống như nhuộm màu trong thế gian, có thể nhuộm vải
sạch thành cùng một vị. Vì thế, dùng vị để giải thích sắc. Như nói “ca-sa
vị” tức là nhuộm thành màu ca-sa. Nay ý nghĩa của sắc trong Mạn-đồ-la
này cũng thế: Dùng sắc chẳng thể nghĩ bàn của pháp giới để nhuộm tâm của chúng
sanh thành cùng một vị Bồ Đề thanh tịnh. Lại như thế gian nhuộm áo, trước là
dùng nước tro để gột tẩy cho áo dễ ăn màu. Nay dùng môn chữ Ra (र)
để thiêu đốt tâm cấu của đệ tử cháy sạch thành tro. Sau đấy, dùng nước đại từ
bi thuộc môn chữ Phạ (व, Va) để gột rửa, khiến cho thuần nhất,
trong sạch, lìa các hý luận. Sau đấy mới nhuộm thành pháp giới Mạn-đồ-la, khiến
cho các thứ thân Phổ Môn đều có cùng màu với Thật Tướng.
Kế
đó, có hai bài kệ đáp chung ba câu hỏi. Hỏi “trong các màu sắc ấy, nên dùng
màu nào?” Nay trong lời đáp, [đức Phật dạy hãy] dùng trọn năm sắc
xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Kệ nói: “Tiên an bố nội sắc, phi an bố
ngoại sắc” (trước xếp đặt nội sắc, chẳng xếp đặt ngoại sắc, [hàm
nghĩa: Khi tô màu mạn-đồ-la, phải nên làm theo thứ tự từ trong ra ngoài), nhằm
trả lời câu hỏi “xếp đặt sắc như thế nào?” Chỗ nào bắt đầu
trước, chỗ nào bắt đầu sau. “Khiết bạch dĩ vi sơ, xích sắc vi đệ nhị,
như thị hoàng cập thanh, tiệm thứ nhi chương trước. Nhất thiết nội thâm huyền,
thị vi sắc tiên hậu” (trắng sạch là đầu tiên, màu đỏ là thứ hai, vàng
rồi xanh như thế, lần lượt được nêu rõ. Màu đen xẫm trong hết thảy. Đó là thứ
tự trước sau của các màu) tức là giải đáp câu hỏi “sắc nào là đầu
tiên?” Khiết bạch là tịnh pháp giới sắc của đức Tỳ Lô Giá Na, tức là
cội nguồn của hết thảy chúng sanh; vì thế là tối sơ. Đỏ là màu của Bảo Tràng
Như Lai, đã phát Bồ Đề tâm do hiểu đạo, hàng phục ma oán, diệt trừ cái chướng.
Vì thế là thứ hai. Màu vàng là màu của Sa La Thụ Vương Phật (Khai Phu Hoa Vương
Phật), do khi thành Chánh Giác, muôn đức nở xòe, đều đạt tới Kim Cang Thật Tế,
nên là thứ ba. Xanh là màu của Vô Lượng Thọ Phật, đã đạt được Kim Cang Thật Tế,
tức là dùng phương tiện gia trì, hiện trọn khắp Đại Bi Mạn-đồ-la, như trong hư
không thanh tịnh chứa đựng trọn đủ vạn tượng, cho nên là thứ tư. Màu đen là màu
của Cổ Âm Như Lai (Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai). Sở dĩ hóa hiện dấu tích Phổ Môn
đều vì hiển lộ Bổn. “Bổn” tức là địa vị do Như Lai tự chứng,
trụ trong Đại Niết Bàn. Nếu bỏ đi thần lực gia trì, sẽ chẳng phải là cảnh giới
mà tâm lượng của hết thảy chúng sanh có thể lãnh hội. Vì thế, sắc này u huyền,
xếp vào sau cùng.
Lại
nữa, như lụa sạch trong thế gian, sẽ nhuộm các màu trước. Cuối cùng, màu đen là
màu nhuộm tột cùng, do quá sẫm, chẳng thể nhuộm thêm nữa, cho nên xếp sau cùng.
Ý nghĩa màu sắc trong Mạn-đồ-la cũng giống như thế. Trắng nghĩa là “vượt
khỏi một trăm sáu mươi tâm cấu”. Đó là màu của Tín; cho nên đứng đầu. Đỏ là ý
nghĩa Đại Cần Dũng, là màu của Tinh Tấn. Vì thế là thứ hai. Vàng nghĩa là “khi
một niệm tương ứng, Định và Huệ cân bằng, Thất Giác nở xòe”. Đó gọi là
màu của Niệm. Vì thế, đứng thứ ba. Xanh là ý nghĩa Đại Không tam-muội, là màu
của Định. Vì thế là thứ tư. Đen là ý nghĩa của Đại Niết Bàn, tức là huệ rốt ráo
của Như Lai. Đó là màu sắc của Huệ, nên là thứ năm. Hoặc có thuyết cho rằng:
Màu trắng là đầu tiên, vàng là thứ hai, đỏ là thứ ba, xanh là thứ tư, đen là
thứ năm. Đấy là xét theo ý nghĩa nhuộm màu sâu hay cạn tùy theo mức độ.
Lại
nữa, trắng có ý nghĩa là Tín, là màu đầu tiên. Vàng giống như kim cang chẳng
thể ngăn trở, phá hoại, tức là ý nghĩa Tinh Tấn, nên là thứ hai. Đỏ là trừ sạch
chướng ngại nơi tâm, quang minh chiếu rạng, tức là ý nghĩa của Niệm, cho nên là
thứ ba. Những điều khác như trên đây đã giải thích. Các điều được biểu thị
trong pháp môn mỗi môn mỗi khác.
Lại
nữa, trắng là màu Tịch Tai (dứt trừ tai nạn), là ý nghĩa của Như Lai Bộ. Cho
nên đứng đầu. Vàng là màu Tăng Ích, là ý nghĩa của Liên Hoa Bộ, nên là thứ hai.
Đỏ là màu Hàng Phục, là ý nghĩa của Kim Cang Bộ, cho nên là thứ tư. Xanh là
Thành Biện Chư Sự (hoàn thành các sự) cũng sanh ra các hình tướng tùy theo từng
loại, cho nên là thứ tư. Đen là ý nghĩa Nhiếp Triệu, tức các việc được thực
hiện bởi các vị Phụng Giáo, Phẫn Nộ v.v… Cho nên là thứ năm.
Lại
nữa, như vẽ vời trong thế gian chẳng ngoài năm sắc, nhưng liên quan tới đủ loại
sâu hay cạn khác nhau. Người xảo huệ sẽ khéo sắp xếp, sanh ra muôn hình tượng
chẳng có cùng tận. Màu pháp giới chẳng thể nghĩ bàn cũng giống như thế. Nói
chung, chẳng vượt ngoài năm tự môn (A, Ra, Va, Ha, Kha), nhưng lại phát huy
thành đủ loại trí ấn sai biệt. Như Lai do thiện xảo phổ môn vẽ vời Đại Bi Sanh
Mạn-đồ-la, cho đến sanh ra các hình tướng theo từng loại nhiều như số vi trần
trong thế giới mà vẫn chẳng cùng tận. Nếu hành nhân Du Già hiểu được ý nghĩa
trong ấy, sẽ càng hiểu sâu hơn, tự tại thực hiện chẳng hề thiếu khuyết trong
Chân Như tịch diệt. Những điều kệ đã nói chính là nêu ra cương lãnh của một
đường lối pháp môn vậy.
Kinh
dạy “tiên an bố nội sắc, phi an bố ngoại sắc” (trước xếp đặt
nội sắc, chẳng xếp đặt ngoại sắc), tức là trong cách vẽ vời, hãy nên trước hết
vẽ nội tâm bí mật Liên Hoa Tạng xong. Kế đó, tạo tầng thứ nhất gồm các nội
quyến thuộc (Liên Hoa Bộ, Kim Cang Thủ, Chánh Biến Tri, Trì Minh) giống như ba
điểm của chữ Y. Kế đó, tạo các đại quyến thuộc của bốn vị Bồ Tát thuộc tầng thứ
hai (Văn Thù, Địa Tạng, Trừ Cái Chướng, Hư Không Tạng), và tầng thứ ba gồm hết
thảy các vị trời trong thế gian và quyến thuộc.
Lại
ở trong các đường ranh giới, phần chính giữa (Trung Thai Bát Diệp) và tầng thứ
nhất, hãy nên dùng đủ năm màu. Trước hết, dùng màu trắng vẽ đường ranh giới bao
quanh xong; kế đó, ở ngoài [đường ranh ấy] vẽ đường ranh giới màu đỏ. Kế đó, ở
phía ngoài lại vẽ màu vàng. Sau đấy, lại vẽ [ranh giới] màu xanh, ở ngoài cùng
bèn vẽ đường ranh giới màu đen. Trong tầng thứ hai, cũng theo thứ tự như trên
để xếp đặt ba màu trắng, đỏ, vàng. Ranh giới của tầng thứ ba chỉ dùng thuần một
màu trắng, đều vẽ sao cho tột bậc cân bằng, ngay ngắn, lần lượt xoay theo chiều
phải để xếp đặt. Ở rìa ngoài của chỗ đi lại và cúng dường v.v… đều làm đường
ranh thuần một màu. Kinh Cù Hê nói: “Đản dụng bạch sắc” (chỉ
dùng màu trắng). Do vậy, trước hết dùng màu trắng từ trong hướng ra ngoài, nhằm
nêu tỏ năm loại căn lực (Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ) của Bồ Đề tâm lần lượt tăng
rộng, cho tới trụ trong Đại Bát Niết Bàn, sẽ trọn hết thảy các chỗ, không đâu
chẳng hiện diện. Vì thế, màu đen ở ngoài cùng. Nếu từ cạn tới sâu, từ Tích trở
về Bổn, thì đức Thế Tôn rủ lòng cùng vì quyến thuộc sơ môn trong sáu đường mà
khai phát Bồ Đề tâm thanh tịnh. Nếu chúng sanh nhập minh môn này, khi vượt
thoát một trăm sáu mươi tâm, là đã dự vào địa vị Bồ Tát vượt ngoài thế gian. Vì
thế, tầng Mạn-đồ-la thứ ba chỉ nên dùng màu trắng để làm ranh giới. Tầng
Mạn-đồ-la thứ hai, ngoài sắc trắng, lại thêm màu đỏ và màu vàng thì đỏ là siêng
năng, dũng mãnh, tấn tu vạn hạnh trong Bồ Đề tâm. Vàng là vạn đức nở xòe trong
Niệm Xứ của Như Lai. Lúc bấy giờ bèn nhập trùng huyền môn, ngự trong cõi Tịch Quang,
thậm chí bậc đã đạt tới địa vị gần với Bổ Xứ mà chẳng nhận biết một ai [đã nhập
huyền môn ấy]. Do vậy, trong tầng thứ hai, chỉ dùng ba màu làm ranh giới.
Trong
tầng thứ nhất của Mạn-đồ-la, ngoài ba màu trên, còn thêm màu xanh và màu đen.
Xanh là Đại Không tam-muội; đó gọi là thân, khẩu, ý mật của Như Lai gia trì vô
tận, cho nên dùng màu của đại hư không. Đen là màu của thân Như Lai thọ lượng
thường trụ. Diệu thân như thế rốt ráo chẳng có hình tượng, nên vẽ thành hình
đen sẫm. Hai câu này chính là bí tạng của Như Lai, chẳng phải vì trọn khắp hết
thảy chúng sanh, cho nên gọi là “quyến thuộc”. Lại vào trong
màu đen sẫm ấy chính là Thai Hoa Tạng do Như Lai tự chứng. Lúc bấy giờ, thấy
màu của ngũ trí đều cùng là một màu pháp giới, há có cạn hay sâu sai khác ư?
Tuy chúng sanh có người dần dần nhập, có người siêu thăng, có người đốn nhập,
nhưng đều cùng tiến hướng về một đích. Vì thế nói “nhất thiết nội thâm
huyền”.
(Kinh)
Kiến lập môn tiêu xí, lượng đồng Trung Thai Tạng, sương vệ diệc như thị. Hoa
đài thập lục tiết. Ưng tri bỉ sơ môn, dữ nội đàn tề đẳng. Trí giả ư ngoại viện,
tiệm thứ nhi tăng gia. Ư bỉ sương vệ trung, đương kiến đại hộ giả. Lược thuyết
Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ư duyên. Quảng nghĩa phục thù dị, Đại Chúng Sanh đế
thính. Phật thuyết nhất thiết Không, Chánh Giác chi Đẳng Trì, tam-muội chứng
tri tâm, phi tùng dị duyên đắc. Bỉ như thị cảnh giới, nhất thiết Như Lai Định.
Cố thuyết vi Đại Không, viên mãn Tát Bà Nhã.
(經)建立門幖幟,量同中胎藏,廂衛亦如是,華臺十六節。應知彼初門,與內壇齊等,智者於外院,漸次而增加,於彼廂衛中,當建大護者。略說三摩地,一心住於緣,廣義復殊異,大眾生諦聽。佛說一切空,正覺之等持,三昧證知心,非從異緣得。彼如是境界,一切如來定,故說為大空,圓滿薩婆若。
(Kinh:
Tạo lập các biểu tượng, đặt phía trên các cửa, lượng đồng Trung Thai Tạng, góc
xép cửa cũng thế. Đài hoa mười sáu lóng. Hãy nên biết cửa đầu, cân bằng với nội
đàn. Người trí ở ngoại viện, lần lượt mà tăng thêm. Ở nơi hai góc cửa, nên lập
bậc đại hộ, lược nói Tam-ma-địa, nhất tâm trụ nơi duyên. Nghĩa rộng lại khác
hẳn, Đại Chúng Sanh lắng nghe. Phật nói hết thảy Không, Đẳng Trì của Chánh
Giác, tam-muội chứng biết tâm, chẳng do duyên khác được. Cảnh giới như thế đó,
hết thảy Như Lai Định. Nên nói là Đại Không, viên mãn Tát Bà Nhã).
Kinh
dạy: “Kiến lập môn tiêu xí, lượng đồng Trung Thai Tạng, sương vệ diệc
như thị, hoa đài thập lục tiết” (Kiến lập các biểu tượng hoặc cờ quạt
nơi cửa [của Mạn-đồ-la], có kích thước giống như Trung Thai Tạng (Trung Thai
Bát Diệp), các khoảng trống ở hai bên cửa cũng thế, hoa đài to mười sáu ngón
tay): Ở bên cạnh cửa [của đàn tràng Mạn-đồ-la], đều dựng tràng, cờ để làm vật
biểu trưng; gọi đó là “môn tiêu xí”. Hai thứ cột cờ quạt biểu
trưng ấy có kích thước tương đương, sao cho cân bằng với Trung Thai (đó là ý
nghĩa của câu “lượng đồng Trung Thai Tạng”). Trên đó đặt thanh
ngang, cũng rộng bằng chừng đó. Trên đầu mỗi cột treo tràng, đều đặt hình bán
nguyệt. Dưới mặt trăng, đặt cờ xí, dùng lụa màu cột cho ngay ngắn. Góc cờ có
thể cắt ra để tạo thành đuôi nheo, mỗi đuôi đều rủ xuống phía ngoài cột tràng,
trên nhọn, dưới tù. Ở bốn góc [của Mạn-đồ-la], cũng đặt sào treo tràng và hình
bán nguyệt. Cờ quạt đều đặt đối xứng nhau. Nơi cửa Đại Cần Dũng (tức cửa tương
ứng với Thích Ca Viện, tức cửa Đông), trên các hình bán nguyệt, đều đặt báu Như
Ý. Nơi cửa Kim Cang Thủ (cửa Nam) thì trên các hình bán nguyệt, đều đặt
bạt-chiết-la (vajra, chày kim cang). Nơi cửa Liên Hoa Thủ (cửa Bắc), trên mỗi
hình bán nguyệt, đều đặt Thương-khư (tù và bằng vỏ ốc). Kế đó, ở bốn góc cũng
đều đặt vật báu. “Giáp môn sương vệ”[15] như hình chữ Á (亞), còn thông đạo (lối đi) ở chính giữa thì
ở mỗi khúc quanh đều đặt cọc kim cang. Đầu cọc có hình dáng như bạt-chiết-la
một nhánh, phía dưới bén nhọn. Mỗi góc có sáu cọc, hai bên tổng cộng là mười
hai cọc. Bốn cửa và bốn góc tính chung là hai mươi tám cọc. Ba tầng đều như
thế. Và chuẩn bị chỉ ngũ sắc, đều dùng Bất Động chân ngôn hoặc Hàng Tam Thế
chân ngôn để gia trì [chỉ ấy] một trăm lẻ tám lượt, hoặc một ngàn tám mươi
lượt.
Vào
đêm hôm A-xà-lê chánh thức tác pháp, đã vẽ Mạn-đồ-la xong, trước hết, xem xét
Trung Thai và viện thứ nhất, thấy chẳng thiếu sót gì, liền đóng cọc Kim Cang
xuống. Dùng chỉ Kim Cang (tức chỉ ngũ sắc vừa được gia trì trên đây) để chăng
vòng quanh các cọc kim cang ấy. Tới chỗ trổ cửa thì ngưng, chẳng cần cắt ngang.
Ba tầng đều sắp đặt như thế. Nếu chẳng thể như vậy, nơi viện thứ ba, ắt phải
trọn đủ pháp này, chẳng được thiếu khuyết. Tới chỗ thông môn (cửa để ra vào đàn
tràng), hãy nên nâng chỉ lên, thuận theo [phương vị của] cửa để căng vòng quanh
phía trên, khiến cho [người ra vào] chẳng bị vướng vào đầu. Đã kết giới xong,
hãy nên theo cửa để ra vào, chẳng được tự tiện vượt qua chỗ khác [để vào trong
đàn tràng]. Mỗi khi ra vào, vẫn cần phải tụng chân ngôn Bất Động. Nếu là Du Già
A-xà-lê, nếu lúc cần ra vào, đối với chỉ vây quanh [đàn tràng], cũng có thể
nghĩ nhấc chỉ lên để đi qua. Đi qua rồi bèn hạ chỉ xuống như cũ. Hoặc là khi
cách xa cửa, cần ra vào gấp, hãy nên quán tự thân là đức Tỳ Lô Giá Na, dùng
thân chẳng vướng mắc, chướng ngại, chớ sanh ý tưởng “vượt qua khỏi chỉ [kết
giới], tùy ý ra vào” thì không phạm lỗi!
Đối
với chỗ khuất khúc nơi sáu cây cọc, đều giữ sao cho khoảng cách [giữa các cọc]
đều cân bằng, vẫn cần phải giữ sao cho có lối đi qua lại giữa các viện. Đối với
hai bên góc xép của cửa ngoài cùng, cũng phải ngay ngắn tương xứng với Trung
Thai. Vì thế nói: “Sương vệ diệc như thị” (góc xép nơi cửa
cũng phải như thế). “Hoa đài” là chỗ quán đảnh. Đại để, quy
chế về đàn hoa đài giống như Trung Thai Bát Diệp Tạng. [Hoa đài] nhỏ nhất thì
[có kích thước mỗi bề] bằng mười sáu ngón tay, các ý nghĩa khác sẽ được nói cặn
kẽ hơn trong phần sau. [Đàn quán đảnh] chỉ trổ một cửa, cửa ấy hướng về đại đàn
(tức đàn tràng của Thai Tạng Mạn-đồ-la). Kệ nói: “Ưng tri bỉ sơ môn, dữ
nội đàn tề đẳng” (Hãy biết nơi cửa đầu, giữ bằng với nội đàn), tức là
đối với cửa ở tầng thứ nhất [của hoa đài, tức đàn quán đảnh], hãy tương đương
chuẩn theo chín phần[16], khiến cho rộng hẹp đều bằng với
[đàn chánh], khiến cho đường chánh trong nội đàn dẫn thẳng tới tâm của hoa đàn.
Các tầng thứ hai, thứ ba cũng dùng điều này để suy ra mà phân định, tự nhiên
lần lượt tăng rộng, mỗi mỗi đều thích hợp. Tại hai góc xép nơi cửa của tầng thứ
hai, đặt hai anh em long vương, Nan Đà ở phương Nam, Bạt Nan Đà ở phương Bắc[17]. Các món báu trang nghiêm khác đại
để giống như trong phẩm Bí Mật Mạn Đồ La [sẽ nói].
[Thiện
Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu giải thích theo kiểu sâu xa, bí mật, bốn mặt
đàn đều phải vuông vắn, ngay thẳng, quân bình, chính là ý nghĩa Tứ Niệm Xứ. Bốn
cửa là Tứ Tĩnh Lự, mà cũng là Tứ Nhiếp Pháp. Các vật biểu trưng nơi cửa là Tứ
Phạm Trụ, góc hai bên cửa là Tứ Chánh Cần. Bốn góc là Tứ Chân Đế (Tứ Thánh Đế),
chỉ kim cang chính là Tu-đa-la. Do ba mươi bảy phẩm ấy duy trì lẫn nhau mà tạo
thành ngằn hạn của pháp môn vậy!” Vì thế, phân lượng dài, ngắn, rộng,
hẹp và vật tượng trưng nơi cửa ngoài đều tương xứng với Trung Thai, hàm ý mỗi
một pháp môn của Như Lai đều tương xứng với pháp giới, thậm chí chẳng có mảy
may tăng giảm. Lại còn phù hợp với Trung Đạo được hành, khế hợp tâm Thật Tướng
của Liên Hoa Đài. Dấu tích Phổ Môn đã xa lại càng rộng. Vì thế nói: “Trí
giả ư ngoại viện, tiệm thứ nhi tăng gia” (Nơi ngoại viện, người có trí
lần lượt tăng thêm).
Kệ
nói: “Lược thuyết Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ư duyên” (lược nói
Tam-ma-địa, nhất tâm trụ nơi duyên). Từ đây trở đi, giải đáp đại lược về chi phần
tam-muội trong Mạn-đồ-la. Nếu là người chưa tu Du Già, chẳng được làm A-xà-lê,
do thiếu khuyết chi phần, pháp sự sẽ chẳng thành được! Kinh đã giải thích sơ
lược ý nghĩa của danh hiệu tam-muội; kế đó, sẽ nói sâu rộng hơn. Trước hết,
giải thích sơ lược thì là “tâm duyên chắc nơi một cảnh, chẳng rong
ruổi, tán loạn”. Đó là ý nghĩa Đẳng Trì. Vì thế, kệ nói: “Lược
thuyết Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ư duyên”.
Xét
theo hữu tướng Du Già, bèn có ba loại thượng, trung, hạ. Thượng là quán các
thân của chư vị Như Lai như Tỳ Lô Giá Na v.v… Trung là quán thân Bồ Tát như Văn
Thù Sư Lợi v.v… Hạ là quán thân của từng loại chúng sanh như Nhân Đà La (Indra,
Đế Thích) v.v… Đối với mỗi một điều được biểu thị trong Mạn-đồ-la, như sắc
tượng, oai nghi, các biểu trưng bí mật, hoặc ấn, hoặc chữ [chủng tử], chỉ nên
nhất tâm trụ duyên, chẳng còn để tâm rong ruổi, tán loạn. Đấy chính là môn
tam-muội của vị tôn thánh ấy. Nói tóm gọn, mỗi một vị thiện tri thức [trong các
vị thiện tri thức] nhiều như số vi trần trong cõi Phật thuộc Mạn-đồ-la hải hội,
đều là một loại tam-muội môn để nhập pháp giới. Nếu quán chung đại chúng phổ
môn như thế, nhất tâm trụ trong duyên chẳng rong ruổi, tán loạn, tức là môn Phổ
Nhãn tam-muội, cũng gọi là môn Phổ Môn Thế Giới tam-muội. Như một môn và hết thảy
các môn, hoặc chỉ nhập môn tam-muội thuộc Chánh Biến Tri Bộ, hoặc chỉ nhập môn
tam-muội thuộc Liên Hoa Bộ, hoặc chỉ nhập môn tam-muội thuộc Kim Cang Bộ, hoặc
dùng Văn Thù Quyến Thuộc Phổ Giai Tập Hội (tất cả các vị tôn thánh thuộc Văn
Thù Viện) làm một môn tam-muội. Đối với ba vị Bồ Tát kia cũng thế; tùy thuộc
tâm lượng của hành nhân lớn hay nhỏ, các thứ bất đồng.
Hành
giả tu tập Du Già, hoặc quán Bổn Tôn, hoặc quán ấn bí mật, hoặc là lúc quán
chân ngôn, có đủ loại cảnh giới hiện tiền; [nếu các cảnh giới ấy] chẳng giống
với bổn quán (phép quán chính mình đang tu tập), thì đều là tà quán. Như ở
trong Định, hoặc thấy mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao quang minh chói ngời,
hoặc là thấy đại liên hoa vương trọn khắp không trung, hoặc thấy cây báu, lầu
gác thù thắng trang nghiêm giống như cung trời và các cõi tịnh, hoặc lại bỗng
dưng chẳng còn thấy có tướng thân tâm, hoặc thấy chư Phật, Bồ Tát, vô lượng đại
chúng, hoặc nghe đủ loại tiếng lạ, hoặc thấy vách núi dốc ngược, cho tới địa
ngục Vô Gián, do chẳng thuận theo điều ta vốn duyên theo, thì đều chớ nên giữ
lấy. Chỉ nên nhất tâm nhất ý như thường. Tuy đạt được định cảnh tương ứng, cần
phải quán sát sâu xa mười câu duyên sanh, chớ nên đắm chấp. Nếu thấy cảnh giới
khác lạ mà ngỡ là nhiệm mầu, thù thắng, chấp trước vào đó, sẽ gọi là Ngã Mạn
Định, cũng gọi là Xan Chấp Định (môn Định do keo tham, chấp trước). Chỉ khi nào
tương ứng với chánh quán, tự nhiên sẽ được thấy câu-chi cõi Phật, Phật trong ấy
sẽ là trăm ngàn vị, cõi nước thuộc mặt Sự chính là cõi tịnh. Khi tương ứng như
thế, sẽ biết các thứ sự tướng từ trước tới nay chẳng phải là không có nhân
duyên. Do nhân duyên như thế mà có sự tướng như thế, chẳng do điều gì khác mà
ngộ, chẳng vướng mắc!
Lại
giải thích theo ý nghĩa sâu xa, bí mật. Trong tướng chân thật nơi pháp môn của
mỗi vị thiện tri thức, tâm trụ trong duyên, chẳng sanh vọng tưởng, hý luận. Đó
chính là ý nghĩa Đẳng Trì. Như nhập nhất niệm pháp giới thuộc môn chữ A thì
chính là Tỳ Lô Giá Na tam-muội. Nhất tâm bất loạn nơi pháp Liên Hoa Ấn, đó là
tam-muội của ngài Quán Tự Tại. Nhất tâm bất loạn trong Kim Cang huệ ấn thì là
tam-muội của Bí Mật Chủ. Cho đến các vị tôn thánh như Phạm vương, Đế Thích, mỗi
vị đều được tự tại trong một pháp giới môn. Nếu trong thân giải thoát ấy mà một
duyên chẳng loạn, mỗi pháp ấy chính là Tịnh Thiên Nhãn tam-muội. Nếu nhất tâm
bất loạn trong Đại Bi Tạng Vân Hải thì gọi là Phổ Nhãn tam-muội, cũng gọi là
Phổ Hiện Sắc Thân tam-muội. Giả sử Như Lai trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp diễn
nói nghĩa rộng trong ấy, vẫn chẳng cùng tận! Nay muốn dùng hai câu kệ để thâu
nhiếp rốt ráo chẳng còn sót [các ý nghĩa ấy], nên nói: “Quảng nghĩa
phục thù dị, đại chúng sanh đế thính” (Nghĩa rộng lại sai khác, Đại
Chúng Sanh[18] lắng
nghe). Ở trong đó, lại có hai điều:
-
Thứ nhất là nói về Như Lai tam-muội ấn.
-
Kế đó là nói về ấn sai biệt trong tam-muội đạo.
Kệ
nói: “Phật thuyết nhất thiết Không” (Phật nói hết thảy Không),
tức là nhập môn chữ A. Cho đến chẳng có chút pháp nào để có thể đạt được, cũng
chẳng có tướng nhất định để có thể gọi là tam-muội. Trụ trong nhất tâm pháp
giới như thế, gọi là “Chánh Giác chi Đẳng Trì”. Do lẽ nào vậy?
Nếu ở ngoài tâm tánh này mà có cảnh giới để có thể duyên theo, tức chẳng phải
là cảnh thường trụ, bị tứ tướng (sanh, trụ, hoại, diệt) đổi dời, cái tâm “thời,
trụ, duyên” cũng lưu chuyển theo cảnh giới, sao có thể gọi là Định cho
được?
Do
vậy, chánh giác tam-muội giác ngộ “các pháp vốn chẳng sanh”, chỉ là
tâm tự chứng tâm, tâm tự biết tâm, từ lâu xa tới nay, thường như Thật Tế chẳng
đổi dời. Tức là dùng cái tâm như thế để trụ trong cái duyên như thế; vì vậy,
được gọi là Đẳng Trì. Đây chính là Bổn Tôn Tỳ Lô Giá Na hiển hiện tạng trang
nghiêm vô tận, cũng chẳng lìa Bổn Tôn như thế. Nếu quán khác đi, sẽ đều gọi
là “tà quán”. Vì thế, nói chắc chắn rằng: “Tam-muội
duy chứng tâm, phi tùng dị duyên đắc” (tam-muội chỉ chứng tâm, chẳng
từ duyên nào khác mà đạt được). Nếu dựa theo bản tiếng Phạn để nói, phải nên
nói là “bỉ cánh vô dị đắc” (điều đó lại chẳng do điều gì khác
mà đạt được). Ý nói: Chẳng còn từ các chỗ khác mà đạt được!
Kế
đó nói: “Bỉ như thị cảnh giới, nhất thiết Như Lai định” (cảnh
giới như thế đó là Định của hết thảy các Như Lai), như kinh Đại Bát Niết Bàn đã
nói “hết thảy người có tâm thì đều có Phật Tánh”. Phật Tánh ấy
được gọi là Thủ Lăng Nghiêm Định, cũng gọi là Kim Cang tam-muội, cũng gọi là
Bát Nhã Ba La Mật. Phật Phật đạo đồng, trọn chẳng có đường nào khác. Nếu hành
nhân khi sơ phát tâm, có thể chánh quán tâm tánh đúng như lời dạy, thì cũng gọi
là “nhập Như Lai Định”, há có phải là nhọc công dần dần vượt
thoát tứ xứ (thân, thọ, tâm, pháp) thì mới đạt đến rốt ráo ư?
Lại
nữa, hành nhân Du Già nếu được oai thần của chư Phật gia bị, thậm chí trong
tam-muội thấy trọn vô lượng ba loại mật ấn của vô lượng các vị tôn thánh chẳng
xen tạp, số nhiều như vi trần trong mười cõi Phật, hoặc lại nhất tâm bất loạn
chuyển [các mật ấn ấy] thành tự thân. Tuy là lạ lùng, đặc biệt, khó nghĩ tưởng,
vẫn là hữu tướng, hữu duyên, nên gọi là “thế gian tam-muội”. Nếu
lúc tam-muội ấy hiện tiền, hành giả quan sát mười câu duyên sanh, trừ sạch hết
thảy vọng tưởng, hý luận, và tương ứng không tịch, liền ngộ Mạn-đồ-la hải hội
như thế đều sanh từ các duyên, như bóng trong gương, trăng trong nước, thành
Càn Thát Bà v.v… Quán vô tánh tướng, được gọi là xuất thế gian tam-muội; nhưng
vẫn còn chứng bệnh Chấp Không chưa thể sạch hết, chẳng thể gọi là Đại Không.
Đến khi ngồi đạo tràng, tự chứng tâm tánh, liền biết cảnh giới gia trì là như
thế đó đều là Thật Tế của cái tâm. Lúc bấy giờ, tâm chẳng trụ vào tướng, mà
cũng chẳng nương vào Không, chiếu kiến Không và Bất Không rốt ráo vô tướng, mà
trọn đủ hết thảy các tướng. Vì thế gọi là Đại Không tam-muội. Trụ trong
tam-muội ấy, tức là trụ trong vô ngại huệ của Phật, đức Phật nói người ấy “trí
Nhất Thiết Trí rốt ráo viên mãn”. Do vậy, kinh nói: “Cố thuyết
vi Đại Không, viên mãn Tát Bà Nhã” (nên nói là Đại Không, viên mãn Tát
Bà Nhã).
(Kinh)
Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn dữ nhất thiết chư Phật đồng cộng tập hội, các
các tuyên thuyết nhất thiết Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tam-muội đạo. Thời
Phật nhập ư Nhất Thiết Như Lai Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội. Ư thị, Thế Tôn
phục cáo Chấp Kim Cang Bồ Tát ngôn:
(經)爾時毘盧遮那世尊與一切諸佛同共集會,各各宣說一切聲聞、緣覺、菩薩三昧道。時佛入於一切如來一體速疾力三昧,於是世尊復告執金剛菩薩言:
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn và hết thảy chư Phật cùng nhau nhóm họp, mỗi
vị tuyên nói hết thảy đạo tam-muội của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Khi đó,
đức Phật nhập trong Nhất Thiết Như Lai Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội. Ngay khi
đó, đức Thế Tôn lại bảo Chấp Kim Cang Bồ Tát rằng).
Đầu
quyển hai của chánh kinh, có nói: “Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn dữ
nhất thiết chư Phật đồng cộng tập hội, các các tuyên thuyết nhất thiết Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tam-muội đạo” (Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế
Tôn và hết thảy chư Phật cùng nhau nhóm họp, mỗi vị tuyên nói hết thảy đạo
tam-muội của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát): Đức Như Lai đã nói ba loại Không
tam-muội ấn rốt ráo, vì khiến cho trọn khắp những kẻ tiến nhập sẽ chẳng có
chướng nạn, lại nói các thứ ấn sai biệt trong đạo tam-muội. Các thứ hình loại
được chỉ bày trong ba tầng Mạn-đồ-la đều là một loại thân pháp môn của Như Lai.
Do vậy, đều gọi là Phật. Hết thảy các đức Phật ấy, vị nào cũng đều từ trong
pháp môn do chính mình tự lưu thông mà tự nói đạo tam-muội ấy. Nếu hiện thành
thân các vị trời trong thế gian, bèn nói đạo tam-muội của các vị trời ấy. Nếu
hiện thân Thanh Văn, bèn nói đạo tam-muội của Thanh Văn. Nếu hiện thân Bích Chi
Phật, bèn nói đạo tam-muội của Bích Chi Phật. Nếu hiện thân Bồ Tát, bèn nói đạo
tam-muội của Bồ Tát. Nếu hiện thân Trì Kim Cang, bèn nói đạo tam-muội của Kim
Cang. Hãy nên biết kệ tụng trong ấy nhiều như số vi trần trong vô lượng cõi,
kinh quyển được kết tập trong thế gian chẳng thể chép trọn! Nhưng nếu khi các
hành nhân thâm nhập cảnh giới Du Già tam-muội, sẽ tự nghe rõ rành rành, chẳng
khác gì như được trực tiếp bảo ban. Do lẽ ấy mà nói là “ngày được Phật
gia trì”.
Kinh
chép “thời, Phật nhập ư Nhất Thiết Như Lai Nhất Thể Tốc Tật Lực
tam-muội” (khi đó, đức Phật nhập Nhất Thiết Như Lai Nhất Thể Tốc Tật
Lực tam-muội), tức là khi nhập tam-muội ấy, sẽ chứng biết “hết thảy Như
Lai đều cùng là một pháp giới trí thể”. Trong một niệm, có thể theo
thứ tự quán sát các môn tam-muội nhiều như số vi trần trong vô lượng thế giới
hải, biết ngần ấy chúng sanh như thế, trong mỗi môn tam-muội này hoặc môn
tam-muội nọ đáng nên nhập đạo, biết vị thiện tri thức ấy đã vì ngần ấy chúng
sanh tạo nhân duyên chủng tử, chưa vì ngần ấy chúng sanh tạo nhân duyên chủng
tử, hoặc có chúng sanh nhập pháp môn như thế nên có thể siêu thăng thành Phật,
nhập các pháp môn khác dằng dai đã lâu mà chưa thể thành Phật. Các loại căn
tánh bất đồng như thế, phương tiện để tiến nhập cũng đều khác nhau, thậm chí du
hý trong ấy, theo thứ tự tu tập, xuất nhập siêu thế gian, trong mỗi một môn,
đều có thể thành tựu vô lượng chúng sanh. Vì thế gọi là Nhất Thể Tốc Tật Lực
tam-muội.
(Kinh)
Ngã tích tọa đạo tràng, hàng phục ư tứ ma, dĩ Đại Cần Dũng thanh, trừ chúng
sanh bố úy. Thị thời Phạm Thiên đẳng, tâm hỷ cộng xưng thuyết, do thử chư thế
gian, hiệu danh Đại Cần Dũng. Ngã giác bổn bất sanh, xuất quá ngữ ngôn đạo. Chư
quá đắc giải thoát, viễn ly ư nhân duyên, tri không đẳng hư không, như Thật
Tướng trí sanh, dĩ ly nhất thiết ám, đệ nhất Thật vô cấu. Chư thú duy tưởng
danh, Phật tướng diệc phục nhiên. Thử đệ nhất Thật Tế, dĩ gia trì lực cố, vị độ
ư thế gian, nhi dĩ văn tự thuyết.
(經)我昔坐道場,降伏於四魔,以大勤勇聲,除眾生怖畏,是時梵天等,心喜共稱說,由此諸世間,號名大勤勇。我覺本不生, 出過語言道,諸過得解脫,遠離於因緣,知空等虛空,如實相智生,已離一切暗,第一實無垢。諸趣唯想名,佛相亦復然,此第一實際, 以加持力故,為度於世間, 而以文字說。
(Kinh:
Ta đã ngồi đạo tràng, hàng phục bốn loại ma, dùng tiếng Đại Cần Dũng, trừ chúng
sanh sợ hãi. Khi đó, Phạm Thiên thảy, tâm mừng, cùng khen nói. Do vậy các thế
gian, gọi ta Đại Cần Dũng. Ta giác “vốn bất sanh”, vượt ngoài các ngôn thuyết.
Được giải thoát các lỗi, xa lìa nơi nhân duyên, biết Không như hư không, như
Thật Tướng trí sanh, đã lìa hết thảy tối, đệ nhất Thật vô cấu. Các đường chỉ là
tưởng, tướng Phật cũng như thế. Đệ nhất Thật Tế ấy, do vì sức gia trì, vì hóa
độ thế gian, bèn dùng văn tự nói).
Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn quán trọn khắp xong, biết rõ các loại tam-muội đạo cùng
quy vào một Thể là Phật thừa, lại vì ngài Chấp Kim Cang nói Bồ Đề ấn trong hết
thảy các tam-muội đạo. Trước hết, có hai bài kệ nói về dấu tích thành Phật được
thị hiện bên ngoài, bảo: Ta thoạt đầu ngồi đạo tràng, do Nhất Thể Tốc Tật Lực
tam-muội này, hàng phục quân chúng của thiên ma. Nhưng trong ấy, lại có chỗ khó
hàng phục, tức là các loại ma phiền não v.v… chẳng có hình tướng, nơi chốn, mà
cũng chẳng có dấu vết, khó thể hay biết. Trong một niệm, cũng thảy đều diệt
mất. Vì thế nói là “hàng phục tứ ma”. “Dĩ Đại Cần Dũng thanh” (dùng
âm thanh Đại Cần Dũng), nghĩa là đức Phật dùng lời thành thật bảo ma Ba
Tuần: “Ta trong vô lượng vô số kiếp, vì điều phục chúng sanh, vứt bỏ
thân mạng chẳng thể tính đếm, nên nay đã thành tựu. Do có cơ hội nhập đạo, ta
sắp chứng Bồ Đề, mở mắt thanh tịnh cho các chúng sanh ấy, ngươi có thế lực gì
mà gây trở ngại ư?” Khi đức Phật vừa thốt ra lời ấy, hết thảy nỗi sợ
hãi của chúng sanh đều trừ, thiên ma mê muội, ngã lăn ra đất, lập tức lui tan.
Nếu có chúng sanh thọ trì ấn tam giác (Nhất Thiết Chánh Biến Tri Ấn) như thế,
thậm chí trừ được vô lượng nỗi sợ hãi trong địa ngục Vô Gián, huống hồ nỗi sợ
hãi đối với thiên ma, quỷ thần v.v… ư? Vì thế nói: “Dĩ Đại Cần Dũng
thanh, trừ chúng sanh bố úy” (dùng tiếng Đại Cần Dũng, trừ chúng sanh
sợ hãi). Lúc bấy giờ, địa thần hoan hỷ, xoay vần xưng nói, cho đến tiếng thấu
tận cõi trời Tịnh Cư. Lúc đó, tám bộ chúng sanh như Đại Phạm Thiên v.v… chỉ
thấy dấu tích hàng phục ma bề ngoài. Vì vậy, tiếng tăm [của đức Phật] rền khắp,
được tôn xưng là bậc Đại Cần Dũng, nhưng đối với chỗ ta thật sự thành Phật, họ
sẽ chẳng thể suy lường. Do vậy, kế đó, có hai bài kệ nêu ra thật nghĩa Bồ
Đề: “Ngã giác bổn bất sanh”, tức là giác “tự tâm vốn
bất sanh”, nghĩa là “thành Phật mà thật sự chẳng giác, chẳng
thành”. Hết thảy chúng sanh chẳng hiểu “thường tịch diệt” như
thế, do suy tưởng phân biệt bèn hư vọng nói là “có sanh”, luân
hồi trong sáu nẻo, chẳng thể tự thoát! Nay tuy nghe âm thanh chánh pháp, vẫn
suy tìm, so đo, mong mỏi thành Phật trong đủ loại hình tích, trong sự tướng hữu
vi, há đắc lý ư?
“Xuất
quá ngôn ngữ đạo” (vượt thoát khỏi nói năng), từ đây trở đi đều nhằm
diễn giải môn chữ A. Giác “vốn bất sanh” chính là pháp mà chư Phật đều tự
chứng, chẳng do suy lường, phân biệt mà có thể thấu đạt, cũng chẳng thể truyền
trao cho người khác. Trí Độ Luận nói “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ
diệt”. “Chư quá đắc giải thoát” (được giải thoát các lỗi): Hết thảy
vọng tưởng phân biệt được gọi là Quá (lỗi lầm), tức là đủ loại hý luận như
sanh, diệt, đoạn, thường, đến đi, một, khác v.v… Do chẳng biết Thật Tướng của
các pháp, thảy đều có thể phá, có thể chuyển. Nếu thấu hiểu “các pháp
vốn vô sanh”, sẽ liền được giải thoát hết thảy lầm lỗi như thế. Do
vậy, thân Kim Cang xa lìa bách phi.
“Viễn
ly chư nhân duyên” (xa lìa các nhân duyên): Nếu cái Thể của pháp giới
có tướng sanh diệt, tức là có nhân duyên để có thể tuyên nói. Nhưng nay do pháp
sanh từ duyên, nên chẳng có tự tánh. Nếu chẳng có tự tánh, tức là vốn sẵn chẳng
sanh. Khi nhân duyên hòa hợp thì cũng chẳng có gì được dấy lên; khi nhân duyên
ly tán thì cũng chẳng có gì chấm dứt. Vì thế, như hư không thanh tịnh, thường
chẳng thay đổi. Đại Kinh[19] cũng nói “chỉ có Như
Lai lìa các nhân duyên”. “Tri không đẳng hư không” (biết
Không giống như hư không): “Vốn bất sanh” chính là nghĩa Tất
Cánh Không, do tự tánh thanh tịnh, không có thời hạn, vô phân biệt, giống như
thái hư. Vì thế, để thế gian dễ hiểu, dùng hư không để sánh ví Bất Tư Nghị
Không.
“Như
Thật Tướng trí sanh”: Thật Tướng của cái tâm chính là Tỳ Lô Giá Na trọn
khắp hết thảy mọi nơi. Khi đức Phật ngồi đạo tràng, hiểu đúng như pháp tướng,
các thứ kiến giải chẳng như thật thảy đều diệt sạch, chẳng còn sót thừa. Vì
thế, trí huệ Tát Bà Nhã giống như hư không. “Dĩ ly nhất thiết ám” (do
lìa hết thảy tối tăm): Trong hết thảy các pháp tướng mà chẳng biết như thật thì
tức là vô minh. Vì thế, khi giác “vốn bất sanh”, tức là sanh ra sự sáng suốt
trọn khắp pháp giới. Dùng hết thảy các loại quán để quán hết thảy các pháp,
không gì chẳng thấy, nghe, hay, biết. “Đệ nhất Thật vô cấu”: Đó
chính là sự thật chân thật nhất, không chi hơn được nữa, được gọi là Đệ Nhất
Thật Tế. Tức là nói cái tâm tự tánh thanh tịnh, do lìa hết thảy tối tăm, tri
kiến của Phật chẳng còn cấu ô. [Những điều vừa nói trên đây] đều nhằm diễn giải
ý nghĩa “bất sanh”.
Kế
đó, có hai câu kết luận: “Chư thú duy tưởng danh, Phật tướng diệc phục
nhiên” (Các đường luân hồi chỉ do tâm tưởng mà có danh xưng, Phật
tướng cũng lại giống như thế), ý nói: Chúng sanh trong sáu đường và Tỳ Lô Giá
Na Phật vốn chẳng có hai Thể, chỉ thuận theo đủ loại vọng tưởng của chúng sanh
mà lập ra đủ loại tên gọi. Phật cũng như thế, hết thảy thế gian chỉ thấy dấu
tích “ta hàng ma thành đạo, phương tiện độ người”, bèn thuận
theo tâm tướng của họ mà xưng nói, hoặc nói là Đại Sa Môn, hoặc nói là Đại Cần
Dũng, thậm chí như kinh Hoa Nghiêm đã nói “trong một thế giới có vô
lượng tên gọi khác nhau”, chẳng phải là nói “trong pháp tự chứng mà có
thể diễn nói để biểu thị được!”
Bài
kệ kế tiếp lại giải thích theo ý nghĩa thông với Thế Đế, nhằm nêu rõ nguyên do
khởi giáo. Do vậy nói: “Thử đệ nhất Thật Tế, dĩ gia trì lực cố, vị độ
chư thế gian, nhi dĩ văn tự thuyết” (Đệ nhất Thật Tế này, do bởi sức
gia trì, vì độ các thế gian, bèn dùng văn tự nói), tức là dùng Phật nhãn để
quán: Các thứ danh tướng, ngôn từ như thế lại chẳng ra ngoài Đệ Nhất Thật Tế,
nhưng chúng sanh nhập đạo có đủ loại nhân duyên bất đồng. Nếu là kẻ đáng nên
dùng văn tự, ngôn ngữ để đắc độ, Như Lai sẽ chẳng lìa Thật Tế, dùng thần lực tự
tại để gia trì các âm thanh, câu chữ này nọ để diễn nói. Nếu chúng sanh đúng
như pháp tu hành, khi được tương ứng với Tam Mật, sẽ biết Thế Đế chẳng khác Đệ
Nhất Nghĩa Đế.
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang cụ đức giả, đắc vị tằng hữu khai phu nhãn, đảnh lễ Nhất
Thiết Trí, nhi thuyết kệ ngôn:
(經)爾時執金剛具德者得未曾有開敷眼,頂禮一切智而說偈言。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang là bậc trọn đức, đạt được mắt nở bừng chưa từng có,
đảnh lễ đấng Nhất Thiết Trí mà nói kệ rằng).
“Cụ
đức” tức là trọn đủ hết thảy các đức trang nghiêm bí mật của Như Lai.
Như hoa sen khi tăng trưởng đủ mức, được ánh nắng mặt trời chiếu, tự nhiên nở
xòe đoan nghiêm, đáng yêu. Ngài Chấp Kim Cang cũng thế, mắt hoa sen nơi
tâm gặp quang minh từ ấn Bồ Đề, rạng ngời nở xòe, muôn đức đều trọn vẹn, đẹp
đẽ, thông suốt bên trong, tỏ lộ ra ngoài, cũng có tướng mắt hoa sen xanh nở
xòe, bèn nói già-đà [để trần thuật] sự lãnh ngộ ý chỉ trên đây.
(Kinh)
Chư Phật thậm hy hữu, Quyền Trí bất tư nghị, ly nhất thiết hý luận, chư Phật tự
nhiên trí, nhi vị thế gian thuyết, mãn túc chúng hy nguyện, chân ngôn tướng như
thị, thường y ư Nhị Đế. Nhược hữu chư chúng sanh, tri thử pháp giáo giả, thế
nhân ưng cúng dường, do như kính chế-để.
(經)諸佛甚希有,權智不思議,離一切戲論,諸佛自然智,而為世間說,滿足眾希願,真言相如是,常依於二諦。若有諸眾生,知此法教者,世人應供養,猶如敬制底。
(Kinh:
Chư Phật rất hy hữu, Quyền Trí chẳng nghĩ bàn, lìa hết thảy hý luận, chư Phật
tự nhiên trí, mà vì thế gian nói, trọn thỏa các mong cầu. Tướng Chân Ngôn như
thế, thường nương vào Nhị Đế. Nếu có các chúng sanh, hiểu biết pháp giáo ấy,
người đời nên cúng dường, ví như kính tháp miếu).
Trước
hết nói: “Chư Phật thậm hy hữu, Quyền Trí bất tư nghị” (Chư
Phật rất hy hữu, Quyền Trí chẳng nghĩ bàn). Nếu theo bản đầy đủ trong tiếng
Phạn, phải nên nói là “trí phương tiện hy hữu chẳng thể nghĩ bàn của
hết thảy chư Phật”. “Trí” là nói tới sự lãnh ngộ “giác vốn bất sanh”
trong bài kệ thuộc phần trước, “phương tiện” là nói lãnh giải
thần lực gia trì trong bài kệ trước đó. Lại nữa, “trí” là đài
hoa sen trọn đủ nơi tâm, “phương tiện” là cánh sen, tua nhị nở
xòe. Hai loại đều chẳng thể nghĩ bàn, nên nói là “hy hữu”.
Kế
đó nói: “Ly nhất thiết hý luận, chư Phật tự nhiên trí” (trí tự
nhiên của Phật lìa hết thảy các hý luận), tức là rộng tán thán trí chẳng thể
nghĩ bàn. “Nhi vị thế gian thuyết, mãn túc chúng hy nguyện” (mà
vì thế gian nói, trọn đủ các mong nguyện) chính là rộng tán thán phương tiện
chẳng thể nghĩ bàn. Nếu pháp do nương vào thầy mà đắc, tức là sanh từ các nhân
duyên, chính là tướng hý luận sanh diệt, chẳng phải là pháp tánh, [chẳng phải
là] trí huệ tự nhiên của Phật. Nếu là trí huệ tự nhiên, sẽ chẳng do tu học mà
có thể đạt được, cũng chẳng thể truyền dạy cho người khác! Như vị cam lộ cõi
trời nội chứng, giả sử dùng đủ loại phương tiện để diễn nói cho kẻ chưa từng
nếm trải, kẻ đó trọn chẳng thể hiểu được! Nhưng Phật có sức đại phương tiện,
dùng vô tướng Pháp Thân để làm đủ loại danh tướng gia trì, khiến cho các chúng
sanh dùng pháp nhân quả để chứng đắc pháp “chẳng phải nhân, chẳng phải
quả”. Vì thế, Quyền Huệ và Thật Huệ đều chẳng thể nghĩ bàn!
Kế
đó nói: “Chân Ngôn tướng như thị, thường y ư Nhị Đế” (tướng
Chân Ngôn như thế, thường nương vào Nhị Đế), nhằm kết lại [ý nghĩa] “hai trí
chẳng thể nghĩ bàn”, lãnh ngộ ý nghĩa lập bày Nhị Đế trong kinh văn thuộc phần
trên. Do biết danh tướng chính là Thật Tế, có thể dùng Thật Tế để gia trì, tạo
thành danh tướng. Do biết “nông cạn, sơ lược” chính là “sâu xa, bí mật”, có thể
biến “sâu xa, bí mật” thành “nông cạn, sơ lược”, tùy thuận nghĩa lợi do chúng
sanh thành tựu đều là chân thật, chẳng dối. Nếu khi có thể hiểu Thế Đế, sẽ tự
thông đạt Đệ Nhất Nghĩa Đế. Vì thế nói “chư Phật thuyết pháp thường
nương vào Nhị Đế”.
Kế
đó, có một bài kệ nhằm nói rõ: Tin hiểu Bồ Đề ấn của Phật, sẽ đắc vô lượng khối
phước. Vì thế nói: “Nhược hữu chư chúng sanh, tri thử pháp giáo giả,
thế nhân ưng cúng dường, do như kính chế-để” (nếu có các chúng sanh,
hiểu biết pháp giáo này, người đời nên cúng dường, ví như kính tháp miếu).
Chế-để (Caitya) là chỗ để nương vào của sanh thân xá-lợi. Do vậy, chư thiên và
người đời, kẻ có phước, đều nên cúng dường. Nếu hành nhân tin nhận nghĩa như
thế, tức là chỗ nương vào của Pháp Thân xá-lợi, kham nhận hết thảy thế gian cúng
dường, cung kính. Hơn nữa, Chế-để trong tiếng Phạn có bản thể giống như Chất-đa
(Citta, tâm), trong ấy nói bí mật sẽ là “tâm là tháp Phật”. Như
đệ tam Mạn-đồ-la, dùng tự tâm làm nền, theo thứ tự tăng thêm, cho tới màu sắc
của Trung Thai Niết Bàn là tột đỉnh. Do vậy, Chế-để rất cao. Lại từ Trung Thai
Bát Diệp, theo thứ tự tăng thêm, cho đến loại thứ ba là tùy loại phổ môn thân,
không chỗ nào chẳng trọn khắp. Do vậy, Chế-để cực rộng. Liên hoa đài Đạt Ma Đà
Đô (Dharmadhatu, pháp giới) được gọi là Pháp Thân xá-lợi. Nếu chúng sanh hiểu
ấn Bồ Đề nơi tâm này, tức là giống như Tỳ Lô Giá Na Phật. Vì thế nói: “Thế
gian ưng cúng dường, như kính Chế-để” (thế gian nên cúng dường như
kính trọng Chế-để).
(Kinh)
Thời Chấp Kim Cang thuyết thử kệ dĩ, đế quán Tỳ Lô Giá Na, mục bất tạm thuấn,
mặc nhiên nhi trụ.
(經)時執金剛說此偈已,諦觀毘盧遮那目不暫瞬,默然而住。
(Kinh:
Khi đó, ngài Chấp Kim Cang nói bài kệ ấy xong, quán kỹ đức Tỳ Lô Giá Na, mắt
chẳng tạm nháy, đứng lặng yên).
Khi
đó, ngài Chấp Kim Cang đã được nghe Tất Cánh tam-muội ấn, muốn hỏi sai biệt ấn
trong tam-muội đạo. Nếu dùng lời lẽ để bạch cùng đức Phật, sợ trái nghịch lý
tột cùng; do vậy, lặng thinh quán Phật, nhất tâm mà đứng. Đó chính là thưa hỏi
nghĩa rất sâu! Lại nữa, ngài Chấp Kim Cang đứng lặng yên, nhằm muốn biểu thị ý
nghĩa “Như Lai chiếu soi căn cơ”. Như giáo pháp thông thường
đã nói: Trong ba thời của ngày đêm, đức Phật quán sát chúng sanh có thể hóa độ
mà độ thoát họ. Đấy là thuận theo tâm lượng của Thanh Văn mà tự nói như thế.
Nếu dùng Phật nhãn để quán rồi thấy, [đâm ra]: Chẳng quán sẽ chẳng thấy. Hễ
quán thì trí huệ sanh; chẳng quán, trí huệ chẳng sanh ư? Đó chính là cảnh “sanh
diệt, sáng tối”, chẳng thể gọi là đại huệ bình đẳng! Do trí huệ vô tướng, vô
phân biệt của Như Lai vốn sẵn vô ngại, thường chiếu pháp giới, căn, duyên, như
sóng trong biển cả trọn chẳng vượt quá mức hạn. Vì thế, do ngài Kim Cang Thủ
vừa khéo là căn cơ để có thể truyền dạy, Như Lai lập tức diễn nói, chẳng đợi
hỏi rồi mới đáp! Hơn nữa, ngài Kim Cang Thủ biết Thế Đế tức là Đệ Nhất Nghĩa
Đế, sở hành xứ chẳng khác tất cánh xứ; vì thế, im lặng chẳng nói. Như Lai đã
biết rõ “Đệ Nhất Nghĩa Đế tức là Thế Đế, tất cánh xứ chẳng khác sở hành
xứ”. Vì thế, rộng nói phân biệt. Vì khiến cho chúng sanh thông đạt
tướng Nhị Đế, lại nêu tỏ, nhưng thật ra là cùng quy vào nhất trí.
(Kinh)
Ư thị, Thế Tôn phục cáo Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Phục thứ, Bí Mật Chủ! Nhất
Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ Phật địa tam-muội đạo, ly ư tạo tác, tri thế gian tướng,
trụ ư nghiệp địa, kiên trụ Phật địa. Phục thứ Bí Mật Chủ! Bát Địa tự tại Bồ Tát
tam-muội đạo, bất đắc nhất thiết chư pháp, ly ư hữu sanh, tri nhất thiết huyễn
hóa. Thị cố, thế xưng Quán Tự Tại giả. Phục thứ, Bí Mật Chủ! Thanh Văn chúng
trụ hữu duyên địa thức sanh, diệt trừ nhị biên, cực quán sát trí, đắc bất tùy
thuận tu hành nhân. Thị danh Thanh Văn tam-muội đạo. Bí Mật Chủ! Duyên Giác
quán sát nhân quả, trụ vô ngôn thuyết pháp, bất chuyển vô ngôn thuyết, ư nhất
thiết pháp, chứng cực diệt ngữ ngôn tam-muội. Thị danh Duyên Giác tam-muội đạo.
Bí Mật Chủ! Thế gian nhân quả cập nghiệp, nhược sanh, nhược diệt, hệ thuộc tha
chủ, không tam-muội sanh. Thị danh thế gian tam-muội đạo.
(經)於是世尊復告執金剛祕密主言:復次祕密主!一生補處菩薩住佛地三昧道,離於造作,知世間相住於業地,堅住佛地。復次祕密主!八地自在菩薩三昧道,不得一切諸法,離於有生,知一切幻化,是故世稱觀自在者。復次祕密主!聲聞眾住有緣地識生,滅除二邊,極觀察智,得不隨順修行因,是名聲聞三昧道。祕密主!緣覺觀察因果,住無言說法,不轉無言說,於一切法證極滅語言三昧,是名緣覺三昧道。祕密主!世間因果及業,若生若滅,繫屬他主,空三昧生,是名世間三昧道。
(Kinh:
Khi ấy, đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lại này Bí Mật Chủ!
Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ trong đạo tam-muội thuộc Phật địa, lìa các tạo tác,
biết tướng thế gian, trụ nơi nghiệp địa, trụ vững nơi Phật địa. Lại này Bí Mật
Chủ! Bát Địa tự tại trong đạo tam-muội của Bồ Tát, chẳng đạt được hết thảy các
pháp, lìa hữu sanh, biết hết thảy là huyễn hóa. Vì thế, cõi đời gọi là bậc Quán
Tự Tại. Lại này, Bí Mật Chủ! Các Thanh Văn trụ trong địa vị hữu duyên, thức
sanh, diệt trừ nhị biên, trí quán sát tột bậc, đạt được chẳng tùy thuận cái
nhân tu hành. Đó gọi là đạo tam-muội của Thanh Văn. Bí Mật Chủ! Duyên Giác quán
sát nhân quả, trụ trong vô ngôn thuyết pháp, chẳng chuyển vô ngôn thuyết, trong
hết thảy các pháp, chứng diệt ngữ ngôn tam-muội tột bậc. Đó gọi là đạo tam-muội
của Duyên Giác. Bí Mật Chủ! Nhân quả và nghiệp thế gian dù sanh hay diệt, đều
thuộc về cái khác làm chủ, không tam-muội sanh. Đó gọi là đạo tam-muội thế
gian).
Xét
theo lời đáp của Như Lai, đại lược có bốn câu. “Phục thứ, Bí Mật Chủ!
Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ Phật địa tam-muội đạo, ly ư tạo tác, tri thế gian tướng,
trụ ư nghiệp địa, kiên trụ Phật địa” (Lại này Bí Mật Chủ! Nhất
Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ trong đạo tam-muội thuộc Phật địa, lìa các tạo tác, biết
tướng thế gian, trụ nơi nghiệp địa, trụ vững nơi Phật địa): Đấy là địa vị quán
đảnh tối thượng, nên nêu ra trước. Như các kinh khác đã nói, đấy là bậc Nhất
Sanh Sở Hệ Bồ Tát, từ đó sanh lên cung trời Đâu Suất, kế nhiệm địa vị Phật, nên
gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ. Nay trong giáo thuyết chủ yếu của kinh này, nói “nhất
sanh” tức là từ một mà sanh ra. Thoạt đầu, khi đắc Bồ Đề tâm thanh
tịnh, từ đất Nhất Thật mà sanh khởi vô lượng vô biên môn tam-muội tổng
trì. Trong mỗi địa vị như thế, theo thứ tự tăng trưởng, hãy nên biết là cũng
như thế. Khi đã viên mãn Đệ Thập Địa, chưa đạt tới Đệ Thập Nhất Địa, lúc bấy
giờ, từ cảnh giới Nhất Thật, phát sanh trọn đủ hết thảy các trang nghiêm, chỉ
còn thiếu một địa vị Như Lai là chưa chứng biết, tức là hễ chuyển pháp tánh
sanh thì chính là địa vị sẽ được bổ làm Phật. Do vậy, gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ.
Đấy là phát Bồ Đề tâm rốt ráo, trong hết thảy đạo tam-muội, sẽ là tinh tấn nhập
Phật đạo mạnh mẽ, hăng hái nhất. Do vậy nói là “trụ trong đạo tam-muội
thuộc địa vị Phật”.
“Ly
chư tạo tác” (lìa các tạo tác): “Tác” là [thực hiện]
là tu nghiệp Trị Địa, cho tới trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sanh. Do
tâm hữu trí phân biệt, vẫn là tướng thế gian. Nay vị Bồ Tát này chánh hành Đại
Không tam-muội, xa lìa hý luận vi tế nơi pháp sanh bởi các duyên, nên nói
là “lìa tạo tác”. Như đối với tướng thế gian, chính là thật sự
biết Thật Tế của thế gian rốt ráo chẳng khác Niết Bàn tế, có thể chẳng lay động
Thật Tế mà đều thấy nhân duyên vốn khởi lên của thế gian. Do vậy, trụ trong đạo
tam-muội này, niệm nào cũng tiến nhập địa vị Như Lai. “Trụ trong nghiệp
địa”: Nói theo cách giản dị trong tiếng Phạn, hãy nên nói là Tác Địa, tức
là học tập sự nghiệp Kim Cang của Như Lai đều đạt được thiện xảo. Kinh Anh Lạc
cũng nói “nhập trùng huyền môn, học Phật oai nghi”.
“Kiên
trụ Phật địa”: Kiên cố bất động đối với Như Lai thì gọi là Trụ, có ý
nghĩa khác với Trụ trong phần trước. Như người khát, cầu nước đã lâu, bỗng
trông thấy cái ao trong mát, trong ấy lại chẳng có chướng ngại, chỉ nhất tâm
tiến hướng, chẳng còn duyên theo điều nào khác. Đó gọi là “đạo tam-muội
của bậc Bổ Xứ”. Đã đạt tới cái ao trong mát, điều mong cầu đều dứt
sạch, cũng chính là Phật địa. Vì thế, tuy cùng gọi là Đại Không Định, nhưng ý
nghĩa có sai biệt.
Kinh
dạy: “Bí Mật Chủ! Bát Địa Bồ Tát tam-muội đạo, bất đắc nhất thiết chư pháp,
ly ư hữu sanh, tri nhất thiết như huyễn. Thị cố, thế xưng Quán Tự Tại giả” (Bí
Mật Chủ! Đạo tam-muội của Bát Địa Bồ Tát, chẳng đạt được hết thảy các pháp, lìa
hữu sanh, biết hết thảy như huyễn. Vì thế, cõi đời xưng là Quán Tự Tại): Đạo
của bậc Thập Địa như đã nói trên đây, nếu theo thứ tự mà tiến lên, hãy nên nói
là Phật địa. Nếu nói thấp xuống thì nên nói là Đệ Cửu Địa, cớ sao [chánh kinh]
lại nói là Đệ Bát Địa? Do hết thảy các Bồ Tát khi mới vượt khỏi Đệ Thất Địa,
trên là chẳng thấy có chư Phật để có thể cầu, dưới là chẳng thấy chúng sanh để
có thể độ, cho rằng “trụ trong Đại Niết Bàn, ngưng dứt vạn hạnh”. Khi
đó, mười phương chư Phật dùng đạo tam-muội này để phát khởi cái tâm của vị ấy,
hòng vượt khỏi chỗ khó khăn đối với Bồ Đề tâm. Vì thế nói riêng. Từ đấy, tiến
nhập Đệ Cửu Địa, sẽ chẳng nói riêng nữa! Do lỗi họa ấy khó khăn, chẳng cần phải
nói riêng hành xứ ấn. Từ sơ phát ý trở đi, quán sâu xa mười câu duyên sanh; khi
nhập địa vị này, sẽ vượt lên bờ kia Tánh Không. Vì thế nói là “bất
đắc nhất thiết chư pháp, ly ư hữu sanh” (chẳng đạt được hết thảy các
pháp, lìa hữu sanh). Lại do phương tiện thiện xảo, trong Như Như bất động, khởi
vô biên tác dụng to lớn của mười duyên sanh, dùng Như Huyễn tam-muội để tới
trọn khắp các cõi Phật trong mười phương, thân cận đủ loại thiện tri thức,
học trọn khắp vô lượng môn “độ người”, tùy thuộc chúng sanh đáng nên dùng loại
hình tượng, ngôn âm như thế nào để đắc độ, bèn đều hiện ra để vì họ thuyết
pháp. Do vậy, thế gian thấy dấu tích nơi mặt Sự như thế, bèn gọi Ngài là Quán
Thế Tự Tại Giả. Đó là tên gọi khác của Nhập Liên Hoa tam-muội.
Đối
với chữ Tự Tại ở đây, âm tiếng Phạn nếu dịch sát nghĩa, sẽ là Phú Quý. Như
người đạt được thế lực và địa vị to lớn, trọn đủ tài bảo, tùy theo lòng muốn mà
tự nhiên thành tựu. Vị Bồ Tát này cũng thế! Giả sử hết thảy hữu tình trong mười
phương thế giới, mong cầu đủ loại vật dụng cần thiết thuộc thế gian hay xuất
thế gian, tùy theo sự ưa muốn đủ loại khác nhau, mà đều có thể dùng Như Huyễn
tam-muội để cùng lúc ban cho, khiến cho ai nấy đều được mãn nguyện. Nhưng do
chưa thể dứt bặt dấu tích khởi dụng (dấy lên tác dụng), khiến cho các việc đã
làm đều như kim cang. Vì thế, chia thành hai thứ ấn. Lại nữa, ở đây nên nói về
pháp môn đầu tiên để giảng giải đạo tam-muội. Do trong phẩm trước đã nói, cho
nên chẳng nhắc lại. Lại nữa, tam-muội của bậc Nhất Sanh Bổ Xứ và Đệ Bát Địa như
đã nói trên đây là xét theo giáo đạo pháp môn hướng dẫn, dạy bảo mà nói như
thế. Nhưng người thuộc bí mật thừa, từ trong Thế Đế có thể thông đạt Đệ Nhất
Nghĩa Đế, từ lúc sơ phát tâm đã hành trọn đủ Đại Không tam-muội. Nếu chẳng như
thế, trong một đời sẽ chẳng thể nhanh chóng viên mãn các địa!
Kinh
nói: “Phục thứ Bí Mật Chủ! Thanh Văn chúng trụ hữu duyên
địa, thức sanh diệt, trừ nhị biên, cực quán sát trí, đắc bất tùy
thuận tu hành nhân, thị danh Thanh Văn tam-muội đạo” (Lại này, Bí
Mật Chủ! Các vị Thanh Văn trụ trong địa vị hữu duyên, biết sanh diệt, trừ nhị
biên, trí quán sát tột bậc, đạt được chẳng tùy thuận các cái nhân. Đó gọi là
đạo tam-muội của Thanh Văn): Như A Tỳ Đàm nói pháp cửu tưởng, bát niệm bối xả,
thắng xứ, hết thảy nhập, ba tam-muội v.v… đều gọi là “trụ hữu duyên
địa”. Nương vào các phương tiện tam-muội ấy, khiến cho tâm điềm nhiên,
an tĩnh, đạt được sự quán sát chánh đáng, nhận biết pháp thế gian và xuất thế
gian đều có nhân, có duyên. Thế gian thì lấy Tập làm nhân, dùng Khổ làm quả;
pháp xuất thế gian lấy Đạo làm nhân, dùng Diệt làm quả, như trong A Hàm đã nói
rộng. Nói tới pháp trọng yếu trong Tỳ Ni (Luật Tạng) thì chính là “các
pháp do duyên khởi, Như Lai nói là nhân, pháp ấy do duyên tận, Đại
Sa Môn đã nói”. Do biết là nhân duyên sanh diệt, bèn diệt kiến
giải Hữu và Vô, xa lìa Nhị Biên đoạn và thường, trí Chân Đế sanh khởi. Vì thế,
gọi là Cực Quán Sát Trí. Do có thể quán sát tột cùng, chẳng điên đảo, chẳng sai
lầm, nên gọi là Đế. Từ Vô Minh cho tới già, chết, do cái này có nên cái kia có,
do cái này sanh nên cái kia sanh, cho tới luân hồi chẳng có ngằn hạn. Nếu thuận
theo đó mà luân chuyển thì gọi là Thuận. Đã thấy Tứ Chân Đế, liền trái nghịch
sanh tử, hành theo chánh đạo, cho đến có thể nói chắc chắn: “Sự sanh
của ta đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã hoàn thành, chẳng tiếp nhận hậu
hữu (thân trong đời sau)”. Đó gọi là “chẳng tùy thuận”. Các
hạnh chẳng tùy thuận như thế, phải dùng tam-muội làm nhân, cho nên nói là “đắc
bất tùy thuận tu hành nhân” (đạt được cái nhân tu hành chẳng tùy
thuận). Tuy các bộ nói về tam-muội của Thanh Văn đủ loại sai khác bất đồng,
nhưng khế hợp pháp ấn như thế thì gọi là “chánh hạnh”. Nếu
chẳng khế hợp pháp ấn như thế, thì gọi là “tà hạnh”.
Kinh
dạy “Bí Mật Chủ! Duyên Giác quán sát nhân quả, trụ vô ngôn thuyết pháp,
bất chuyển vô ngôn thuyết, ư nhất thiết pháp, chứng cực diệt ngữ ngôn tam-muội.
Thị danh Duyên Giác tam-muội đạo” (Bí Mật Chủ! Duyên Giác quán sát
nhân quả, trụ vô ngôn thuyết pháp, chẳng chuyển vô ngôn thuyết, trong hết thảy
các pháp, chứng Cực Diệt Ngữ Ngôn tam-muội. Đó gọi là đạo tam-muội của Duyên
Giác). “Nhân quả” chính là pháp mười hai nhân duyên. Như Cực
Quán Sát Trí của Thanh Văn hiểu “chỉ có Uẩn, vô ngã”, do tâm
chán nhàm sâu nặng, bèn nhanh chóng đoạn phiền não, tự chứng Niết Bàn, chẳng
thể phân tích, tìm cầu Thật Tướng của mười hai nhân duyên. Bích Chi Phật trí
huệ sâu bén, có thể dùng tổng tướng và biệt tướng để quán sát sâu xa, thấy hết
thảy các Tập pháp đều là diệt pháp. Điều này khác hẳn Thanh Văn. Kinh A Hàm
nói: “Thập nhị nhân duyên pháp giả, hữu Phật, vô Phật, pháp vị thường
trụ” (pháp mười hai nhân duyên, dù có Phật hay không có
Phật, pháp vị thường trụ). Ngài Long Thọ cũng nói: “Pháp vị trong ấy
chính là tên gọi khác của Như; đấy chính là chỗ khó hiểu nhất trong hết thảy
thế gian”. Vì thế, lúc đức Thế Tôn mới thành đạo, chẳng muốn thuyết
pháp là do ý này. Sở nhập của Bích Chi Phật sâu dần, trụ trong vô ngôn mà
thuyết pháp, nên nói là “bất chuyển”, tức là khi trụ Đệ Nhất
Nghĩa, chẳng có âm thanh và văn tự, cho nên chẳng thể truyền dạy kẻ khác. Đức
Thế Tôn đạt được tri kiến vô ngại, tự tại trong pháp, có thể trong vô ngôn
thuyết pháp mà lập ra danh tự để dạy lại chúng sanh. Trí huệ của Bích Chi Phật
có ngăn ngại; vì thế, chẳng thể diễn nói.
Lại
nữa, Bích Chi Phật quán hết thảy Tập pháp thảy đều như tướng Niết Bàn. Trong đủ
loại cảnh giới hữu vi, gió hý luận dứt bặt, mà chẳng hay biết, nên gọi là “chứng
cực diệt ngữ ngôn tam-muội”. Tu Du Già tương ứng với điều này thì gọi
là Duyên Giác tam-muội. Hai loại tam-muội ấy đều là chỗ khó khăn trong Bồ Đề
tâm, nhưng chỉ là một loại tâm tướng trong đạo được hành, chẳng phải là tâm
tánh chẳng thể nghĩ bàn có tướng tam thừa nhất định như thế. Vì thế, hành nhân
dùng pháp ấn này để tự ấn chứng, nhận biết rồi, sẽ vượt thẳng qua vô ngại. Nếu
chẳng khéo hay biết, sẽ bị chướng ngại!
Kinh
nói “Bí Mật Chủ! Thế gian nhân quả cập nghiệp, nhược sanh, nhược diệt,
hệ thuộc tha chủ, không tam-muội sanh, thị danh thế gian tam-muội đạo” (Bí
Mật Chủ! Nhân quả và nghiệp thế gian, dù sanh hay diệt, đều thuộc vào cái khác
làm chủ, Không tam-muội sanh, đó gọi là đạo tam-muội của thế gian), tức là hết
thảy tam-muội thế gian, nói tóm gọn, đạt tới chỗ rốt ráo là đều diệt hoại nhân
quả, và khi từ nhân mà biện định quả đối với tất cả các nghiệp đã tạo, [người
đời] luôn cho rằng ba chuyện ấy đều hệ thuộc thứ khác. “Thứ khác” chính
là Thần Ngã. Vì lẽ nào vậy? Nếu hành nhân chẳng hiểu ý nghĩa của nhân duyên
chánh yếu mà tu chứng các môn Thiền, ắt sẽ chấp trước tự tâm, cho đó là nội ngã.
Họ thấy vạn pháp trong thế gian do tâm mà có, bèn bảo là do Thần Ngã sanh ra.
Nếu chẳng thuận theo nội ngã, ắt sẽ nương vào ngoại ngã, tức là Tự Tại Phạm
Thiên v.v… Nếu từ trong ấy, tìm cầu sâu xa cùng tột, [do vô minh, chấp trước],
sẽ tự nhiên bác bỏ nhân và nghiệp, chỉ cho rằng ngã tánh riêng tồn tại, cho đến
chẳng có một pháp nào nhập tâm để chứng Không định, [cho rằng] đó là lý tột bậc
trong thế gian. Vì thế, lẩn quẩn trong ba cõi, vẫn đọa trong tam đồ. Tuy trong
Thiền Định phát sanh đủ loại trí thế gian thù thắng, trọn đủ năm món thần
thông, nhưng suy xét tông thú, rốt cuộc vẫn quy vào chỗ ấy (tức là chấp có nội
ngã hay ngoại ngã). Vì thế, dùng cái ấn ấy để thâu nhiếp hết thảy đạo tam-muội
thế gian. Khi hành giả nhập cái tâm ấy, sẽ tự hay biết.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: - Bí Mật Chủ đương tri, thử đẳng tam-muội
đạo, nhược trụ Phật Thế Tôn, Bồ Tát cứu thế giả, Duyên Giác, Thanh Văn thuyết,
tồi hại ư chư quá. Nhược chư thiên, thế gian, chân ngôn pháp giáo đạo. Như thị
cần dũng giả, vị lợi chúng sanh cố.
(經)爾時世尊而說偈言:祕密主當知,此等三昧道,若住佛世尊,菩薩救世者,緣覺聲聞說,摧害於諸過。若諸天世間,真言法教道,如是勤勇者,為利眾生故。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng: - Bí Mật Chủ nên biết, các đạo
tam-muội ấy, nếu trụ Phật Thế Tôn, Bồ Tát đấng cứu đời, Duyên Giác, Thanh Văn
nói, dẹp sạch các lỗi lầm. Nếu chư thiên, thế gian, chân ngôn pháp giáo đạo,
bậc cần dũng như thế, do vì lợi chúng sanh).
Trong
chánh kinh, đức Phật nói kệ thâu nhiếp, chia năm loại tam-muội thành hai phần,
tức là: Bốn loại tam-muội của Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, đều gọi là
xuất thế gian tam-muội; còn chân ngôn và pháp giáo do chư thiên v.v… đã nói thì
thuộc vào thế gian tam-muội. Xuất thế gian tam-muội đều có lợi ích chân thật,
cho nên nói “tồi hại ư chư quá” (dẹp tan, trừ sạch các lỗi
lầm). Thế gian tam-muội chỉ có lợi ích quyền biến, cho nên nói “vị lợi
ích chúng sanh” (vì lợi ích chúng sanh). Như các kinh khác đã nói,
người cầu Tiểu Thừa phải nên tu hành tác quán, tức là sanh lòng chán nhàm sâu
xa đối với giáo pháp thế gian. Người cầu Đại Thừa lại sanh lòng sợ hãi sâu xa
đối với giáo pháp Thanh Văn. Đấy đều là vì chẳng biết “do bí mật tạng
mà nói phương tiện ấy!” Xét theo điều được đề cao trong kinh này, năm
loại tam-muội đều là môn Thật Tướng để khai tâm. Như hành giả sơ trụ hữu tướng
Du Già chính là thế gian tam-muội, nhưng biết rõ “chỉ có Uẩn, không
ngã” trong ấy thì là Thanh Văn tam-muội. Nếu dùng mười câu duyên sanh
để quán các Uẩn vô tánh, vô sanh, tức là Bồ Tát tam-muội. Những điều khác như
trong phẩm Trụ Tâm đã nói rộng. Các giáo pháp bất đồng khác do chưa hiểu rõ ý
chỉ của tâm tánh, nên ngũ thừa bèn thành sai khác, chẳng thể dung hội! Nếu lại
dùng cách giải thích sâu xa, bí mật, thì như ngũ vị tam-muội[20] trong ba tầng Mạn-đồ-la đều
được đức Tỳ Lô Giá Na bí mật gia trì, người tương ứng với điều ấy, sẽ đều có
thể thành Phật trong một đời, há có cạn hay sâu khác biệt ư? Nay những điều
được nói trong bài kệ đều là thuận theo pháp giáo được lưu truyền của bọn họ mà
nói đó thôi!
(Kinh)
Phục thứ, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Bí Mật Chủ! Nhữ đương đế
thính chư chân ngôn chi phần dã”. Kim Cang Thủ ngôn: “Dụy nhiên! Thế Tôn!
Nguyện nhạo dục văn”.
(經)復次世尊告執金剛祕密主言:祕密主!汝當諦聽諸真言支分也。金剛手言:唯然。世尊!願樂欲聞。
(Kinh:
Lại nữa, đức Thế Tôn bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật Chủ! Ông hãy
nên lắng nghe các chi phần của chân ngôn”. Kim Cang Thủ thưa: “Bạch Thế Tôn,
vâng ạ! Con ưa thích muốn nghe”).
Phán
định đại lược chân ngôn có năm loại, tức là do Như Lai nói, hoặc do Bồ Tát, Kim
Cang nói, hoặc do Nhị Thừa nói, hoặc do chư thiên nói, hoặc do địa cư thiên như
rồng, chim, A Tu La v.v… nói. Lại nữa, ba thứ đầu được gọi là “thánh
giả chân ngôn”, loại thứ tư gọi là “chư thiên chúng chân
ngôn”, loại thứ năm là “địa cư giả chân ngôn”, cũng
có thể gọi là “chư thần chân ngôn”. Như thánh giả chân ngôn
cũng nói các chữ A, hoặc chữ Ra v.v…, các vị trời trong thế gian, cho đến các
địa cư quỷ thần cũng đều nói như thế. Tướng trạng có gì khác nhau? [Thiện Vô
Úy] A-xà-lê nói: “Nếu do Phật, Bồ Tát nói thì trong một chữ, trọn đủ vô
lượng nghĩa”. Lại nói đại lược, chữ A có ba nghĩa, tức là nghĩa bất
sanh, nghĩa không, và nghĩa có. Như chữ A trong tiếng Phạn có âm thanh bổn sơ.
Nếu có bổn sơ thì tức là pháp nhân duyên; vì thế là “có”. Lại nữa, A có nghĩa
là Vô Sanh. Nếu pháp do nắm níu nhân duyên mà thành, tức là chẳng có tánh; do
vậy là Không. Lại nữa, bất sanh chính là cảnh giới Nhất Thật, tức là Trung Đạo.
Vì thế, ngài Long Thọ nói: “Pháp sanh bởi nhân duyên, cũng là Không,
cũng là Giả, cũng là Trung”.
Lại
nữa, Đại Luận nói Tát Bà Nhã có ba loại tên gọi:
-
Nhất Thiết Trí, chung với Nhị Thừa.
-
Đạo Chủng Trí, chung với Bồ Tát.
-
Nhất Thiết Chủng Trí, là pháp bất cộng của Phật.
Ba
trí ấy thật ra là cùng đạt được trong một tâm, chỉ nhằm phân biệt khiến cho
người khác dễ hiểu mà lập ra ba loại tên, tức là ba nghĩa của chữ A.
Lại
như chữ Ra (र)
cũng có ba nghĩa:
-
Một, nghĩa là “trần” (bụi bặm).
-
Hai, do nhập môn chữ A nên chính là nghĩa “vô trần”.
-
Lại có nghĩa là Ba La Mật, do rốt ráo đạt đến bờ kia, tức là bổn sơ bất sanh.
Hãy
nên biết cũng là trọn đủ ba điểm, ba điểm chính là nhiếp hết thảy các pháp. Như
chữ A và chữ Ra, ý nghĩa của các chữ khác cũng đều là như thế. Lại nữa, trong
hết thảy lời nói, hễ có kèm theo âm A, sẽ đều thuộc vào môn chữ A. Nếu kèm theo
âm Ra, đều thuộc vào môn chữ Ra. Các chữ khác cũng thế! Do Đại Luận giải thích
ý nghĩa của các tiếng, các chữ đều tương đồng, trong phần sau sẽ không giải
thích cặn kẽ nữa!
Nếu
chân ngôn của các Bồ Tát có chữ A, hãy nên biết trong pháp giới môn được thông
đạt bởi chân môn ấy có trọn đủ hết thảy các nghĩa, chẳng phải là các ý nghĩa
trọn đủ trong phổ môn pháp giới. Nếu chân ngôn của Nhị Thừa có chữ A thì hãy
nên biết: Chỉ xét theo Tận Vô Sanh Trí, tịch diệt Niết Bàn để nói về nghĩa “bất
sanh”. Nếu là chân ngôn do Phạm Thiên nói ra mà có chữ A, xét theo lìa ngũ dục,
dựa theo “giác quán bất sanh” để nêu rõ ý nghĩa. Nếu chân ngôn của Đế Thích và
các vị trời Hộ Thế có chữ A, tức là xét theo Thập Bất Thiện đạo và ý nghĩa “các
tai hoạn bất ngờ chẳng nẩy sanh”. Những điều khác cứ phỏng theo đó mà suy ra.
Những điều vừa nói trên đây đều là lời lẽ thuận theo ý của người khác mà nói,
nhằm nêu bày ý nghĩa nông cạn, sơ lược.
Nếu
là lời lẽ thuận theo ý mình để nêu bày ý nghĩa sâu xa, bí mật, thì hễ nhập một
môn, sẽ đều trọn đủ hết thảy các pháp giới môn. Thậm chí các vị trời, quỷ thần
v.v… trong thế gian đều là Tỳ Lô Giá Na, há có cạn hay sâu sai khác ư? Nếu hành
giả có thể từ trong vô sai biệt, thấu hiểu ý nghĩa sai biệt, hãy nên biết là
người thông đạt nghĩa Nhị Đế, mà cũng là biết tướng chân ngôn vậy.
(Kinh)
Chánh Đẳng Giác chân ngôn, ngôn danh thành lập tướng, như Nhân Đà La tông, chư
nghĩa lợi thành tựu, hữu tăng gia pháp cú, bổn danh hạnh tương ứng. Nhược Án
tự, Hồng tự, cập dữ Bát Trách Ca, hoặc Hiệt Rị Bễ đẳng, thị Phật Đảnh danh
hiệu. Nhược Yết Lật Ngận Noa, Khư Đà Da Bạn Xà, Ha Na Ma Ra dã, Bát Trá Dã đẳng
loại, thị phụng giáo sứ giả, chư Phẫn Nộ chân ngôn. Nhược hữu Nạp Ma tự, cập Sa
Phược Ha đẳng, thị tu Tam-ma-địa, tịch hạnh giả tiêu tướng. Nhược hữu Phiến Đa
tự, Vi Thú Đà tự đẳng, đương tri năng mãn túc, nhất thiết sở hy nguyện. Thử
Chánh Giác Phật tử, cứu thế giả chân ngôn. Nhược Thanh Văn sở thuyết, nhất nhất
cú an bố. Thị trung Bích Chi Phật, phục hữu thiểu sai biệt, vị tam-muội phần
dị, tịnh trừ ư nghiệp sanh.
(經)正等覺真言,言名成立相,如因陀羅宗,諸義利成就。有增加法句,本名行相應,若唵字吽字,及與潑磔迦,或頡唎嫓等,是佛頂名號。若揭㗚佷拏,佉陀耶畔闍,訶娜摩囉也,鉢吒也等類,是奉教使者,諸忿怒真言。若有納麼字,及莎縛訶等,是修三摩地,寂行者標相。若有扇多字,微戍陀字等,當知能滿足,一切所希願。此正覺佛子,救世者真言,若聲聞所說,一一句安布,是中辟支佛,復有少差別,謂三昧分異,淨除於業生。
(Kinh:
Chân ngôn Chánh Đẳng Giác; ngôn, danh thành lập tướng, như Đế Thích tạo luận,
thành tựu các nghĩa lợi. Có tăng thêm câu pháp, vốn tên Hành Tương Ứng. Như chữ
Án (Oṃ),
chữ Hồng (Hūṃ),
cùng với Bát Trách Ca (Phaṭaka), hoặc Hiệt Rị (Hrīḥ), Bễ (Bhi) thảy, là danh
hiệu Phật Đảnh. Nếu Yết Lật Hận Noa (Gṛhṇa), Khư Đà Da (Khādaya) Bạn Xà (Bhañja), Ha Na Ma Ra Dã (Hadamāraya), Bát Trá Dã (sphāṭaya) các loại, là phụng
giáo sứ giả, các Phẫn Nộ chân ngôn. Nếu có chữ Nạp Ma (namaḥ), và Sa Phược Ha (svāhā) thảy, chính là chữ biểu
trưng, của người tu tịch hạnh. Nếu có chữ Phiến Đa (śānta), chữ Vi Thú Đà (viśuddha) thảy, hãy nên biết trọn
thỏa, hết thảy các ước nguyện. Đó chính là chân ngôn, bậc chánh giác Phật tử,
chân ngôn đấng cứu thế. Nếu do Thanh Văn nói ra, mỗi mỗi câu sắp xếp. Bích Chi
Phật trong ấy, lại có chút sai biệt, tức tam nghiệp muội sai khác, đều trừ sạch
nghiệp sanh).
Lại
nữa, trong kinh tự nói tướng trạng của các Chân Ngôn. Bài kệ thứ nhất
nói: “Chánh Đẳng Giác chân ngôn, ngôn danh thành lập tướng, như Nhân Đà
La tông, chư nghĩa lợi thành tựu” (Chân ngôn của bậc Đẳng Chánh Giác,
do ngôn và danh mà thành lập tướng, như Nhân Đà La tông (luận do Đế Thích
soạn), thành tựu các nghĩa lợi), nói về tướng trạng chung nơi chân ngôn của Như
Lai. Nay chỉ nói theo tam-muội-da chân ngôn tối sơ. “Ngôn” là
nói mỗi một chữ đều là một loại nhập pháp giới môn, như nói A Tam Mê (Asame)
thì chữ A là môn Vô Sanh, chữ Sa là môn Vô Đế, chữ Ma là môn Đại Không. “Danh” là
mỗi một tự môn hợp thành một danh, như A có nghĩa là Vô, Tam Mê là Đẳng. Nếu
nói gộp chung, sẽ chính là Vô Đẳng. “Thành lập” là nhờ vào các
danh ấy, từ đầu tới cuối, hợp thành một nghĩa. Như câu đầu là Vô Đẳng, câu kế
là nói Tam Đẳng, câu kế đó là tam-muội-da, cùng nhau thành lập, tức là Vô Đẳng
Tam Bình Đẳng Tam-muội-da. Lại nữa, như do nhiều danh cùng hợp thành một câu,
như “chư hành vô thường” v.v… Cho đến tổng hợp nhiều câu thành
một kệ, sau đấy ý nghĩa mới viên mãn, tức là “chư hành vô thường, thị
sanh diệt pháp, sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” (các hành vô
thường, là pháp sanh diệt, sanh diệt đã diệt, tịch diệt là vui), đều là tướng
thành lập bởi chân ngôn. Các điều khác đều phỏng theo lệ này.
“Như
Nhân Đà La tông”: Nhân Đà La (Indra) là tên gọi khác của Thiên Đế Thích. Đế
Thích tự tạo thanh luận, trong một lời có thể bao hàm trọn các nghĩa. Vì thế,
dẫn chuyện này làm chứng. Trí huệ thế gian mà còn như thế, huống hồ Như Lai tự
tại trong các pháp ư?
“Chư
nghĩa lợi thành tựu” (thành tựu các nghĩa lợi), tức là đối với chân
ngôn của Như Lai, trong mỗi một chữ đều trọn có thể thành tựu các nghĩa lợi.
Trong mỗi một danh, cũng đều trọn có thể thành tựu hết thảy nghĩa lợi. Trong
mỗi tướng được thành lập, cũng trọn có thể thành tựu hết thảy nghĩa lợi. Nếu
nêu ra chữ tối sơ là chữ A trong tam-muội-da chân ngôn, do nó có nghĩa “vốn bất
sanh”, tức là có tác dụng Tức Tai. Do vốn bất sanh, nên hết thảy các công đức
trọn đủ, chẳng thiếu, tức là có tác dụng Tăng Ích. Do vốn chẳng sanh, vô lượng
lầm lỗi bị diệt trừ chẳng sót, tức là có tác dụng Hàng Phục. Lại chẳng có một
pháp nào vượt ngoài cái “vốn bất sanh” ấy, tức là có tác dụng Nhiếp Triệu.
Trong cái “vốn chẳng sanh” như thế, do chẳng có công dụng, nên có thể hoàn
thành hết thảy các sự. Như chữ A, mỗi chữ khác cũng đều là như thế. Như mỗi một
chữ, mỗi một danh, ngôn, và tướng thành lập cũng đều như thế. Do vậy, hãy nên
biết đấy chính là trong chân ngôn trọn đủ hết thảy các công dụng. Tướng trạng
chung của chân ngôn đã nói xong.
Kế
đó, nói về biệt tướng của chân ngôn, cho nên nói: “Hữu gia tăng pháp
cú, bổn danh hành tương ứng” (có tăng thêm câu pháp, sao cho tên gọi
của chân ngôn tương ứng với điều sẽ được thực hiện bởi chân ngôn ấy), ý nói:
Phàm tạo tác các sự nghiệp chân ngôn, hãy nên quán danh xưng vốn được thành lập
và ý thú tạo tác trong chân ngôn ấy, nhằm biện định bộ loại sai biệt của nó,
tùy theo tánh tướng đáng nên mà thực hiện, sử dụng. Nếu danh nghĩa và tác dụng
của chân ngôn chẳng tương ứng, hãy nên vâng theo đúng pháp mà tăng thêm các câu
có ý nghĩa. Như trong chân ngôn có các thứ danh ngôn sai biệt trong pháp giới
pháp tánh Đại Không chẳng thể nghĩ bàn, do tương ứng với chân thể tự chứng của
Như Lai, hãy nên biết đó là chân ngôn thuộc Phật Bộ. Nếu là [chân ngôn thuộc]
các bộ khác [nhưng do tương ứng với chân thể tự chứng của Như Lai], cũng có thể
dùng như [chân ngôn thuộc] Phật Bộ. Nếu có danh nghĩa tương ứng với Đại Bi Phổ
Nhãn vô nhiễm trước, hãy nên biết là dùng cho Liên Hoa Bộ. Nếu có danh nghĩa
tương ứng với Kim Cang Bất Hoại Vô Hý Luận, hãy nên biết là dùng cho Kim Cang
Bộ. Các nghĩa như thế vô lượng vô biên, Du Già hành nhân hãy nên dùng ý để suy
ra, chẳng cần phải chép tường tận.
Lại
nữa, kinh tự nói tác dụng tương ứng với danh hạnh. Tức là nếu trong chân ngôn
có các chữ Án (ॐ, Oṃ), Hồng (हूं, Hūṃ), Phát (फ, phát ), ङ्क (ṅka, trách ca), Hiệt
Rị (ह्रि,
hri), Bệ (भि,
bhi) v.v… Hãy nên biết đó là danh hiệu của Phật Đảnh. Nếu có các chữ như
Yết Lật (गृ,
gṛ), Hận Noa (ह्ण, hṇa, có nghĩa là “chấp
thủ”), Khư (ख,
kha), Đà (द,
da), Da (य,
ya) (nghĩa là “ăn”), Bạn Xà (भज, bhaja, nghĩa là “phá hoại”), Ha Na (हद,
hada, có nghĩa là “đánh”), Ma La Dã (मरय, maraya, có nghĩa “giết”), Bát Trá Dã (फटय,
phaṭaya, nghĩa là “ném”) như thế, hãy nên biết là chân ngôn của các vị Phẫn Nộ
hoặc Phụng Giáo, có thể dùng để hàng phục, nhiếp triệu. Như nói “đạm thực” (ăn
nuốt) thì “ăn nuốt” nghĩa là khiến cho các vị Phẫn Nộ nuốt, diệt hết thảy loài
Tỳ Na Dã Ca. Nếu hiểu là “thật sự ăn nuốt” [các quỷ thần], chư Phật sẽ mắc tội
giết chúng sanh. Nay xét theo nghĩa được giảng giải trong tông này, nói Tỳ Na
Dã Ca (Vināyaka) cũng
tức là “hết thảy các thứ có thể gây ra chướng ngại”. Các chướng ấy đều từ cái
tâm vọng tưởng sanh ra. Nếu có thể “ăn nuốt” trọng chướng như thế, khiến cho
tâm mục mở sáng, hãy nên biết đó gọi là bậc Chân Phẫn Nộ. Dùng môn chữ Khư (ख,
Kha) để ăn nuốt các chướng của hết thảy chúng sanh, sẽ là người được Như Lai
sai khiến hành Như Lai sự. Những điều khác có thể suy luận tương tự mà biết.
Lại
nữa, nếu trong chân ngôn có chữ Nạp-ma (नमः, Namaḥ,
có nghĩa là “quy mạng”), chữ Sa Phược Ha (स्वाहा,
Svāhā, nghĩa là “nhiếp thủ”) v.v… hãy nên biết đó là chân ngôn tương ứng với tu
Tam-ma-địa tịch tĩnh. Hoặc có các chữ Phiến Đa (षत, Ṣata, nghĩa là
“tịch”), Vi Thú Đà (विशुद्ध, Viśuddhā, nghĩa là
“thanh tịnh”), hãy nên biết đó là chân ngôn thành tựu viên mãn hết thảy các
nguyện. Hơn nữa, Phiến Đa cũng có nghĩa là Tức Tai, tương ứng với Phật Bộ.
Những điều khác như trong các kinh Tô Tất Địa v.v… đã nói tường tận. Những điều
đã nói trên đây đều là tướng chân ngôn của Phật, Bồ Tát.
Kế
đó nói “nhược Thanh Văn sở thuyết, nhất nhất cú an bố” (nếu là
[chân ngôn] do Thanh Văn nói, mỗi câu đều xếp đặt): Do Thanh Văn nhờ vào người
khác mà được ngộ, nhập pháp tánh chưa sâu, không thể trong một
lời trọn chứa trọn các đức. Nếu nói một bài kệ bốn câu như “chư
hành vô thường…”, muốn theo thứ tự xếp đặt văn nghĩa chẳng khuyết để
trở thành chân ngôn, chớ nên dùng tự môn để nêu ra ý nghĩa và tăng thêm danh và
cú (câu). Tuy Bích Chi Phật vô ngôn thuyết, cũng có thể dùng sức thần thông
hiện ra chân ngôn, khiến cho những người thọ trì đều đạt được nghĩa lợi. “Thị
trung, thiếu hữu sai biệt” (trong ấy, có chút sai biệt), tức là Lậu
Tận của Bích Chi Phật và Thanh Văn giống nhau, nhưng tam-muội có cạn hay sâu
sai khác, có thể dùng thần thông để lợi ích chúng sanh, khiến cho sở nguyện của
họ đều được thành tựu. Trừ tứ đại đệ tử ra, sức của các vị Thanh Văn khác chẳng
thể. Lại nữa, chân ngôn ấy chỉ nhằm nói lý “mười hai nhân duyên tịch
diệt”; cho nên nói: “Vị tam-muội phần dị, tịnh trừ ư nghiệp
sanh” (Tức là tam muội có phần nào sai khác, nhưng đều là trừ sạch các
quả do nghiệp sanh khởi).
(Kinh)
Phục thứ Bí Mật Chủ! Thử chân ngôn tướng, phi nhất thiết chư Phật sở tác, bất
linh tha tác, diệc bất tùy hỷ. Hà dĩ cố? Dĩ thị chư pháp, pháp như thị cố.
Nhược chư Như Lai xuất hiện, nhược chư Như Lai bất xuất, chư pháp pháp nhĩ như
thị trụ. Vị chư chân ngôn, chân ngôn pháp nhĩ cố. Bí Mật Chủ! Thành Chánh Đẳng
Giác nhất thiết tri giả, nhất thiết kiến giả, xuất hưng vu thế, nhi tự thử pháp
thuyết chủng chủng đạo, tùy chủng chủng lạc dục, chủng chủng chư chúng sanh
tâm, dĩ chủng chủng cú, chủng chủng văn, chủng chủng tùy phương ngữ ngôn, chủng
chủng chư thú âm thanh, nhi dĩ gia trì, thuyết chân ngôn đạo.
(經)復次祕密主!此真言相非一切諸佛所作,不令他作亦不隨喜。何以故?以是諸法法如是故。若諸如來出現、若諸如來不出,諸法法爾如是住。謂諸真言,真言法爾故。祕密主!成正等覺一切知者、一切見者出興于世,而自此法說種種道,隨種種樂欲、種種諸眾生心,以種種句、種種文、種種隨方語言、種種諸趣音聲而以加持說真言道。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Tướng chân ngôn này chẳng do hết thảy chư Phật làm ra,
chẳng khiến người khác làm, mà cũng chẳng tùy hỷ. Vì sao vậy? Do các pháp ấy, pháp
vốn là như thế. Dù các đức Như Lai xuất hiện, hay chư Như Lai chẳng xuất hiện,
các pháp vẫn vốn sẵn trụ như thế, tức là các chân ngôn và pháp chân
ngôn vốn sẵn là như thế đó. Bí Mật Chủ! Bậc thành Chánh Đẳng Giác biết hết
thảy, thấy hết thảy, xuất hiện trong cõi đời, bèn từ pháp này mà nói đủ loại
đạo, tùy theo các thứ ưa thích, mong muốn, thuận theo các loại tâm của chúng
sanh, dùng đủ loại câu, đủ loại văn, đủ loại ngôn ngữ theo từng nơi, đủ loại âm
thanh trong các đường để gia trì, nói đạo chân ngôn).
Kế
đó, kinh nói đến Thật Tướng của chân ngôn, nên nói: “Phục thứ Bí Mật
Chủ! Thử Chân Ngôn tướng, phi nhất thiết chư Phật sở tác, bất linh tha tác,
diệc bất tùy hỷ, hà dĩ cố? Dĩ thị chư pháp, pháp như thị cố. Nhược chư Như Lai
xuất hiện, nhược chư Như Lai bất xuất, chư pháp pháp nhĩ như thị trụ. Vị chư
chân ngôn, chân ngôn pháp nhĩ cố” (Lại này, Bí Mật Chủ! Tướng chân
ngôn này chẳng do hết thảy chư Phật làm ra, chẳng khiến người khác làm, mà cũng
chẳng tùy hỷ. Vì sao vậy? Do các pháp ấy, pháp vốn sẵn là như thế. Dù các đức
Như Lai xuất hiện, hay chư Như Lai chẳng xuất hiện, các pháp vẫn vốn sẵn trụ
như thế, tức là các chân ngôn và pháp chân ngôn vốn sẵn như thế đó). Do thân,
ngữ, ý của Như Lai rốt ráo bình đẳng; tướng, thanh, và chữ của chân ngôn đều là
thường. Do là thường nên chẳng dời, chẳng có biến đổi, pháp vốn sẵn là như thế,
chẳng phải là do tạo tác mà thành. Nếu có thể tạo thành thì chính là sanh pháp
(pháp được sanh bởi các pháp khác). Hễ pháp có sanh, sẽ có thể phá hoại, bốn
tướng đổi dời, vô thường, vô ngã, há có gì gọi là chân thật ngữ ư? Do vậy, Phật
chẳng tự làm, chẳng sai kẻ khác làm. Giả sử có người có thể làm thì cũng chẳng
tùy hỷ. Vì thế, tướng chân ngôn này, dù Phật xuất hiện trong cõi đời, hoặc
chẳng xuất thế, hoặc đã nói, hoặc chưa nói, hoặc đang nói, pháp trụ pháp vị,
tánh tướng thường trụ. Do vậy gọi là nhất định ấn, đạo của các vị thánh như
nhau. Tức là hết thảy các chân ngôn trong Đại Bi Mạn-đồ-la này, tướng của mỗi
chân ngôn đều vốn sẵn như thế, cho nên nhắc lại [lần nữa để nhấn mạnh].
Nếu
là như thế, tướng của các chân ngôn là rốt ráo tịch diệt, chẳng truyền cho
người khác, cớ sao có lúc xuất hiện, có khi ẩn mất? Do vậy, kinh lại giải thích
nguyên do, bèn nói rằng: “Bí Mật Chủ! Thành Chánh Đẳng Giác, nhất thiết
trí giả, nhất thiết kiến giả, xuất hưng vu thế, nhi tự dĩ thử pháp thuyết chủng
chủng đạo, tùy chủng chủng lạc dục, chủng chủng chư chúng sanh tâm,
dĩ chủng chủng cú, chủng chủng văn, chủng chủng tùy phương ngữ ngôn, chủng
chủng chư thú âm thanh, nhi dĩ gia trì thuyết chân thật đạo” (Bí Mật
Chủ! Bậc thành Chánh Đẳng Giác biết hết thảy, thấy hết thảy, xuất hiện trong
cõi đời, bèn từ pháp này mà nói đủ loại đạo, tùy theo các thứ ưa thích, mong
muốn, thuận theo các loại tâm của chúng sanh, dùng đủ loại câu, đủ loại văn, đủ
loại ngôn ngữ theo từng nơi, đủ loại âm thanh trong các đường để gia trì, nói
đạo chân thật). Ý nói: Pháp thể do Như Lai tự chứng, chẳng phải do Phật tự làm,
chẳng phải do trời, người nào khác làm ra, pháp vốn sẵn thường trụ. [Đức Phật]
bèn dùng thần lực gia trì để [chân ngôn] xuất hiện trong cõi đời, lợi ích chúng
sanh. Nay môn Chân Ngôn “thân, khẩu, ý bí mật” này chính là thân, khẩu, ý bình
đẳng của Pháp Thân Phật, nhưng cũng do sức gia trì, bèn xuất hiện trong cõi đời
để lợi ích chúng sanh. Tri kiến vô ngại của Như Lai vốn sẵn thành tựu liên tục
nơi hết thảy chúng sanh, chẳng có khuyết giảm. Do chẳng như thật nhận biết thể
tướng của chân ngôn ấy, nên gọi là “kẻ ở trong sanh tử”. Nếu
lúc có thể tự biết, tự thấy, thì gọi là bậc “biết hết thảy, thấy hết
thảy”. Do thấy biết như thế, chẳng do Phật tự tạo tác, cũng chẳng phải
do kẻ khác truyền trao.
Đức
Phật ngồi đạo tràng, chứng pháp như thế rồi, biết rõ hết thảy thế giới vốn sẵn
thường là pháp giới, lập tức sanh đại bi tâm: “Cớ sao chúng sanh hết sức gần
Phật đạo mà chẳng thể tự giác?” Do bởi nhân duyên ấy, Như Lai xuất hiện trong
thế gian, vẫn dùng pháp giới chẳng thể nghĩ bàn như thế, chia thành đủ loại
đạo, khai thị đủ loại thừa, tùy thuận đủ loại căn cơ, tâm hạnh, ưa thích, mà
dùng đủ loại câu chữ, ngôn ngữ địa phương, tự tại gia trì để nói đạo chân ngôn.
Tuy sanh từ nhân duyên cơ cảm, nhưng chẳng dao động Thật Tế. Tuy phương tiện
thiện xảo không gì chẳng thực hiện, nhưng chẳng phải là do Phật tạo tác. Dẫu
nói trọn khắp các điều khác biệt, nhưng chỉ dùng tri kiến của Phật để chỉ bày,
giác ngộ chúng sanh. Nếu hành giả đối với mười thí dụ về Chân Ngôn (như huyễn,
như mộng, như ánh nắng gợn v.v…) mà hư vọng thấy hữu vi sanh diệt rồi tăng
trưởng tâm cấu, sẽ chẳng phải là bổn ý của Như Lai.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Vân hà Như Lai chân ngôn đạo? Vị gia trì thử thư tả văn tự.
(經)祕密主!云何如來真言道?謂加持此書寫文字。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Thế nào là đạo chân ngôn của Như Lai? Chính là gia trì văn tự được
biên chép ấy).
Lại
nữa, do chúng sanh đời vị lai độn căn, mê nơi Nhị Đế, chẳng biết “Tục
chính là Chân”; vì thế, đức Thế Tôn ân cần chỉ bày rằng: “Bí Mật
Chủ! Vân hà Như Lai chân thật đạo? Vị gia trì thử thư tả văn tự” (Bí
Mật Chủ! Thế nào là đạo chân thật của Như Lai? Chính là gia trì văn tự được
biên chép ấy). Do văn tự của thế gian là thật nghĩa của ngôn ngữ; vì thế, Như
Lai liền dùng thật nghĩa của chân ngôn để gia trì. Nếu vượt ngoài pháp tánh mà
riêng có văn tự thế gian, tức là do vọng tâm mà thấy lầm lạc, đều chẳng có thật
thể để có thể cầu, nhưng đức Phật dùng thần lực gia trì, sẽ là tùy thuận điên
đảo, chẳng phải là chân ngôn. Đã biết chỗ gia trì, Như Lai dùng pháp nào để gia
trì vậy?
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Như Lai vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập tu
hành chân thật đế ngữ, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thần Túc, Thập Như Lai Lực,
Lục Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm Trụ, thập bát Phật bất cộng pháp. Bí Mật
Chủ! Dĩ yếu ngôn chi, chư Như Lai Nhất Thiết Trí trí, nhất thiết Như Lai tự
phước trí lực, tự nguyện trí lực, nhất thiết pháp giới gia trì lực, tùy thuận
chúng sanh, như kỳ chủng loại, khai thị Chân Ngôn giáo pháp.
(經)祕密主!如來無量百千俱胝那庾多劫,積集修行真實諦語,四聖諦、四念處、四神足、十如來力、六波羅蜜、七菩提寶、四梵住、十八佛不共法。祕密主!以要言之,諸如來一切智智。一切如來自福智力、自願智力、一切法界加持力,隨順眾生,如其種類開示真言教法。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập,
tu hành lời chân lý chân thật, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thần Túc, mười lực
của Như Lai, sáu Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm Trụ, mười tám pháp bất cộng
của Phật. Bí Mật Chủ! Nói tóm lại, trí Nhất Thiết Trí của Như Lai, hết thảy sức
phước trí của chính Như Lai, trí lực do tự thệ nguyện, sức gia trì của hết thảy
pháp giới, tùy thuận chúng sanh, đúng như chủng loại của họ mà khai thị giáo
pháp Chân Ngôn).
Vì
thế, kế đó đức Phật nói: “Bí Mật Chủ! Như Lai vô lượng bách thiên
câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập tu hành chân thật đế ngữ, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm
Xứ, Tứ Thần Túc, thập Như Lai lực, Lục Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm Trụ,
thập bát Phật bất cộng pháp. Bí Mật Chủ! Dĩ yếu ngôn chi, chư Như Lai Nhất
Thiết Trí trí, nhất thiết Như Lai tự phước trí lực, tự nguyện trí lực, nhất
thiết pháp giới gia trì lực, tùy thuận chúng sanh, như kỳ chủng loại, khai thị
Chân Ngôn giáo pháp” (Bí Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng trăm ngàn
câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập, tu hành lời chân lý chân thật, Tứ Thánh Đế,
Tứ Niệm Xứ, Tứ Thần Túc, mười lực của Như Lai, sáu Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo,
Tứ Phạm Trụ, mười tám pháp bất cộng của Phật. Bí Mật Chủ! Nói tóm lại, trí Nhất
Thiết Trí của Như Lai, hết thảy sức phước trí của chính Như Lai, trí lực do tự
thệ nguyện, sức gia trì của hết thảy pháp giới, tùy thuận chúng sanh, đúng như
chủng loại của họ mà khai thị giáo pháp Chân Ngôn), tức là Như Lai
trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp tích tập công đức, phổ môn gia trì trọn khắp hết
thảy các chốn. Vì thế, tùy theo mỗi một chữ, mỗi một danh từ được thành lập,
đều như thanh luận của Nhân Đà La (Indra, Đế Thích), hết thảy nghĩa lợi không
gì chẳng thành tựu. Lại còn trong mỗi một công đức ấy, đều giống như tướng Chân
Ngôn, pháp tánh vốn tự như vậy, chẳng phải do tạo tác mà thành.
Nay
lại dựa theo một chữ A để biện định nghĩa này. Như khi hành giả tự chứng cái
tâm, biết rõ nhân quả thế gian và xuất thế gian vốn bất sanh, chẳng có Khổ, Tập,
Diệt, Đạo, mà có Nhất Thật Đế. Đã thấy Nhất Thật Đế rồi, nhất định sẽ sư tử
hống, rộng vì chúng sanh mà nói. Đó gọi là “tích tập tu hành chân thật
đế ngữ”. Lại biết tám món điên đảo[21] vốn thật sự chẳng sanh, thành
tựu Như Lai Niệm Xứ. Do biết Tứ Như Ý Túc vốn bất sanh, thành tựu pháp tánh
thần thông. Do biết các thứ như Thị Xứ Phi Xứ Trí v.v… vốn bất sanh, thành tựu
trí lực tự nhiên của Phật. Do biết Lục Tế[22] vốn bất sanh, đạt đến bờ kia
Lục Độ. Do biết Thất Bồ Đề Phần vốn bất sanh, thành tựu bảy loại báu Vô Sư Giác
(giác ngộ không do thầy dạy). Do biết Tứ Phạm Trụ (từ, bi, hỷ, xả) vốn bất
sanh, thành tựu vô duyên từ bi hỷ xả. Do biết mười tám loại pháp vốn bất sanh,
cho nên vượt ngoài tâm lượng, chẳng cùng chung với hết thảy chúng sanh. Cho tới
đủ loại pháp môn, sẽ đều tự tại nói.
Lại
nữa, như ý nghĩa trong phẩm đầu tiên của kinh này, nếu biết rõ “chỉ có
Uẩn, không có ngã”, cho tới khi chứng tịch nhiên giới, hãy nên dựa
theo “ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả vốn bất sanh” để nói rõ
các thứ pháp môn. Khi dùng năm thứ thí dụ để quán sát tánh Không, hãy nên dựa
theo “các Uẩn vốn bất sanh” để nói rõ các thứ pháp môn. Khi
quán sát Uẩn A Lại Da cho đến tiền tế và hậu tế của giác tâm đều chẳng thể
được, hãy nên xét theo “hình bóng của cái tâm vốn bất sanh” mà
nói các thứ pháp môn. Khi tâm cực vô tự tánh sanh khởi, hãy nên dựa theo “Bồ
Đề tâm thanh tịnh vốn bất sanh” để nói rõ các loại pháp môn. Cho tới
Như Lai địa, hãy nên dựa theo ý nghĩa “rốt ráo bất sanh” của
Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la để nói các thứ pháp môn. Như môn chữ A bất sanh, môn
chữ Ca vô tác v.v… đều nên nói rộng. Như mỗi một chữ, cho đến mỗi một danh, mỗi
mỗi thành lập, đều nên nói rộng.
Lại
nữa, đức Thế Tôn tự tại trong các pháp, hoặc dùng một chữ để nhiếp các thứ “một
pháp môn” như Bồ Đề tâm v.v… Hoặc dùng hai chữ để nhiếp đủ loại “hai pháp môn”
như Chỉ Quán v.v… Hoặc dùng ba chữ để nhiếp các loại “ba pháp môn” như Tam
Không v.v… Hoặc dùng bốn chữ để nhiếp đủ loại “bốn pháp môn” như Tứ Niệm Xứ
v.v… Hoặc dùng năm chữ để nhiếp các loại “năm pháp môn” như Căn, Lực v.v… Hoặc
dùng sáu chữ để nhiếp đủ loại “sáu pháp môn” như Lục Độ v.v… Hoặc dùng bảy chữ
để nhiếp đủ loại “bảy pháp môn” như Thất Bồ Đề Bảo (Thất Giác Chi) v.v… Hoặc
dùng tám chữ để nhiếp đủ loại “tám pháp môn” như Bát Trực Đạo (Bát Chánh Đạo).
Hoặc dùng chín chữ để nhiếp đủ loại “chín pháp môn” như Cửu Định v.v… Hoặc dùng
mười chữ nhiếp đủ loại “mười pháp môn” như Thập Lực v.v… Cho đến dùng vô lượng
chữ để nhiếp vô lượng pháp môn. Các danh, cú v.v… cũng giống như thế.
Nếu
xét theo tướng trạng chung của chân ngôn, như khi hành giả trì một môn chữ A,
tùy theo sự ưa thích và cơ duyên của người đó, hoặc ngộ Tứ Niệm Xứ, hoặc ngộ Tứ
Thần Thông v.v… mỗi mỗi bất đồng. Nhưng khi đã hiểu bất cứ một môn nào, sẽ trọn
đủ các pháp môn khác, các thứ pháp bảo không cầu mà tự đến! Nếu xét theo biệt
tướng, như dùng bốn chữ để nhiếp Tứ Niệm Xứ môn. Nếu lúc đúng như pháp tu hành,
tuy trước kia chưa từng chánh quán “thân, thọ, tâm, pháp”, tự nhiên ngộ Niệm
Xứ môn mà nhập các pháp môn thuộc pháp giới. Danh nghĩa hiểu theo lối
thông thường thì như trong Trí Độ Luận v.v… đã nói rộng. Lại nữa, Như Lai
dùng đủ loại pháp môn, chẳng thể nêu trọn, lại nêu ra điều trọng yếu để nói.
Thoạt đầu nói tới trí Nhất Thiết Trí, tức là nêu chung hết thảy Kim Cang trí ấn
của mười phương ba đời Như Lai, dùng pháp ấy để cùng nhau gia trì, không gì
chẳng trọn vẹn. Lại nữa, hết thảy Như Lai khi hành Bồ Tát đạo, tích tập vô biên
khối phước, phát sanh vô tận đại nguyện, cho tới rốt ráo viên mãn Tát Bà Nhã.
Do vậy, đều được gọi là Trí. Nói do phước nguyện trí lực như thế, và sức gia
trì của hết thảy các pháp giới bổn tánh, tùy thuận thế gian, đúng như từng
chủng loại mà thực hiện gia trì. Do vậy, trong thân, ngữ, ý của hết thảy chúng
sanh, đều có thể khai thị giáo pháp Chân Ngôn.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Vân hà chân ngôn pháp giáo?
(經)祕密主!云何真言法教?
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Thế nào là pháp giáo chân ngôn?)
Tức
là nói các môn như chữ A v.v… chính là giáo tướng của chân ngôn. Tuy Tướng
chẳng khác Thể, Thể chẳng khác Tướng, Tướng chẳng tạo tác, tu đã thành tựu,
chẳng thể chỉ bày cho người khác, nhưng có thể chẳng lìa giải thoát, hiện làm
âm thanh và chữ. Mỗi mỗi chữ và âm thanh chính là nhập pháp giới môn. Vì thế,
được gọi là “pháp giáo chân ngôn”. Luận định pháp giáo chân
ngôn, hãy nên trọn khắp hết thảy các danh ngôn trong các nơi, các đường; nhưng
do thoạt đầu Như Lai thị hiện dấu tích xuất thế tại Thiên Trúc, người truyền
pháp bèn dựa theo tiếng Phạn để làm phương cách nêu bày ý nghĩa vậy!
(Kinh)
Vị A tự môn, nhất thiết chư pháp bổn bất sanh cố.
(經)謂阿字門,一切諸法本不生故。
(Kinh:
Tức môn chữ A, do hết thảy các pháp vốn chẳng sanh).
Chữ
A (अ)
là cái gốc của hết thảy các giáo pháp. Phàm âm thanh khi ban sơ mở miệng đều có
âm A. Nếu lìa âm A, sẽ chẳng có hết thảy các ngôn thuyết. Vì thế, [chữ A] là mẹ
của các âm thanh. Phàm ngôn ngữ trong tam giới đều nương vào danh, mà danh
nương vào chữ. Vì thế, chữ A trong Tất Đàm[23] cũng là mẹ của các chữ. Hãy
nên biết nghĩa chân thật của môn chữ A cũng lại giống như thế này: “Thuộc
vào trọn khắp hết thảy các pháp nghĩa”. Vì lẽ nào vậy? Do hết thảy các
pháp không gì chẳng sanh từ các duyên. Hễ sanh từ duyên thì đều có khởi đầu, có
cội gốc. Nay quán cái duyên có thể sanh ấy, cũng lại sanh từ các nhân duyên,
lần lượt từ duyên, cái gì là gốc? Khi quán sát như thế, sẽ biết: Cái “vốn chẳng
sanh” chính là cái gốc của vạn pháp. Giống như khi nghe hết thảy ngôn ngữ, thì
chính là nghe âm thanh của chữ A. Khi thấy hết thảy các pháp sanh như thế,
chính là thấy cái gốc chẳng sanh. Nếu thấy cái gốc chẳng sanh, tức là đúng như
thật biết tự tâm. Đúng như thật biết tự tâm chính là trí Nhất Thiết Trí; do
vậy, đức Tỳ Lô Giá Na chỉ dùng một chữ này làm chân ngôn. Nhưng phàm phu trong thế
gian do chẳng quán cội nguồn của các pháp, hư vọng thấy có sanh, cho nên thuận
theo sanh tử mà lưu chuyển, chẳng thể tự thoát! Như thợ vẽ vô trí, tự dùng các
màu vẽ thành hình tướng Dạ Xoa đáng sợ. Vẽ xong, lại tự xem, tâm sanh kinh hãi,
ngã lăn ra đất. Chúng sanh cũng lại giống như thế, tự vận dụng cội nguồn của
các pháp, vẽ ra tam giới, vẫn tự chìm đắm trong đó, tự tâm hùng hực hứng chịu
trọn các nỗi khổ! Như Lai là họa sĩ đã biết rõ rồi, liền có thể tự tại thành
lập Đại Bi Mạn-đồ-la. Do vậy bèn nói, cái gọi là “bí tạng rất sâu” chính
là do chúng sanh tự bí mật đó thôi, chẳng phải là Phật có ẩn tàng!
(Kinh)
Ca tự môn, nhất thiết chư pháp ly tác nghiệp cố.
(經)迦字門,一切諸法離作業故。
(Kinh:
Môn chữ Ca (क, Ka), do hết thảy các pháp lìa tác
nghiệp).
Ca
Rị Da (Kārya) trong tiếng Phạn có
nghĩa là “tác nghiệp”. Như các ngoại đạo chấp trước có tác
giả, có người sai khiến làm v.v… Luận sư thuộc các bộ cũng nói có tác, có tác
giả, có pháp được sử dụng để tạo tác, do ba sự hòa hợp bèn có quả báo. Nếu
do phương tiện Bát Nhã mà bảo là có quyết định, tức là đọa vào “không
có nhân”. Nếu đọa vào “không có nhân” thì hết thảy
các pháp sẽ là không có nhân quả. Pháp có thể sanh được gọi là Nhân, pháp được
sanh ra thì gọi là Quả. Do hai pháp là không, tác và tác giả, pháp được sử dụng
để tạo tác, tội phước, quả báo, và Niết Bàn đạo, hết thảy đều là chẳng có. Lại
nữa, tác và tác giả do nhân mới sanh, nếu quyết định có pháp để tạo tác, thì sẽ
nhất định có tác giả (người làm), đều chẳng khác nghị luận của ngoại đạo, như
trong phẩm Quán Tác Tác Giả của Trung Luận đã nói cặn kẽ. Nay chánh quán sát
tác và tác giả v.v… đều sanh từ các duyên, liền nhập ngằn mé “vốn bất sanh”.
Ngằn mé “vốn bất sanh” dù có Phật hay không có Phật, pháp vẫn vốn sẵn là như
thế, ai là người cầm đầu tạo tác? Do vậy, thấy chữ Ca, sẽ biết hết thảy
các pháp đều do tạo tác mà thành, đó gọi là “tự tướng”. Nếu là
tác pháp, sẽ biết là rốt ráo vô tác. Đó gọi là nghĩa chân thật.
(Kinh)
Khư tự môn, nhất thiết chư pháp đẳng hư không bất khả đắc cố.
(經)佉字門,一切諸法等虛空不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Khư, do hết thảy các pháp như hư không chẳng thể được).
Chữ
Khư (ख,
Kha) trong tiếng Phạn có nghĩa là hư không. Thế gian cùng chấp nhận “hư không
là pháp vô sanh, vô tác”. Nếu hết thảy các pháp vốn bất sanh, lìa các tạo tác,
sẽ rốt ráo như tướng hư không; nhưng cái tướng Không ấy cũng lại chẳng thể
được! Vì lẽ nào vậy? Như chỗ không có sắc trong thế gian được gọi là hư không
tướng. Sắc là pháp tạo tác, vô thường. Nếu sắc chưa sanh thì “sắc chưa sanh”
chính là chẳng diệt. Lúc bấy giờ, chẳng có tướng hư không. Do sắc mà có Vô Sắc
Xứ. Vô Sắc Xứ được gọi là Không, phẩm Quán Lục Chủng của Trung Luận đã nói cặn
kẽ. Ở đây, cũng có ý nghĩa như thế. Nếu sắc vốn chẳng sanh, vì sao gọi là Vô
Sắc Xứ? Vô Sắc Xứ chẳng thể nói, tức là hư không chẳng có tướng nhất định. Lại
nữa, các pháp như tướng hư không, tức là Niết Bàn chẳng có tướng hư dối, như
kinh nói “Ngũ Ấm diệt, sẽ chẳng sanh gì khác”. Ngũ Ấm chính là
nghĩa Niết Bàn. Nếu Ngũ Ấm vốn bất sanh, nay có chỗ nào diệt mà gọi là Niết Bàn
ư? Vì thế, “như tướng hư không” cũng chẳng thể được. Đó là ý nghĩa chân thật
của môn chữ Khư.
(Kinh)
Nga tự môn, nhất thiết chư pháp, nhất thiết hành bất khả đắc cố.
(經)哦字門,一切諸法一切行不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Nga (ग, Ga), do hết thảy các pháp và hết thảy
hành đều chẳng thể được).
Tiếng
Phạn là Nga Đá Dã (Gataya), được gọi là Hành. Hành có nghĩa “đi, đến, tiến,
lùi, chẳng trụ”. Nay từ môn chữ A để xoay vần giải thích. Do các pháp vốn chẳng
sanh, nên vô tác. Do vô tác, nên chẳng có gì đối đãi để có thể nói là Không.
Không tức là Bất Hành Xứ. Bất Hành Xứ còn chẳng thể được, huống hồ Hành Xứ ư?
Phẩm Quán Khứ Lai của Trung Luận đã nói về ý nghĩa của Hành và Chỉ. Do liên tục
nên gọi là Hành. Như từ hạt thóc sanh ra mầm, thân, lá, và vô minh duyên các
hành v.v… Do đoạn nên gọi là Chỉ, như hạt thóc diệt nên mầm, thân, diệt. Do vô
minh diệt, nên các hành v.v… diệt. Nếu pháp đã hành, sẽ là vô hành. Do đã hành,
nên cái chưa hành cũng sẽ là vô hành. Do chưa có hành pháp, hành thời (lúc thực
hiện) cũng là vô hành, do chẳng lìa đã hành và chưa hành. Do các thứ môn quán
sát như thế rốt ráo vô hành. Do vô hành nên chẳng có cái để chỉ. Do vô hành, vô
chỉ, nên chẳng qua lại các đường, mà cũng chẳng trụ Niết Bàn. Lại nữa, nếu
người chẳng lìa chỗ mình đang ở thì chính là không có chỗ đến. Hãy nên biết
người ấy chẳng hành, chẳng đến. Vì thế nói “hết thảy các hành đều chẳng
thể được”.
(Kinh)
Già tự môn, nhất thiết chư pháp nhất hợp bất khả đắc cố.
(經)伽字門,一切諸法一合不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Già (घ, Gha), hết thảy các pháp hợp nhất chẳng
thể được).
Già Na
(Ghaṇa) trong tiếng Phạn có nghĩa
là “mật hợp” (ngầm kết hợp). Như các thứ tướng nhỏ nhiệm hợp
thành một tế trần, các Uẩn kết hợp thành một thân v.v… Trong phẩm Quán Hợp
của Trung Luận, các luận sư đã nói: “Do ba sữ là Thấy, cái có thể thấy,
và người thấy, mà có cái được thấy. Hãy nên biết cái hợp lại để nghe, cái có
thể nghe, và người nghe, cho đến nhiễm, cái có thể nhiễm, và người nhiễm v.v…
Các phiền não cũng thế”. Đáp rằng: Phàm mọi vật đều do khác nhau mà có
hợp, nhưng nay tướng khác biệt của hết thảy các pháp chẳng thể được. Do vậy,
chẳng hợp. Như luận ấy (Trung Luận) đã nói rộng. Dùng tự môn để xoay vần giải
thích, lại dùng nghĩa Hành để giảng giải. Phàm có cái được hành, hãy nên biết
ắt có hành, cái có thể hành, và người hành, ba sự kết hợp. Nay do hết thảy các
pháp vốn bất sanh, sẽ không có cái được hành. Nếu không có cái được hành, thì
hành, có thể hành, và người hành sao có thể hợp lại cho được? Lại nữa, nếu các
pháp mỗi mỗi đều có tướng khác, rốt cuộc sẽ chẳng có lúc kết hợp. Nếu đạt tới
ngằn mé “vốn bất sanh”, thì “không có tướng khác” cũng chẳng thể hợp được. Vì
thế, hết thảy các pháp rốt ráo chẳng hợp.
(Kinh)
Giá tự môn, nhất thiết chư pháp ly nhất thiết thiên biến cố.
(經)遮字門,一切諸法離一切遷變故。
(Kinh:
Môn chữ Giá (च, Ca), hết thảy các pháp lìa hết thảy đổi
dời).
Giá
Dữu Để (Cyuti) trong tiếng Phạn có nghĩa là “đổi dời”. Hơn nữa, Giá Rị Da
trong tiếng Phạn nghĩa là “các hành”. Như khi thấy chữ Giá, liền biết các hành
biến đổi chẳng trụ. Phẩm Quán Hành trong Trung Luận đã viết: “Các hành
gọi là Ngũ Ấm, do từ các hành mà sanh. Ngũ Ấm ấy đều là hư vọng, chẳng có
tướng nhất định. Như sắc tướng từ trẻ nít cho đến sắc tướng khi lão niên, trong
khoảng ấy, chẳng trụ trong mỗi niệm. Phân biệt quyết định tánh chẳng thể được.
Tánh là quyết định có, chẳng thể biến đổi khác. Như vàng ròng bất biến. Nay các
pháp tuy sanh, chẳng trụ trong tự tánh. Vì thế, hãy nên biết là vô tánh”,
như trong luận ấy đã nói cặn kẽ. Nếu vô tánh tức là thoạt đầu vốn chẳng sanh,
thì “vốn thoạt đầu chẳng sanh” tức là thân Như Lai, thường hằng an trụ, chẳng
có thay đổi. Vì thế nói là “ly thiên biến” (lìa đổi dời). Lại
nữa, nếu hết thảy các pháp do hòa hợp mà thành thì sẽ có đổi dời. Nay các pháp
vô sanh, vô tác, cho đến vô sở hành, cho nên chẳng có hòa hợp. Do chẳng có hòa
hợp, nên lìa hết thảy đổi dời. Phàm các tự môn sẽ đều nghịch thuận xoay vần
giải thích lẫn nhau, chẳng vướng mắc. Nay chỉ dựa theo thứ tự nối tiếp nhau [để
giải thích] đó thôi!
(Kinh)
Xa tự môn, nhất thiết chư pháp ảnh tượng bất khả đắc.
(經)車字門,一切諸法影像不可得。
(Kinh:
Môn chữ Xa (छ, Cha), hình ảnh của hết thảy các pháp
chẳng thể được).
Tiếng
Phạn, Xa Dã (Chāyā) có nghĩa là “ảnh”. Như bóng người đều
nương vào tự thân. Cũng thế, vạn pháp trong tam giới chỉ là do thức tâm nhân
duyên biến hiện, giống như các cảnh, chuyện này như kinh Mật Nghiêm đã rộng
nói. Cho đến người tu Du Già có đủ loại chuyện chẳng thể nghĩ bàn, hoặc có thể
diện kiến mười phương chư Phật, hiện trọn khắp sắc thân, cũng đều là bóng dáng
của cái tâm. Do tâm vốn bất sanh, hãy nên biết hình bóng cũng chẳng được sanh.
Do chẳng được sanh, cho đến do tâm chẳng đổi dời, hình bóng cũng chẳng đổi dời.
Vì lẽ nào vậy? Như hình bóng không có tánh nhất định mà “đi, ngừng” theo thân;
hình bóng của cái tâm cũng thế. Do tâm động tác, hý luận, không có niệm nào
ngưng trụ, muôn công dụng trong thế gian cũng lại lưu chuyển theo. Nếu lúc hiểu
rõ tướng như thật của cái tâm, hình bóng cũng là tướng như thật, cho nên chẳng
thể được!
(Kinh)
Nhạ tự môn, nhất thiết chư pháp sanh bất khả đắc cố.
(經)惹字門,一切諸法生不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Nhạ (ज, Ja), hết thảy các pháp sanh chẳng thể
được).
Nhạ
Đá (Jāta) trong tiếng Phạn cũng có nghĩa là Sanh. Như do đất sét, bàn xoay,
dây, thợ gốm v.v… hòa hợp, nên mới sanh ra cái bình. Do sợi tơ, khung dệt, thợ
dệt v.v… hòa hợp mới sanh ra tấm vải. Do cuộc đất, nền đắp, kèo, rường, bùn,
cỏ, sức người v.v… hòa hợp mới sanh ra nhà. Do lạc, đồ đựng lạc, công người
khuấy đảo v.v… hòa hợp nên mới sanh ra tô. Do hạt giống, đất, nước, lửa,
gió, hư không, thời tiết v.v… hòa hợp mới sanh ra mầm. Nhân duyên của nội pháp
cũng giống như thế. Do vô minh, hành v.v… mỗi thứ đều sanh, cho nên lại sanh.
Vì thế, nếu thấy môn chữ Nhạ, liền biết hết thảy các pháp không gì chẳng sanh
từ duyên. Như kệ đã nói: “Pháp sanh bởi nhân duyên, chính là vô tự
tánh. Nếu là vô tự tánh, sao lại có pháp ấy?” Do đó, sanh chẳng thể
được! Luận sư ngoại đạo nói đủ thứ tà nhân duyên hoặc vô nhân duyên sanh ra hết
thảy các pháp. Trong Phật pháp, cũng có người do đánh mất phương tiện Bát Nhã,
nên chấp trước tướng sanh diệt nơi nhân duyên, như Trung Luận đã đả phá cặn kẽ.
Lại nữa, môn chữ A là các pháp bổn tánh chẳng sanh, môn chữ Nhạ dùng mười thí
dụ để quán “sanh tuy từ duyên mà có, nhưng chẳng thể được!” Nếu sanh đã là rốt
ráo chẳng thể được, sẽ chẳng khác với vô sanh tế. Lại nữa, mười thí dụ chính là
hình bóng của tâm, chẳng ra ngoài pháp giới. Vì thế, Sanh cũng chẳng ra ngoài
Vô Sanh Tế.
(Kinh)
Xã tự môn, nhất thiết chư pháp chiến địch bất khả đắc
cố.
(經)社字門,一切諸法戰敵不可得故 。
(Kinh:
Môn chữ Xã (झ, Jha), sự chống trái nhau của hết thảy các
pháp đều chẳng thể được).
Trong
tiếng Phạn, Xã Ma La (Jhamala) có nghĩa là “đối địch”. Nếu
thấy chữ Xã, liền biết hết thảy các pháp đều có đối địch, như pháp thiện và bất
thiện trong thế gian, pháp trái nghịch dòng sanh tử và pháp xuôi theo dòng sanh
tử, bố thí và keo tham, trì giới cho đến trí huệ, vô minh v.v… đều là đối đãi,
thắng, bại, vô thường. Cho đến Như Lai xuất thế, dùng sức Nhất Thiết Trí phá lũ
quân ma, cũng gọi là Chiến. Nhưng trong hết thảy các pháp, nghĩa ấy chẳng
thành, trí huệ và phiền não rốt cuộc thuộc về ai, mà nói Tỳ Bà Xá Na
(Vipassanā) có thể phá phiền não? Nếu nói “khi sáng sanh thì tối diệt”, thì gọi
là phá. Vậy thì do đã sanh nên phá? Hay do chưa sanh mà phá ư? Đã sanh thì
chẳng còn tối, còn phá chỗ nào? Chưa sanh thì tự chẳng có cái Thể, sao có
thể phá cho được? Nếu lúc sanh, thì gọi là nửa đã sanh, nửa chưa sanh. Vì thế
nói “sáng, tối rốt ráo chẳng đạt được”. Lại nữa, hết thảy các
pháp vốn bất sanh, cho đến do chẳng có hình bóng, sẽ cùng là một tướng, chẳng
vượt ngoài Như. Vậy thì Phật giới Như chiến đấu với ma giới Như ra sao? Do vậy,
khi đức Phật ngồi đạo tràng, chỉ biết rõ “các pháp không có đối đãi”, nhưng thế
gian bàn luận, tự lập ra danh xưng “chiến thắng” đó thôi!
(Kinh)
Trá tự môn, nhất thiết chư pháp, mạn bất khả đắc cố.
(經)吒字門,一切諸法慢不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Trá (ट, Ṭa),
trong hết thảy các pháp, mạn chẳng thể được).
Trong
tiếng Phạn, Trá Ca Ra có nghĩa là Mạn, tức là thấy pháp kia thấp hèn, pháp này
cao thắng. Như trong tam giới, sáu đường đủ loại hơn kém khác nhau, dấy khởi
mạn tâm vô lượng sai biệt. Nói đại lược, có bảy loại tướng[24], như trong Tỳ Đàm (A Tỳ Đạt Ma) đã
nói rộng. Cho tới người cầu tam thừa, vẫn có kiến chấp thượng địa, hạ địa chẳng
bình đẳng, nay quán các pháp vô sanh, cho đến chẳng có đối đãi, liền biết A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là pháp bình đẳng, chẳng có cao, thấp. Vì thế, Như Lai
còn được gọi là Nhất Thiết Kim Cang Bồ Tát, cũng gọi là Tứ Quả Thánh Nhân, cũng
gọi là phàm phu ngoại đạo, cũng gọi là chúng sanh trong các thứ đường ác, cũng
gọi là kẻ ngũ nghịch tà kiến. Đại Bi Mạn-đồ-la nhằm biểu thị ý nghĩa này!
(Kinh)
Trá tự môn, nhất thiết chư pháp trưởng dưỡng bất khả đắc cố.
(經)咤字門,一切諸法長養不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Trá (ठ, Ṭha), hết thảy các pháp trưởng dưỡng chẳng
thể được).
Trong
tiếng Phạn, Tỳ Trá Bát Na (Viṭhapana) có nghĩa là trưởng dưỡng. Như trong
thế gian, chủng tử (hạt giống) làm nhân, năm đại và thời tiết làm duyên, lần
lượt tăng trưởng thành quả hạt. Nội pháp cũng thế, trong ruộng nghiệp gieo
xuống chủng tử, bị vô minh che phủ, nước ái nhuần thấm mà được sum suê, như
trong kinh Đạo Can đã rộng nói. Nay trong kinh này, tám tâm liên tục tăng
trưởng trái nghịch hay thuận tùng thế gian cũng có nhân duyên, cho đến Bồ Đề
tâm thanh tịnh dùng năm tự môn (A, Phạ, Ra, Ha, Khư) để làm duyên, sanh ra rễ
đại bi. Cây sa-la của Phật tăng trưởng, che rợp khắp pháp giới. Nhưng hết thảy
các pháp do năm tự môn ấy vốn bất sanh, lìa ngôn thuyết, tự tánh tịnh, chẳng có
nhân duyên, như tướng hư không, chẳng thể trưởng dưỡng được. Lại nữa, từ chữ A,
Ca trở đi, lần lượt giải thích, cho đến các pháp rốt ráo bình đẳng, chẳng có
cao, thấp. Do chẳng có cao, thấp, hãy nên biết tức là chẳng có tăng trưởng!
(Kinh)
Noa tự môn, nhất thiết chư pháp, oán đối bất khả đắc cố.
(經)拏字門,一切諸法怨對不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Noa (ड, Ḍa),
hết thảy các pháp, oán đối chẳng thể được).
Trong
tiếng Phạn, nói Noa Ma Ra (Ḍamara) thì có nghĩa là “oán đối”. Như
thế gian cừu thù báo oán lẫn nhau; vì thế gọi là Đối. Hơn nữa, trong phần trước
nói “chiến địch” tức là đôi bên công kích lẫn nhau, còn “oán
đối” ở đây hàm nghĩa “tỵ cừu” (tránh né cừu thù),
trong tiếng Phạn mỗi danh từ khác nhau. Trong Tỳ Ni, đức Phật dạy “dùng
oán để báo oán, oán trọn chẳng dứt”, chỉ có vô oán thì oán mới dứt
bặt. Lại nói nữ nhân là oán đối của người hành Phạm hạnh. Kinh Vô Lượng Nghĩa
cũng nói “sanh tử oán địch tự nhiên tan hoại”. Chứng Vô Sanh
Nhẫn là một nửa của báu nơi cõi Phật. Vì thế, hành giả khi thấy môn chữ Noa, sẽ
biết hết thảy các pháp đều có oán đối, gọi là biết rõ “tự tướng” (tướng
trạng của chữ). Lại do các pháp vốn bất sanh, cho tới chẳng thể trưởng dưỡng.
Vì thế, Như Lai rốt ráo chẳng có oán đối; đó chính là nghĩa chân thật của tự
môn.
(Kinh)
Đồ tự môn, nhất thiết chư pháp chấp trì bất khả đắc cố.
(經)荼字門,一切諸法執持不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Đồ (ढ, Ḍha),
hết thảy các pháp chấp trì chẳng thể được).
Trong
tiếng Phạn, Đường Ca (Ḍhaṅka) nghĩa là “chấp trì”. Do
trên chữ Đồ (Ḍha), thêm một chấm, sẽ chuyển âm đọc thành Đường, nhưng Thể của
nó tương đồng. Lại nói Nghiệt Rị Hà (Graha) cũng là tên gọi khác của chữ này.
Kinh nói bị quỷ mị dựa, hoặc bị phi nhân nắm giữ, Trí Độ Luận nói Trước Tương (著襄, dựa dẫm quấy phá),
đều do quỷ Nghiệt Rị Hà gây ra. Lại [do quỷ] dựa vào người sẽ chẳng lìa bỏ, nên
đặt tên như thế. Mặt trời, mặt trăng, năm tinh tú, [cùng với Kế Đô và La Hầu]
cũng là từ đầu đến cuối nương theo nhau, tiếng Phạn gọi là Nghiệt Rị Hà, dịch
nghĩa là Cửu Chấp (九執).
Khi chúng tụ hội một chỗ, lịch Thiên Trúc gọi lúc ấy là Chánh Trước Thời (正著時). Nghĩa “chấp trì” ấy
khác với chữ Đà La (Dhara). Thấy môn chữ Đồ này, liền biết hết thảy chúng sanh
từ vô thỉ tới nay, bị bốn ma[25] dựa, chẳng thể lìa bỏ; đó là
tướng danh tự. Nay dùng các môn như chữ A v.v… để xoay vần mà quán “hết thảy
các pháp đều chẳng thể được”, sẽ biết hết thảy các pháp chẳng có oán đối. Do
oán đối vốn chẳng sanh, trọn chẳng do pháp giới bình đẳng mà chấp trước pháp
giới bình đẳng. Vì thế nói “hết thảy các pháp, chấp trì đều chẳng thể
được”!
(Kinh)
Đa tự môn, nhất thiết chư pháp như như bất khả đắc cố.
(經)多字門,一切諸法如如不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Đa (त, Ta), hết thảy các pháp như như chẳng thể
được).
Trong
tiếng Phạn, Đá Tha Đa (Tathātā) có
nghĩa là Như Như. Xét theo ngữ điệu thì kèm thêm cả ý “đắc”. Chứng
đắc Như Như chính là ý nghĩa giải thoát. “Như” là Thật Tướng
của các pháp; các thứ hý luận, kiến chấp chẳng thật đều diệt, thường như bổn
tánh chẳng thể phá hoại. Nếu thấy môn chữ Đa, liền biết hết thảy các pháp đều
là tướng Như Như. Đó là tướng trạng của chữ [Đa]. Nhưng có một loại ngoại đạo
chấp trước “có tánh Như Như”, nếu thấy biết điều ấy thì gọi là
“giải thoát”. Tuy nói như thế, chỉ là chuyển sang gọi Ngã Kiến bằng một danh
xưng khác. Ngài Long Thọ cho rằng “pháp trụ” được nói trong
kinh Thanh Văn cũng là nghĩa Như Như của các pháp. Do sở nhập chưa sâu, mà họ
(các vị Thanh Văn) sanh ý tưởng diệt độ, ngỡ là đã chứng Niết Bàn. Nhưng sanh
tử và Niết Bàn là pháp đối đãi; nếu biết sanh tử từ cội gốc đã thường là như
tướng Niết Bàn, há còn đối ứng với gì để nói là Niết Bàn được nữa? Do vậy, hết
thảy các pháp rốt ráo chẳng thật, chẳng hư, chẳng như, chẳng khác. Trung Luận
cũng nói: “Thật Tế Niết Bàn và thế gian tế, hai tế như thế chẳng khác
mảy may”. Do chẳng sai biệt, hết thảy các pháp chẳng có oán đối. Do chẳng
có oán đối, nên chẳng chấp trì. Do chẳng chấp trì nên cũng là chẳng có Như Như
giải thoát.
(Kinh)
Tha tự môn, nhất thiết chư pháp trụ xứ bất khả đắc cố.
(經)他字門,一切諸法住處不可得故 。
(Kinh:
Môn chữ Tha (थ, Tha), trụ xứ của hết thảy các pháp chẳng
thể được).
Trong
tiếng Phạn, Tát Tha Na (Sthāna) nghĩa là “trụ xứ”, cũng có nghĩa là Trụ.
Như người từ trụ xứ này dời sang chỗ khác, thì chỗ ở đó cũng được gọi là Trụ.
Các địa vị thánh hiền cũng như thế; xét theo chỗ nương tựa, an trụ trong tâm
tích (dấu tích nơi tâm) của những người hành đạo mà nói đủ loại danh xưng. Nếu
khi thấy chữ Tha, liền biết hết thảy các pháp không gì chẳng đợi duyên mà
thành, hãy nên biết chúng đều có chỗ y trụ. Đó là tướng trạng của chữ này.
Nhưng các pháp vốn bất sanh, cho tới Như Như giải thoát cũng chẳng thể được,
nên chẳng đến, chẳng đi, chẳng hành, chẳng trụ. Trong tướng tịch diệt như thế,
há có địa vị theo thứ lớp hay chăng? Lại nữa, khi nhập môn chữ Tha, do biết rõ
các pháp đều là không, chẳng trụ trong sanh tử, tức là do Như Như cũng chẳng
thể được, sẽ chẳng trụ trong Niết Bàn. Lúc bấy giờ, hành xứ dứt bặt, các địa vị
đều hết, trọn khắp hết thảy mọi nơi đích xác là chẳng có chỗ nương tựa. Đó gọi
là do chẳng trụ trong pháp mà trụ trong đại trụ của Như Lai.
(Kinh)
Na tự môn, nhất thiết chư pháp thí bất khả đắc cố.
(經)娜字門,一切諸法施不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Na (द, Da)[26], trong hết thảy các pháp, Thí
chẳng thể được).
Trong
tiếng Phạn, Đàn Na (Dāna) nghĩa là “xả thí”. Nếu thấy chữ Na, liền biết hết
thảy các pháp đều là tướng có thể xả. Vì lẽ nào vậy? Do hết thảy các pháp tan
lìa hay kết hợp đều do duyên, chẳng hề tồn tại chắc chắn. Nếu chấp trước, sanh
yêu mến nơi đó, ắt sẽ bị thiêu đốt. Cho đến các vị Bồ Tát thuộc Thập Địa, do
công đức tịnh diệu sanh từ địa vị của chính mình chưa đạt tới “xả bờ
kia”, vẫn còn có thoái thất chẳng thể nghĩ bàn, chẳng được gọi là Đệ
Nhất An Lạc Xứ. Nay do quán các pháp bất sanh, người thí, chỗ thí và vật để thí
thảy đều vốn bất sanh, cho tới hết thảy các pháp chẳng có trụ xứ. Do chẳng có
trụ xứ, tức là ba chuyện ấy cũng chẳng có trụ xứ. Vì thế, đức Phật ngồi đạo
tràng đều chẳng có gì để có thể đạt được, mà cũng chẳng có gì để xả. Trong Hư
Không Tạng, chẳng có gì chất chứa, nhưng phổ môn lưu xuất thí trọn khắp quần
sanh. Đó gọi là Thật Tướng của Đàn (bố thí), mà cũng gọi là “trọn đủ
Đàn Ba La Mật”. Lại nữa, tạng báu bí mật của Như Lai đều là pháp vốn
sẵn như thế, đó gọi là “chẳng thể truyền trao cho người khác”. Nếu
lúc thí cho người khác, vẫn là từ trong tâm thất của chúng sanh mà khơi mở đó
thôi! Vì thế, kinh dạy: “Nhất thiết chư pháp, thí bất khả đắc, danh vi
tự môn chân thật nghĩa” (Hết thảy các pháp thí chẳng thể được, gọi là
nghĩa chân thật của tự môn).
(Kinh)
Đà tự môn, nhất thiết chư pháp, pháp giới bất khả đắc cố.
(經)馱字門,一切諸法法界不可得。
(Kinh:
Môn chữ Đà (ध, Dha), trong hết thảy các pháp, pháp giới
chẳng thể được).
Trong
tiếng Phạn, Đạt Ma Đà Đô (Dharmadhātu) là
pháp giới. Giới có nghĩa là Thể, là Phần. Xá-lợi của Phật cũng gọi là Như Lai
Đà Đô, ý nói là thân phần của Như Lai. Nếu thấy môn chữ Đà, sẽ biết hết thảy
các pháp thảy đều có Thể, tức là dùng pháp giới làm Thể. Vì lẽ nào vậy? Nếu lìa
Thật Tướng của các pháp, thì ý nghĩa “Thể của hết thảy các pháp” đều chẳng
thành. Pháp giới chính là tâm giới. Do tâm giới vốn bất sanh, hãy nên biết pháp
giới cũng vốn bất sanh. Cho đến do tâm giới chẳng đắc, chẳng xả, hãy nên biết
pháp giới cũng chẳng đắc, chẳng xả. Xả còn tự không có, chẳng có pháp để có thể
xả, huống hồ có thể đắc ư? Nếu pháp giới là tướng có thể đạt được, tức là từ
các nhân duyên mà sanh. Nếu sanh từ các nhân duyên, hãy nên biết tự nó chẳng có
bản thể, huống hồ là Thể của các pháp ư? Vì thế, pháp giới chỉ là tự chứng
thường tâm, chẳng có pháp nào khác. Lại nữa, Như Lai đại thí chính là Đại Bi
Mạn-đồ-la. Pháp giới chính là phổ môn Thật Tướng. Thật Tướng như thế chẳng thể
dùng thần lực gia trì để dạy người khác. Vì thế, không có pháp để có thể đạt
được!
(Kinh)
Ba tự môn, nhất thiết chư pháp Đệ Nhất Nghĩa Đế bất khả đắc cố.
(經)波字門,一切諸法第一義諦不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Ba (प, Pa), Đệ Nhất Nghĩa Đế trong hết thảy các
pháp chẳng thể đạt được).
Trong
tiếng Phạn, Ba La Ma Tha (Paramārtha) dịch thành Đệ Nhất Nghĩa, hoặc là
Thắng Nghĩa. Tát Để Dã (Satya) được dịch thành Đế. Ý nghĩa của Đế được nói
trong môn chữ Sa. Nay trong môn chữ Ba này, chủ yếu nói về tướng của Đệ Nhất
Nghĩa. Ngài Long Thọ nói: “Đệ Nhất Nghĩa là Thật Tướng của các pháp, do
chẳng phá, chẳng hoại”. Lại nữa, bậc nhất trong các pháp là Niết Bàn,
như A Tỳ Đàm nói: “Thế nào là pháp vô thượng? Chính là trí duyên đã
hết”. Trí duyên đã hết chính là Niết Bàn. Nếu thấy chữ Ba, sẽ biết hết
thảy các pháp chẳng lìa Đệ Nhất Nghĩa, Đệ Nhất Nghĩa chẳng lìa Thật Tướng của
các pháp. Đó là tướng của chữ này. Nếu xét theo nghĩa chân thật của tự môn thì
Đệ Nhất Nghĩa cũng chẳng thể được. Vì lẽ nào vậy? Do chẳng yêu mến, chẳng đắm
chấp. Trí Độ Luận lại nói: “Do chúng sanh chấp trước âm thanh Niết Bàn,
mà tạo thành hý luận, hoặc có, hoặc không. Do phá chấp trước, bèn nói Niết Bàn
là không, gọi là Đệ Nhất Nghĩa Không. Chẳng phá pháp đạt được trong tâm thánh
nhân, do thánh nhân đối với hết thảy các pháp đều chẳng chấp tướng”. Lại
nữa, hết thảy các pháp đều nhập pháp giới bình đẳng, chẳng có cao, thấp, há có
nên khiến cho trong pháp vô sanh có tướng hơn kém ư? Vì vậy, Đệ Nhất Nghĩa Đế
chẳng thể được!
(Kinh)
Phả tự môn, nhất thiết chư pháp bất kiên như tụ mạt cố.
(經)頗字門,一切諸法不堅如聚沫故。
(Kinh:
Môn chữ Phả (फ, Pha), hết thảy các pháp chẳng cứng chắc
như bọt nước).
Phái
Nô (Phena) trong tiếng Phạn được dịch thành Tụ Mạt (聚沫, bọt nước đọng). Như sóng mòi nơi chỗ nước
lớn va đụng nhau mà tạo thành bọt nước, có đủ loại tướng sanh, thậm chí kết nối
với nhau bèn có tướng kiên cố. Nhưng mỗi mỗi quán sát từ thô tới tế, chỉ là từ
duyên lại từ duyên, chẳng thể nắm bắt, sờ chạm, đều chẳng có thật tánh. Xét đến
bản chất, toàn thể đều là nước, chẳng có gì được sanh ra. Các thứ Ngũ Ấm trong
thế gian hiện thời cũng đều là như thế. Nay “gom ngọn về gốc, bỏ trượng
theo thước” để quán sát, thậm chí như trong khoảng mảy may mà có dao
động vi tế, sẽ đều lần lượt từ duyên. Nếu là từ các duyên mà sanh, sẽ chẳng có
tự tánh. Nếu chẳng có tự tánh, hãy nên biết sanh chính là chẳng sanh. Còn như
đạt tới bổn bất sanh tế, chỉ là biển tâm tánh đó thôi! Nhưng thuận theo tình
kiến hư vọng trong sáu đường, bèn có tên gọi “thế giới”. Biển
tâm tánh chính là pháp giới, pháp giới chính là thắng nghĩa Niết Bàn. Khi nếu
có thể thấy như thế, dẫu sóng to vây bủa, tạo thành đủ loại sắc thân hiện trọn
khắp, vẫn chẳng hoại tánh trong lặng!
(Kinh)
Ma tự môn, nhất thiết chư pháp phược bất khả đắc cố.
(經)麼字門,一切諸法縛不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Ma (ब, Ba)[27], trong hết thảy các pháp, trói
chẳng thể được).
Mãn
Đà (Bandha) trong tiếng Phạn được cõi này dịch là Phược (trói buộc). Như người
bị dây thừng thô to bó chặt, chẳng thể cử động, đó là nghĩa “trói buộc”. Nếu
lúc dùng phương tiện để tháo gỡ sự trói buộc ấy, thì gọi là giải thoát. Nếu lìa
khỏi dây trói nơi thân, chẳng có pháp nào khác để trói buộc hay cởi gỡ. Như
Thiên Đế Thích dùng vi tế phược để trói A Tu La vương, đặt trên trời Đao Lợi.
Khi [A Tu La vương] khởi niệm muốn trở về, thì thân đã bị trói buộc năm chỗ;
nếu dứt niệm thì trói buộc tự tháo gỡ. Như lưới rập của Ba Tuần lại còn gấp
trăm ngàn lần số ấy, huống hồ sự trói buộc vô vi bởi nghiệp phiền não ư? Nói
tóm lại, nếu lìa các nhân duyên, chẳng đọa trong các pháp số, thì gọi là “vô
phược” (không trói buộc). Đó là ý nghĩa của chữ [Ma này]. Trung Luận
nói: “Lìa Ngũ Ấm mà riêng có chúng sanh, hãy nên dùng Ấm để trói chúng
sanh, nhưng thật sự lìa Ngũ Ấm, sẽ chẳng có chúng sanh. Nếu lìa Ngũ Ấm mà riêng
có phiền não, hãy nên dùng phiền não để trói Ngũ Ấm, nhưng thật sự lìa Ngũ Ấm
thì chẳng có phiền não nào khác! Do các thứ nhân duyên như thế, hãy nên biết là
chẳng trói buộc. Chẳng trói buộc thì chẳng cởi gỡ. Do chẳng có trói buộc hay
cởi gỡ, nên Niết Bàn chính là sanh tử, sanh tử chính là Niết Bàn”. Như
phẩm Quán Phược Giải [trong Trung Luận] đã nói cặn kẽ. Lại nữa, nếu các pháp
vốn sẵn bất sanh, cho đến như bọt nước, trong ấy ai có thể cởi gỡ? Ai bị trói
buộc? Do đó, các trói buộc đều chẳng thể được!
(Kinh)
Bà tự môn, nhất thiết chư pháp, nhất thiết hữu bất khả đắc cố.
(經)婆字門,一切諸法一切有不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Bà (भ, Bha), hết thảy hữu trong hết thảy các
pháp đều chẳng thể được).
Bà
Phạ (Bhava) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Hữu (có). Hữu là là tam
hữu (tam giới) cho đến hai mươi lăm Hữu[28]. Nếu thấy chữ Bà, liền biết hết
thảy các pháp thảy đều có nhân duyên. Do các duyên hợp lại, nên nói là
Hữu, chẳng có tánh quyết định. Vì lẽ nào vậy? Nếu pháp nhất định có tướng Hữu,
rốt cuộc chẳng phải là vô tướng, tức là thường. Như nói “tam thế” (ba
đời), trong vị lai có pháp tướng, pháp ấy chuyển đến hiện tại, chuyển nhập quá
khứ, chẳng xả bổn tướng, liền đọa vào Thường Kiến. Nếu nói chắc chắn là “chẳng
có Hữu”, thì Vô tức là “trước có mà nay không”, đó là Đoạn Diệt Kiến. Do bởi
hai kiến ấy, xa lìa Phật pháp! Như phần Phá Hữu Vô trong Trung Luận đã nói cặn
kẽ. Nay quán các Hữu đều do duyên, tức là ý nghĩa “vốn bất sanh”. Do vốn bất
sanh, nên chẳng tác, chẳng hành, cho đến chẳng trói buộc, chẳng giải thoát. Vì
thế, môn chữ Bà do từ duyên mà có, trọn đủ hết thảy các tự môn. Nếu trọn đủ hết
thảy các tự môn, tức là Tam Muội Vương tam-muội, có thể phá hai mươi lăm Hữu.
Đức Thích Ca Mâu Ni do nghĩa ấy mà được gọi là Phá Hữu Pháp Vương.
(Kinh)
Dã tự môn, nhất thiết chư pháp, nhất thiết thừa bất khả đắc cố.
(經)野字門,一切諸法一切乘不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Dã (य, Ya), trong hết thảy các pháp, hết thảy
thừa đều chẳng thể được).
Diễn
Na (Yāna) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Thừa, còn dịch là
Đạo. Như người ngồi thuyền hay xe, ắt có thể hoàn thành chuyện đưa vật
nặng đến được nơi xa. Nếu thấy môn chữ Dã, liền biết hết thảy chúng sanh do đủ
mọi nhân duyên mà tiến hướng sanh tử quả báo và hướng đến Niết Bàn, ai nấy đều
có “thừa” (phương tiện, đường lối, phương pháp) để nương vào, cũng biết vô
lượng các thừa đều là Phật thừa. Đó là tướng của chữ này. Nay quán các pháp vốn
bất sanh, tức là vô hành, vô trụ, bất động, bất thoái; trong ấy cái gì là Thừa?
Sẽ vận dụng pháp nào vậy? Lại nữa, Thừa là từ tam hữu mà thoát ra, đạt tới Tát
Bà Nhã, năm trăm do-tuần[29] không gì chẳng phải là thật
xứ, muốn đi theo đường nào để đến chỗ nào vậy? Vì thế, hết thảy các thừa đều
chẳng thể được, bèn gọi là đạo Ma Ha Diễn (Đại Thừa).
(Kinh)
Ra tự môn, nhất thiết chư pháp ly nhất thiết trần nhiễm cố.
(經)囉字門,一切諸法離一切塵染故。
(Kinh:
Môn chữ Ra (र), hết thảy các pháp lìa hết thảy trần
nhiễm).
La
Thệ (Rajas) trong tiếng Phạn có nghĩa là “trần nhiễm”. Trần là hành xứ của tình
kiến hư vọng. Vì thế nói cảnh tượng của sáu tình, tức mắt, tai v.v.. là sáu
trần. Nếu thấy môn chữ Ra, sẽ biết hết thảy các pháp có thể “thấy, nghe,
tiếp xúc, biết” đều là trần tướng, giống như cái áo sạch bị nhuốm bẩn bởi trần
cấu, cũng như do bụi bay lăng xăng khiến cho thái hư mờ đục, nhật, nguyệt chẳng
sáng. Đó là tướng của chữ Ra này. Trung Luận dùng đủ loại Môn Đế để cầu thấy
pháp, chẳng có người thấy. Nếu chẳng có người thấy, ai có thể vận dụng pháp
Thấy để phân biệt ngoại sắc, thấy cái có thể thấy ư? Do thấy pháp là không, bốn
pháp Thức, Xúc, Thọ, Ái đều chẳng có. Do chẳng yêu mến, mười hai phần nhân
duyên cũng chẳng có. Vì thế, khi mắt thấy sắc, chính là tướng Niết Bàn; các
trần khác cũng phỏng theo đó [để luận định]. Lại nữa, dùng môn chữ A để lần
lượt quán sát các trần, do nó vốn bất sanh, do chẳng có tạo tác, cho đến chẳng
có pháp để nương vào và người nương vào, hãy nên biết pháp để có thể thấy,
nghe, hay, biết đều là tịnh pháp giới. Há nên dùng tịnh pháp giới để nhuốm bẩn
lục căn của Như Lai ư? Kinh Ương Quật Ma La có nói: Thường nhãn của Phật do
trọn đủ vô diệt mà thấy rõ thường sắc, cho đến ý và pháp cũng như thế. Đó là
nghĩa chân thật của môn chữ Ra.
(Kinh)
La tự môn, nhất thiết chư pháp nhất thiết tướng bất khả đắc cố.
(經)邏字門,一切諸法一切相不可得故。
(Kinh:
Môn chữ La (ल), hết thảy tướng của hết thảy các pháp đều
chẳng thể được).
La
Cật Sái (Lakṣṇa) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Tướng. Có người nói:
Tánh và tướng chẳng có phân biệt, như nói tánh của lửa chính là nhiệt tướng.
Hoặc nói: Có đôi chút sai biệt, Tánh là nói về Thể, Tướng là nói về cái có thể
biết. Như Thích Tử thọ trì giới cấm là tánh (giới tánh), cạo tóc, cắt may,
nhuộm y là tướng. Nếu thấy môn chữ La, liền biết hết thảy các pháp thảy đều có
tướng. Tướng lại có hai thứ:
-
Một là tổng tướng, tức là tướng vô thường, khổ, không, vô ngã.
-
Hai, biệt tướng, tức là các pháp tuy vô thường, vô ngã, mà mỗi mỗi đều có
tướng, như đất cứng, nước ướt, lửa nóng, gió động v.v… Xả là tướng Thí. “Chẳng
hối, chẳng não” là tướng Trì Giới. Tâm chẳng đổi khác là tướng Nhẫn.
Phát khởi siêng năng là tướng Tinh Tấn. Nhiếp tâm là tướng Thiền. Chẳng chấp
trước là tướng Huệ. Có thể hoàn thành sự việc là tướng Phương Tiện. Tạo tác
sanh tử là tướng thế gian. Chẳng tạo tác là tướng Niết Bàn v.v… Nay quán thể
tánh của các pháp hữu vi và vô vi đều là Không, tướng ấy là tướng của điều gì
vậy? Như trong phẩm Tam Tướng của Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận đã đều nói
rộng. Lại nữa, trong pháp giới thanh tịnh, đủ loại các tướng của một trăm sáu
mươi tâm v.v… vốn chẳng sanh, nên chẳng tạo tác. Do chẳng tạo tác, cho đến rốt
ráo vô trần. Do vô trần nên lìa hết thảy các tướng. Do lìa hết thảy các tướng,
bèn gọi là “chư Phật tự chứng Tam Bồ Đề”.
(Kinh)
Phạ tự môn, nhất thiết chư pháp ngôn ngữ đạo đoạn cố.
(經)嚩字門,一切諸法語言道斷故。
(Kinh:
Môn chữ Phạ (व, Va), hết thảy các pháp ngôn ngữ dứt bặt).
Phạ Kiếp
Bả (Vākpā) trong tiếng Phạn chính là
ngôn ngữ. Nếu lúc thấy chữ Phạ, liền biết hết thảy các pháp chẳng lìa đất ngôn
ngữ, do các pháp ấy không gì chẳng có nhân duyên! Nếu pháp vốn sẵn bất sanh, sẽ
lìa các nhân duyên. Vì thế, ngôn ngữ dứt bặt. Lại nữa, nếu pháp là “tướng
làm” (tác tướng) thì có thể tuyên nói. Không làm thì ngôn ngữ dứt bặt. Nếu
tướng hư không là hữu tướng thì có thể tuyên nói, do các pháp như tướng hư
không cũng lại là vô tướng. Vì thế, ngôn ngữ dứt bặt. Nếu pháp có hành, có đổi
dời, có hình bóng, thì sẽ có thể tuyên nói. Nếu vô hành, chẳng đổi dời, chẳng
có hình bóng, ngôn ngữ sẽ dứt bặt! Cho đến nếu các pháp là có tướng thì sẽ có
thể tuyên nói, nay hết thảy các pháp lìa hết thảy các tướng. Vì thế, chẳng thể
biểu thị, chẳng thể trao cho người khác. Do đó, ngôn ngữ dứt bặt. Lại nữa, vô
tướng cũng là không có tướng nhất định. Hãy nên biết hết thảy các pháp từ ngay
nơi tướng mà vô tướng, tức chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, như ba mắt
chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, ngôn ngữ dứt bặt. Các pháp môn khác cũng phỏng theo
đây mà suy ra.
(Kinh)
Xa tự môn, nhất thiết chư pháp bổn tánh tịch cố.
(經)奢字門,一切諸法本性寂故。
(Kinh:
Môn chữ Xa (श, Śa), do bổn tánh của hết thảy các
pháp là tịch).
Phiến
Để (Śānti) trong tiếng Phạn được phương
này dịch là Tịch. Như phàm phu trong thế gian đạt được chút phần tâm đạm bạc,
ngưng dứt ồn ào, náo động thì cũng gọi là Tịch. Cho đến hàng Nhị Thừa vĩnh viễn
đoạn các hành và luân hồi, chứng đắc Niết Bàn, cũng gọi là Tịch, nhưng chẳng
phải là bổn tánh thường tịch. Do lẽ nào? Các pháp vốn sẵn là tướng thường tự
tịch diệt, tam giới lục đạo có gì chẳng phải là Niết Bàn? Khi vô lậu trí sanh,
lại có khác gì phàm phu? Nhưng nay riêng ở trong ấy, khởi ý tưởng diệt độ, há
chẳng phải là điên đảo ư? Lại nữa, nếu bổn tánh của các pháp là tịch, trong bốn
mươi hai địa vị (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu
Giác), có gì chẳng phải là địa vị Như Lai? Có gì chẳng phải là địa vị phàm phu?
Như Di Lặc Bồ Tát do bổn tánh tịch mà được thọ ký Nhất Sanh Bổ Xứ, hết thảy
chúng sanh cũng đều nên được thọ ký! Nếu hết thảy chúng sanh ở trong bổn tánh
tịch, chẳng ngại tu học chuyện của phàm phu, Di Lặc Bồ Tát cũng nên tu học
chuyện của phàm phu! Mà nay khởi ý tưởng sai biệt, há chẳng phải là hý luận ư?
Nếu lúc nhập môn chữ Xa, sẽ biết là pháp bình đẳng, chẳng có cao hay thấp,
thường chẳng động, mà không gì chẳng làm! Cho nên nói: “Trong giải
thoát, dung nạp nhiều thứ, Đại Bát Niết Bàn có thể kiến lập đại nghĩa”, đều
do điều này!
(Kinh)
Sa tự môn, nhất thiết chư pháp tánh độn cố.
(經)沙字門,一切諸法性鈍故。
(Kinh:
Môn chữ Sa (ष, Ṣa), hết thảy các pháp tánh độn).
Nếu
xét theo từ gốc trong bản tiếng Phạn, phải nên nói là “tánh đồng ư
ngoan” (tánh giống như vật trơ trơ). “Ngoan” (頑,trơ trơ) có nghĩa là
giống như gỗ, đá chẳng hay biết, không cảm xúc. Nói “đồng” là
nói theo thí dụ, chẳng phải là một mực giống như thế. Kinh Đại Phẩm còn
nói: “Bát Nhã vô tri, tự tánh độn cố” (Bát Nhã vô tri, do
tự tánh độn). Vì thế, người nhuận sắc kinh văn đã giữ từ ngữ trong kiểu dịch
theo lối cổ. Phàm [cho rằng] tự tánh là độn, tức là tâm cực vô phân biệt, chẳng
ngu, chẳng trí, chẳng huệ, chẳng biết, chẳng trí, chẳng hư vọng, chẳng giác,
cho đến hết thảy các pháp chẳng thể dao động, chỉ là một cuộc đất thuần Kim
Cang kiên cố. Vì sao vậy? Như người thế gian do lấy bỏ chẳng quên, cho nên
chuộng trí huệ mà vứt bỏ ngu si, đề cao Niết Bàn, coi rẻ sanh tử, nhưng nay đã
nhất loạt là “vốn bất sanh”, cho đến nhất loạt “bổn tánh tịch”, vậy thì ai là
lợi, ai là độn? Như lưỡi dao Kim Cang sắc bén kia, do đối ứng với vật chẳng
cứng chắc, chỉ dùng một bề, nên gọi là “lợi” (sắc bén). Nếu khiến cho chỗ hướng
về đều là Kim Cang, toàn thể đều viên, chẳng sử dụng lệch lạc, thì lợi cũng sẽ
quy vào độn giống như vậy.
(Kinh)
Sa tự môn, nhất thiết chư pháp nhất thiết Đế bất khả đắc cố.
(經)娑字門,一切諸法一切諦不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Sa (स), hết thảy các Đế trong hết thảy các pháp
chẳng thể được).
Tát
Đá Dã (Satya) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Đế. “Đế” là
hiểu rõ chân tướng của các pháp đúng như thật, biết không điên đảo, không sai
lầm. Như nói: “Mặt trời có thể lạnh, mặt trăng có thể nóng, chứ Khổ Đế
do đức Phật đã nói chẳng thể đổi khác được!” Tập đúng là nhân, trọn
chẳng có cái nhân nào khác. Nhân diệt thì quả bèn diệt. Đạo diệt Khổ chính là
chân đạo, trọn chẳng có đạo nào khác. Lại nữa, kinh Niết Bàn dạy: “Giải
khổ vô khổ, thị cố vô khổ nhi hữu chân đế, dư tam diệc nhĩ” (Hiểu là
khổ chẳng có khổ. Do đó, không khổ mà có Chân Đế, ba thứ kia cũng thế). Cho đến
phân biệt Tứ Đế có vô lượng tướng và Nhất Thật Đế, như trong phẩm Thánh Hạnh đã
nói. Đó là tướng của tự môn. Nhưng hết thảy các pháp vốn chẳng sanh, cho đến vì
rốt ráo vô tướng mà ngôn ngữ dứt bặt, do bổn tánh là tịch, tự tánh là độn. Hãy
nên biết vô kiến, vô đoạn, vô chứng, vô tu. “Kiến, đoạn, chứng, tu” như
thế đều là pháp giới chẳng nghĩ bàn, vừa là Không, vừa là Giả, vừa là Trung,
chẳng thật, chẳng vọng, chẳng có tướng nhất định để có thể chỉ bày. Vì thế
nói “Đế chẳng thể được!” Phẩm Tứ Đế trong Trung Luận cũng biện
định cặn kẽ nghĩa này!
(Kinh)
Ha tự môn, nhất thiết chư pháp nhân bất khả đắc cố.
(經)訶字門,一切諸法因不可得故。
(Kinh: Môn
chữ Ha (ह),
nhân của hết thảy các pháp chẳng thể được).
Chữ
Hệ Đát Phạ (Hetva) trong tiếng Phạn có nghĩa là Nhân. Nhân có sáu loại[30], và xét theo ý nghĩa nhân duyên thì
nhân có năm loại, như A Tỳ Đàm đã rộng nói. Nếu thấy môn chữ Ha, sẽ biết hết
thảy các pháp không gì chẳng sanh từ nhân duyên. Đó là tướng của chữ Ha. Do các
pháp xoay vần đợi duyên mà thành, hãy nên biết rốt cuộc không nương tựa; vì thế
nói “vô trụ là cội gốc của các pháp”. Vì sao vậy? Như Trung
Luận dùng đủ mọi môn để quán “nhân duyên của các pháp đều chẳng sanh”, hãy nên
biết vạn pháp duy tâm, Thật Tướng của tâm chính là Nhất Thiết Chủng Trí, tức là
pháp giới của chư Phật. Pháp giới chính là cái Thể của các pháp, chẳng thể là
nhân. Do vậy bèn nói, nhân cũng là pháp giới, duyên cũng là pháp giới, pháp
sanh bởi nhân duyên cũng là pháp giới. Trong phần trước đã nói môn chữ A, từ
gốc đến ngọn đều rốt ráo là chỗ như thế. Nay môn chữ Ha cũng thế, cũng từ ngọn
trở về gốc, rốt ráo đạt tới chỗ như thế. Chữ A từ “vốn bất sanh” mà sanh ra hết
thảy các pháp, nay cũng dùng “không có nhân đối đãi” để làm nhân của các pháp,
đầu cuối đồng quy, tức là chỉ thú trong khoảng giữa ấy đều có thể biết.
Lại
nữa, trong tự luân tướng của Toàn Đà La Ni, dùng một chữ để giải thích ý nghĩa
của hết thảy các chữ, dùng hết thảy các chữ để giải thích ý nghĩa của một chữ.
Dùng nghĩa của một chữ để thành lập nghĩa của hết thảy các chữ, dùng nghĩa của
hết thảy các chữ để thành lập nghĩa của một chữ, dùng nghĩa của một chữ để phá
nghĩa của hết thảy các chữ, dùng nghĩa của hết thảy các chữ để phá nghĩa của
một chữ. Như một chữ và hết thảy các chữ, xoay chuyển nghịch thuận, phỏng theo
lệ này có thể suy ra.
Thế
nào là “dùng một chữ để giải thích hết thảy các chữ?” Như khi giải thích chữ
Ca, chỉ dùng các thứ nhân duyên để quán “vốn bất sanh”, tức là thấy nghĩa “vô
sở tác”. Cho đến khi giải thích chữ Ha, cũng dùng các thứ nhân duyên quán “vốn
bất sanh”, tức thấy nghĩa “vô nhân”.
Thế
nào là “dùng hết thảy các chữ để giải thích một chữ?” Như khi giải thích môn
chữ A, dùng các thứ nhân duyên để quán vô tạo tác, liền thấy nghĩa “vốn bất
sanh”. Cho đến dùng các thứ nhân duyên để quán các pháp chẳng có nhân, tức là
thấy nghĩa “vốn chẳng sanh”. Các chữ khác cũng phỏng theo lệ đó, sẽ nói rộng!
Thế
nào là “hết thảy các chữ thành lập một chữ?” Tức là hết thảy các pháp vốn bất
sanh, do vô tác, như hư không vô tướng, vô hành, vô hợp, cho đến vô nhân.
Thế
nào là “một chữ thành hết thảy các chữ?” Tức là hết thảy các pháp vô tác, do
vốn bất sanh, cho đến hết thảy các pháp vô nhân, do vốn bất sanh.
Thế
nào là “dùng hết thảy chữ để phá một chữ?” Như người chấp các pháp vốn có sanh,
hãy nên phá điều ấy như sau: Nếu các pháp lìa tạo tác mà nói là có sanh, thì
nghĩa ấy chẳng đúng! Cho đến nếu các pháp do chẳng thể được mà nói là “có
sanh”, thì nghĩa ấy chẳng đúng.
Thế
nào là “một chữ phá hết thảy các chữ?” Như người chấp có tạo tác, hãy nên phá
điều ấy như sau: Nếu nghĩa “các pháp vốn bất sanh” đã thành lập mà nói là “có
làm”, nghĩa ấy chẳng đúng. Cho tới nếu chấp “có nhân” thì cũng phá rằng: Nếu
nghĩa “các pháp vốn bất sanh’ đã thành lập mà nói là “có nhân”, nghĩa ấy chẳng
đúng.
Thế
nào là “nghịch thuận xoay vần”? Tức là nếu pháp vốn sẵn bất sanh thì chẳng có
tạo tác. Nếu chẳng có tạo tác thì như hư không vô tướng. Nếu như hư không vô
tướng, tức là chẳng có hành. Nếu chẳng có cái để hành thì chẳng có hợp. Nếu
chẳng có hợp thì chẳng biến đổi, cho đến nếu không có nhân thì hãy nên biết
pháp vốn chẳng sanh. Đó gọi là Thuận. Nếu pháp chẳng có nhân thì Đế chẳng thể
được. Nếu Đế chẳng thể được thì tự tánh độn. Nếu tự tánh là độn thì hãy nên
biết bản tánh tịch. Nếu vốn là tịch thì hãy nên biết là vô tướng. Cho đến nếu
“vốn bất sanh” thì hãy nên biết là không có nhân. Tám loại nghĩa như thế tự tại
xoay chuyển để nói.
Lại
nữa, nay nói “hết thảy các pháp” tức là tổng tướng. Nếu dựa theo kinh Ma Ha Bát
Nhã, sắc cho đến Nhất Thiết Chủng Trí, mỗi mỗi đều nói riêng khác, sẽ là vô
lượng nghĩa. Lại còn với mỗi môn, hãy nên dựa tướng cạn hay sâu được nói trong
phẩm Chân Ngôn Trụ Tâm để theo thứ tự phân biệt, do tự môn chuyển nên nghĩa cũng
bất đồng. Do bởi nghĩa ấy, có thể sanh ra trăm ngàn vạn ức Toàn Đà La Ni. Lại
nữa, do hết thảy ngôn thuyết của Như Lai không gì chẳng phải là chân ngôn, hãy
nên dùng tự nghĩa như thế để nhập trọn khắp hết thảy Tu-đa-la. Do đó, Trí Độ
Luận nói: “Nếu trong hết thảy các lời lẽ, Bồ Tát nghe chữ A, lập tức
thuận theo nghĩa, biết cái được gọi là ‘tướng chẳng sanh từ ban sơ’ của hết
thảy các pháp (chữ A hiểu theo nghĩa tiếng Hán là Sơ. A Nậu Ba Đà (Anutpāda) dịch sang tiếng Hán là
“bất sanh”). Nếu nghe chữ Ra, liền thuận theo nghĩa, biết hết thảy các pháp lìa
tướng (chữ Ra được dịch sang tiếng Hán là Cấu). Nếu nghe chữ Ba, lập tức biết
biết hết thảy các pháp nhập vào Đệ Nhất Nghĩa (Ba La Mạt Đà
(Paramārtha) dịch sang tiếng Hán là Đệ Nhất Nghĩa). Nếu nghe chữ Giá, lập
tức biết hết thảy các hành đều chẳng phải là hành (Giá Lợi Dạ (Kārya) dịch sang tiếng Hán là ngôn hạnh).
Nếu nghe chữ Na, liền biết hết thảy các pháp chẳng được, chẳng mất, chẳng đến,
chẳng đi (Na dịch sang tiếng Hán là Bất)”. Như trong phẩm Tứ Niệm Xứ
của luận ấy đã nói rộng.
Lại
nữa, trong hết thảy các danh ngôn, hễ có thanh A đều nhập vào môn chữ A. Có
thanh Ca thì đều thuộc vào môn chữ Ca, cho đến có thanh Ha thì thuộc vào môn
chữ Ha. Do vậy, trong một tự môn có vô lượng nghĩa, chẳng phải là trong môn chữ
Ha chỉ có nghĩa “không có nhân”. Các tự môn khác cũng phỏng theo lệ ấy.
Lại
như Sa Đá Dã (Satya) có nghĩa là Đế. Vì thế, kinh nói: “Sa tự môn, nhất
thiết chư pháp, Đế bất khả đắc” (môn chữ Sa, trong hết thảy các pháp,
Đế chẳng thể được). Vả nữa, Sa Đá có nghĩa là “vướng mắc”, cho nên trong Pháp
Cúng Dường có nói: “Sa tự môn, nhất thiết chư pháp vô nhiễm trước” (Môn
chữ Sa, trong hết thảy các pháp chẳng đắm nhiễm). Lại như Bà Phạ (Bhava) nghĩa
là Có; do vậy, kinh nói: “Bà tự môn, nhất thiết chư pháp hữu bất
khả đắc” (môn chữ Bà, trong hết thảy các pháp, Hữu chẳng thể
được). Lại nữa, Bà Phạ Na (Bhāvanā) có nghĩa là Quán, cho nên trong Cúng
Dường Pháp lại nói: “Bà tự môn, nhất thiết chư pháp, ly chư quán” (môn
chữ Bà, trong hết thảy các pháp lìa các quán). Những điều khác đều phỏng theo
lệ này. Do vậy, trong kinh Đại Phẩm [Bát Nhã] và phẩm Nhập Pháp Giới
của kinh Hoa Nghiêm đều nói môn bốn mươi hai chữ [Tất Đàm]. Phẩm Văn Tự
trong kinh Niết Bàn, kinh Văn Thù Sở Vấn, phẩm Đà La Ni Tự Tại Vương của kinh
Đại Tập đều giải thích mẫu tự Tất Đàm, ý nghĩa tương đồng với những điều được
nói trong kinh này. Nếu hiểu ý này, ắt sẽ thẳng thừng thấu hiểu kinh này, chẳng
hề trái nghịch, trở ngại.
Lại
nữa, mỗi một tự môn đều nói “chẳng thể được”, nhằm nêu ra ý
nghĩa Trung Đạo. Nay dùng môn chữ Xa để nói, như nhìn hình ảnh khuôn mặt trong
gương, do bổn chất làm nhân, gương sạch làm duyên, có ảnh hiện ra để thấy, đó
chính là pháp được sanh. Tướng xấu hay đẹp hiện tiền, do chẳng sai chạy, nên
gọi là Có. Dùng đủ loại phương tiện để tìm cầu, sẽ đều chẳng thể được, nên nói
là Không! Nhưng Có hay Không đều chẳng ra ngoài bản thể của tấm gương ấy, tức
là Một, bèn gọi là Trung. Ba tướng bất đồng mà đồng, chẳng khác mà khác. Vì
thế, luận sư trong thế gian chẳng thể nghĩ bàn được! Nay Chân Ngôn môn cũng
thế, lấy quán tâm làm nhân, Tam Mật làm duyên, phổ môn hải hội hiện tiền chẳng
sai, do vậy là Có. Do dùng đủ loại môn để tìm tòi, đều chẳng thể được, nên gọi
là Không. Có và Không ấy đều chẳng ra ngoài pháp giới, nên nói là Trung. Tam Đế
bất đồng mà đồng, chẳng khác mà khác, người thuộc hết thảy các phương tiện thừa
đều chẳng thể nghĩ bàn được! Các pháp môn khác đều phỏng theo đó, chẳng thể nêu
trọn!
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Ngưỡng nhưỡng nĩnh nẵng mãng, ư nhất thiết tam-muội tự tại, tốc
năng thành biện chư sự, sở vi nghĩa lợi giai tất thành tựu.
(經)祕密主!仰壤儜曩莾,於一切三昧自在,速能成辨諸事,所為義利皆悉成就。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Ngưỡng, nhưỡng, nĩnh, nẵng, mãng[31], trong hết thảy tam-muội tự
tại, có thể nhanh chóng hoàn thành các sự, thực hiện các nghĩa lợi thảy đều
thành tựu).
Trong
năm loại thanh là Ca, Giá, Trá, Đa, Ba, mỗi loại lại có năm thanh, từ chữ thứ nhất
tới chữ thứ tư đều là huệ môn như đã nói trên đây. Chữ thứ năm là chứng môn,
nay nói gộp chung. Chữ Phạn coi năm chữ này đều giống như chấm tròn. Còn như
bốn chữ Ca, Khư, Nga, Già đều tăng thêm tới mười một thanh, đều là đặt dấu chấm
trên mỗi chữ. Nếu muốn bỏ chấm ấy đi, mà ngay sau đó thêm các chữ như Ngưỡng
v.v… chúng sẽ chẳng khác khi có chấm. Lại nữa, trong mười hai thanh[32] của tiếng Phạn, thanh thứ nhất
là bản thể, tức thanh thứ hai là hạnh, từ thanh thứ ba trở đi, dùng các nét để
thêm vào đều là tam-muội. Thanh thứ mười một thêm một chấm chính là Chứng. Bên
thanh thứ mười hai (tức aḥ (ः), thêm hai chấm là Bát Niết Bàn. Như chữ
Ngưỡng (ङ)
này, do là âm thanh có thể trọn khắp trí huệ tam-muội, hãy nên biết chính là
nghĩa Đại Không. Do vậy, được nói riêng, chẳng luận chung với các chữ trước đó.
Kinh Niết Bàn nói năm chữ ấy nêu trọn ý nghĩa của các chữ. Nay trong giáo nghĩa
chủ yếu của đức Tỳ Lô Giá Na, nhờ vào năm chữ ấy để diễn tả Đại Không. Đại
Không là chứng xứ, chẳng có cách nào nói được. Vì thế, chỉ dùng chấm tròn để
biểu thị. Lại nữa, tuy tự thể của cái chấm tròn ấy chẳng có môn nào, nhưng trọn
khắp hết thảy các pháp môn, như hư không xa lìa các tướng mà đều chứa đựng vạn
tượng. Vì thế, hết thảy tự môn nếu thêm một chấm Không, sẽ trọn đủ tác dụng tự
tại, đều có thể hoàn thành các sự. Như vô sanh diệu huệ thuộc môn chữ A, hết
thảy chúng sanh bình đẳng đều có, chỉ vì chẳng tự chứng biết, như cô gái nghèo
có kho báu[33] mà chẳng
có thế lực [để khai quật]. Khi phát khởi hạnh, sẽ đúng như phương tiện mà khai
phát. Khi nhập chứng thì như kho báu hiện tiền; lúc bấy giờ, tùy ý thọ dụng, sở
cầu ắt đạt được. Vì thế nói: “Thêm vào cái chấm Không thì các nghĩa lợi
đều được thành tựu”.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: - Chân Ngôn tam-muội môn, viên mãn nhất
thiết nguyện, sở vị chư Như Lai, bất khả tư nghị quả, cụ túc chúng thắng
nguyện, chân ngôn quyết định nghĩa, siêu việt ư tam thế, vô cấu đồng hư không,
trụ bất tư nghị tâm, khởi tác chư sự nghiệp, đáo tu hành địa giả, thọ bất tư
nghị quả, thị đệ nhất chân thật, chư Phật sở khai thị. Nhược tri thử pháp giáo,
đương đắc chư Tất Địa, tối thắng chân thật thanh. Chân ngôn, chân ngôn tướng,
hành giả đế tư duy, đương đắc bất hoại cú.
(經)爾時世尊而說偈言:真言三昧門,圓滿一切願,所謂諸如來,不可思議果。具足眾勝願,真言決定義,超越於三世,無垢同虛空,住不思議心,起作諸事業,到修行地者,授不思議果,是第一真實,諸佛所開示,若知此法教,當得諸悉地。最勝真實聲,真言真言相,行者諦思惟,當得不壞句。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ rằng: - Chân Ngôn tam-muội môn, viên mãn hết
thảy nguyện, chính là chư Như Lai, quả chẳng thể nghĩ bàn. Trọn đủ các thắng
nguyện, nghĩa chân ngôn quyết định. Vượt thoát khỏi ba đời, vô cấu như hư
không, trụ tâm chẳng nghĩ bàn, khởi tạo các sự nghiệp, đạt tới tu hành địa,
trao quả chẳng nghĩ bàn. Là chân thật bậc nhất, được chư Phật khai thị. Nếu
biết pháp giáo này, sẽ đắc các Tất Địa, tiếng chân thật tối thắng. Chân ngôn,
tướng chân ngôn, hành giả tư duy kỹ, sẽ được câu chẳng hoại).
Kế
đó, trong lời kệ do đức Thế Tôn đã nói: “Chân ngôn tam-muội môn, viên
mãn nhất thiết nguyện” (các môn tam-muội của Chân Ngôn viên mãn hết
thảy các nguyện), nếu nói đầy đủ theo bản tiếng Phạn, phải là sau chữ “chân
ngôn” có thêm chữ Đạo. Người thuộc địa vị Gia Hạnh hễ duyên trụ trong
chữ A, bèn gọi là môn tam-muội chữ A. Môn tam-muội chữ A này chính là khai tâm
minh đạo môn, hết thảy các chữ khác cũng đều như thế. “Nhất thiết
nguyện” trong tiếng Phạn là Tát Phạ Xa (sarvāsā), tức là ước nguyện mong cầu trong tâm; ý
nói: Các chúng sanh tu môn tam-muội này, hết thảy chí cầu đều được viên mãn.
Khi nguyện ấy viên mãn thì chính là cái quả chẳng thể nghĩ bàn của các Như
Lai. Cái quả thường trụ, trí huệ không có thầy mà còn có thể ban cho chúng
sanh, huống hồ các nguyện Tất Địa thế gian ư?
Lại
nữa, Thật Tướng của thanh và chữ trong mỗi môn tam-muội của Như Lai dù có Phật
hay không có Phật, pháp là như thế, tức là do vậy mà chẳng thay đổi, chính là
bổn địa Pháp Thân của Như Lai. Vì muốn thí Pháp Thân ấy cho trọn khắp chúng
sanh, vẫn dùng thần lực tự tại gia trì vào thanh và chữ vốn sẵn như thế. Vì
vậy, thanh và chữ chính là thân gia trì của chư Phật. Cái thân gia trì ấy có
thể thực hiện trọn khắp các thân tùy theo từng loài, không đâu chẳng hiện diện.
Hãy nên biết thanh và chữ gia trì cũng lại giống như thế. Do vậy, hành giả chỉ
nên nhất tâm duyên quán kỹ càng thanh và chữ ấy, sẽ tự thấy thân gia trì của
Phật. Nếu thấy thân gia trì, tức là thấy Pháp Thân nơi bổn địa. Nếu khi thấy
Pháp Thân nơi bổn địa, đấy tức là tự thân của hành giả. Vì thế, mỗi một môn ấy
chính là cái quả chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, chẳng do chỗ khác mà có.
“Cụ
túc chúng thắng nguyện, chân ngôn quyết định nghĩa” (đầy đủ các nguyện
thù thắng, nghĩa quyết định của chân ngôn): Nói đầy đủ theo bản tiếng Phạn, hãy
nên nói “trọn đủ tất cả các nguyện thù thắng và nghĩa quyết định chân
thật của chân ngôn”. “Nguyện thù thắng” ở đây trong tiếng Phạn là Phạ
Rô, tức là “trọn đủ các loại công đức”. Đó chính là tam-muội, tổng trì, lực, vô
úy v.v… Có nghĩa là “sở nguyện đã mãn, sở cầu ắt trọn”, khác âm
tiếng Phạn của chữ Nguyện trong phần trước. Nói “quyết định” là
như môn chữ A, dù thanh hay chữ, toàn thể đều là bất sanh, nghĩa của thanh và
chữ chính là “toàn thể bất sanh”. Nếu lúc chứng, vẫn chỉ chứng
sự “bất sanh” này, trong khoảng giữa, trọn chẳng xen tạp, mà cũng chẳng có
đường khác. Nếu lúc thấy nghĩa chân thật này, giả sử mười phương chư Phật đồng
thời hiện tiền, nói đủ loại Tương Tự Ba La Mật, toan khiến cho [người ấy] thay
đổi cái tâm, [người ấy] vẫn chẳng sanh nghi hoặc. Vì thế nói là “quyết”.
Lại
nữa, “cụ túc chúng thắng nguyện” (đầy đủ các nguyện thù thắng)
tức là công đức nội chứng của Như Lai nhiều như số vi trần trong mười phương thế
giới. Do quyết định, mỗi mỗi đều thành ấn Kim Cang. Từ đấy trở đi, tự chứng
thân lại khởi lên gia trì thân; vì thế nói: “Siêu việt ư tam thế” (vượt
thoát ba đời). “Vô cấu đồng hư không” (vô cấu giống như hư
không) tức là tâm địa thanh tịnh vô cấu chẳng nghĩ bàn, dùng đại phương tiện để
vẽ thành Phổ Môn Mạn-đồ-la nơi cuộc đất ấy. Do vậy, kế đó kinh nói: “Trụ
bất tư nghị tâm, khởi tác chư sự nghiệp” (trụ trong tâm chẳng nghĩ
bàn, dấy khởi tạo tác các sự nghiệp). Bản tiếng Phạn nói đầy đủ là “tâm
địa”, nhưng do mỗi câu kệ chỉ có năm chữ, không thể ghi hết. Nhưng Địa
chính là tâm thể; vì thế nói là “trụ trong tâm chẳng nghĩ bàn”. Trong
Chân Ngôn tam-muội môn, tuy có quả đức chẳng thể nghĩ bàn như thế, kham có thể
châu cấp, ban tặng cho chúng sanh nhiều bằng một quốc gia, nhưng nếu các chúng
sanh chẳng sanh ý tưởng khó gặp, cúng dường, tu hành, thì ví như cỗ bàn của vua
đầy ắp trước mặt, nhưng [chúng sanh] chẳng có tâm ăn uống, chư Phật biết làm
sao được? Vì thế, kế đó, kinh nói: “Nhược đáo tu hành địa, thọ bất tư
nghị quả” (nếu đạt tới địa vị tu hành, sẽ trao cho cái quả chẳng thể
nghĩ bàn). “Tu hành địa” ở đây chính là sơ pháp minh môn trong
cái tâm Bồ Đề thanh tịnh. Chẳng hạn như Thanh Văn sau khi kiến Đế, lại dự vào
Tu Hành Vị. Vị Bồ Tát ấy trong Bách Tự Minh Môn, đều thấy Liên Hoa Thai Tạng
Mạn-đồ-la thế giới hải, các tướng trang nghiêm ấy thảy đều bất đồng. Trước hết,
từ đại không luân trong môn chữ Khư, dùng môn chữ Ha để khởi đại phong luân. Kế
đó, trên đấy dùng môn chữ Phạ để khởi biển nước thơm. Tiếp đó, ở trên ấy, dùng
môn chữ A để khởi đất kim cang, Kim Cang Luân Sơn. Những điều khác như kinh Hoa
Nghiêm đã nói. Trong Bồ Đề Mạn-đồ-la nơi mỗi thế giới thuộc một trăm Liên Hoa
Tạng ấy, đều có mười thế giới các Bồ Tát, Kim Cang v.v… làm quyến thuộc. Hành nhân
Du Già có thể chẳng rời khỏi tòa, mà đều tới các Phật hội như thế, cũng có thể
lần lượt tìm cầu các thiện tri thức. Vì thế nói: “Sơ Địa Bồ Tát hóa mãn
bách Phật quốc” (Sơ Địa Bồ Tát biến hóa đầy ắp một trăm cõi Phật),
chẳng phải chỉ là trông thấy mà thôi! Cũng có thể dùng một trăm Liên Hoa Tạng
ấy chuyển thành tự thân. Còn như khi viên mãn mười tâm “mầm, thân, hoa, búp”
v.v… thuộc Sơ Địa, trong một minh môn khai xuất mười môn giải thoát, thành một
ngàn thế giới, đều là tùy phần truyền trao cái quả chẳng thể nghĩ bàn. Đạt đến
gần Đệ Thập Nhất Địa, trong hư không vân hải minh môn, mỗi mỗi đều thấy tánh,
tướng, hình loại của thế giới Liên Hoa Tạng trang nghiêm, xoay vần bất đồng,
dùng đó làm tự thân tự tại vô ngại. Đấy gọi là “bất tư nghị quả mãn”.
Kế
đó, có hai bài kệ nhằm khuyên tin, kết lại để ấn chứng: “Thị đệ nhất
chân thật, chư Phật sở khai thị” (là chân thật bậc nhất, được chư Phật
khai thị). “Khai thị” chính là tri kiến của Phật, có cùng ý
nghĩa với kinh Pháp Hoa. Nửa bài kệ kế đó nói: “Nhược tri thử pháp
giáo, đương hoạch chư Tất Địa” (nếu biết pháp giáo này, sẽ đạt các Tất
Địa), tức là dẫn “chư Phật đạo đồng” để khuyến tín Thế Đế. Nếu
hành giả Chân Ngôn hiểu rõ thứ tự phương tiện trong pháp giáo này, do nhất định
tin tưởng, đúng như lời dạy mà tu hành, sẽ được thành tựu hết thảy các Tất Địa.
Nếu chẳng phải như vậy, mười phương ba đời chư Phật sẽ mắc tội “trái nghịch bổn
thệ, lừa dối chúng sanh”. Bài kệ kế tiếp nhằm khuyên [hành nhân hãy] trụ trong
Chân Đế. Nhưng Tất Đàm tự mẫu, trẻ nhỏ cũng đều tụng trì, còn như hộ-ma, cúng
dường v.v… Vi Đà thế tiên[34] cũng đều cùng làm; nhưng nay
sở dĩ môn Chân Ngôn này riêng trở thành bí mật là do được nghĩa chân thật gia
trì. Nếu chỉ miệng tụng Chân Ngôn mà chẳng tư duy ý nghĩa, chỉ có thể thành tựu
nghĩa lợi thế gian, há có đạt được thể tánh Kim Cang ư? Vì thế, kệ rằng: “Tối
thắng chân thật thanh, chân ngôn, chân ngôn tướng, hành giả đế tư duy, đắc
thành bất hoại cú” (Tiếng chân thật tối thắng, chân ngôn, tướng chân
ngôn. Hành giả tư duy kỹ, được thành câu bất hoại). “Thanh” chính
là cái Thể của Ngữ Mật trong Chân Ngôn môn, như Đệ Nhất Chân Thật Nghĩa trong
thanh A, tức là “vốn bất sanh”. Thoạt đầu nói về Chân Ngôn, bản tiếng Phạn dùng
nhiều tiếng để gọi, tức là chỉ chung tướng bách tự môn Thế Đế tự luân. Kế đó,
nói “chân ngôn tướng” tức là Thật Tướng của chân ngôn ấy. Từ
ngay nơi Thật Tướng của chân ngôn, do tư duy chắc thật, mỗi mỗi đều nhập Liên
Hoa Đài. “Cú” chính là chỗ dấu tích ngưng dứt.
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: - Hy hữu, Thế Tôn! Phật
thuyết bất tư nghị chân ngôn tướng đạo pháp, bất cộng nhất thiết Thanh Văn,
Duyên Giác, diệc phi phổ vị nhất thiết chúng sanh. Nhược tín thử chân ngôn đạo
giả, chư công đức pháp giai đương mãn túc, duy nguyện Thế Tôn thứ thuyết
Mạn-đồ-la sở tu thứ đệ.
(經)爾時執金剛祕密主白佛言:希有。世尊!佛說不思議真言相道法。不共一切聲聞緣覺,亦非普為一切眾生。若信此真言道者,諸功德法皆當滿足。唯願世尊次說漫荼羅所須次第。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch với đức Phật rằng: - Đức Thế Tôn hy
hữu! Phật nói đạo pháp chân ngôn tướng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng cùng chung với
hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác, cũng chẳng phải vì trọn khắp hết thảy chúng
sanh. Nếu tin tưởng đạo chân ngôn này, các pháp công đức sẽ đều viên mãn. Kính
mong đức Thế Tôn kế đó hãy nói về thứ tự cần thiết trong Mạn-đồ-la).
Như
trong sự giải thoát của pháp Thanh Văn chẳng có văn tự, nhưng ngài Duy Ma Cật
chẳng lìa văn tự để nói tướng giải thoát, nên gọi là “bất tư nghị giải
thoát”. Nay tự luân này cũng thế, tức là dùng vô tướng Pháp Thân để
làm các loại thanh và chữ, các loại thanh và chữ làm vô tướng Pháp Thân, nên
gọi là “tướng chân ngôn chẳng thể nghĩ bàn”. “Bất cộng nhất
thiết Thanh Văn, Duyên Giác, diệc phi phổ vị nhất thiết chúng sanh” (chẳng
cùng chung với hết thảy Thanh Văn và Duyên Giác, cũng chẳng phải vì trọn khắp
hết thảy chúng sanh): Kinh này là vật báu bí mật của đấng pháp vương, chẳng thể
tùy tiện trao cho người chẳng xứng đáng. Như đức Thích Ca xuất thế hơn bốn mươi
năm, do ngài Xá Lợi Phất ân cần thỉnh cầu ba lượt, [đức Phật] mới vì Ngài nói
đại lược nghĩa Diệu Pháp Liên Hoa. Nay thân bổn địa này lại là chỗ bí mật, sâu
thẳm của Diệu Pháp Liên Hoa, cho nên phẩm Thọ Lượng nói: “Thường tại
Linh Thứu sơn, cập dư chư trụ xứ” (thường tại núi Linh Thứu, và các
trụ xứ khác) cho tới “ngã Tịnh Độ bất hủy, nhi chúng kiến thiêu tận” (Tịnh
Độ của ta chẳng hủy, chúng sanh thấy cháy rụi), tức là ý nghĩa thuộc tông Du
Già này vậy. Lại nữa, do bậc Bổ Xứ Bồ Tát ân cần thỉnh ba lượt, [đức Phật] mới
nói. Nếu chẳng phải là căn cơ đốn ngộ, sẽ chẳng được nhận lấy. Vì thế, chẳng vì
trọn khắp hết thảy chúng sanh [mà nói pháp môn này]! Đó cũng là lãnh hội ý
nghĩa trong bài kệ trước đó “đạt đến địa vị Tu Hành thì mới được truyền trao
cái quả chẳng nghĩ bàn”.
Kế
đó, nói về sự lãnh ngộ hai bài kệ khuyến tín và ấn khả để kết lại trong phần
trước, nên nói: “Nhược tín thử Chân Ngôn đạo giả, chư công đức pháp
giai đương mãn túc” (nếu tin đạo Chân Ngôn này, các pháp công đức đều
sẽ trọn đủ). Nếu lúc được viên mãn, tức là trọn đủ các nguyện thù thắng. Trên
đây, đã nói cặn kẽ về chi phần chân ngôn xong. Ngài Chấp Kim Cang lại tiếp nối
phần kinh văn trên đây, thỉnh Phật kế đó hãy nói về thứ tự cần phải tu trong
Mạn-đồ-la.
(Kinh)
Như thị thuyết dĩ, Thế Tôn phục cáo Kim Cang Thủ, nhi thuyết kệ ngôn: - Trì
chân ngôn hành giả, cúng dường chư thánh tôn, đương phụng duyệt ý hoa, khiết
bạch, hoàng, châu sắc, Bát Đầu Ma, thanh liên, Long hoa Bôn Na Già, Kế Tát Ra
Mạt Lợi, Đắc Nghiệt Lam, Chiêm Bặc, Vô Ưu, Để La Kiếm, Bát Trá La Sa La. Thị
đẳng tiễn diệu hoa, cát tường chúng sở nhạo, thải tập dĩ vi man, kính tâm nhi
cúng dường.
(經)如是說已,世尊復告金剛手而說偈言:持真言行者,供養諸聖尊,當奉悅意花,潔白黃朱色,鉢頭摩青蓮、龍花奔那伽、計薩囉末利、得蘗藍瞻蔔、無憂底羅劍、鉢吒羅娑羅,是等鮮妙華,吉祥眾所樂,採集以為鬘,敬心而供養。
(Kinh:
Nói như thế xong, đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ mà nói kệ rằng: - Hành giả
trì chân ngôn, cúng dường các đức thánh, nên dâng hoa đẹp ý, sắc trắng tinh,
vàng, đỏ: Bát Đầu Ma, sen xanh, Long Hoa Bôn Na Già, Kế Tát Ra, Mạt Lợi, Đắc
Nghiệt Lam, Chiêm Bặc, Vô Ưu, Để La Kiếm, Bát Trá La, Sa La. Các hoa tươi đẹp
ấy, cát tường, người ưa thích, thâu góp làm tràng hoa, tâm cung kính cúng
dường).
Kế
đó, trong lời kệ giải đáp, trước hết, đức Thế Tôn giải đáp về hai câu hỏi về
dâng cúng thức ăn, hương, hoa v.v… và các thứ bình báu, gọi chung là “chi
phần Cúng Dường”. Trong các vật để cúng dường, trước hết nói về hoa để
dâng cúng. Phàm các vật để dâng cúng, đều tùy theo tánh loại của các vị tôn
thánh và phương vị của Mạn-đồ-la v.v... mà mỗi mỗi đều khéo phân biệt, sao cho
sắc, hương, vị, xúc đều khiến lòng người vui thích. Các loại hoa không tốt lành
sanh trên đất hay trong nước chỉ có thể dùng trong pháp Chiết Phục mà thôi!
Trong ba màu trắng, vàng, đỏ, Như Lai Bộ nên dùng màu trắng, Liên Hoa quyến
thuộc nên dùng màu vàng, Kim Cang Bộ nên dùng màu đỏ. Lại nữa, đúng theo phương
vị của Mạn-đồ-la: Đàn tròn thì dùng màu trắng, đàn vuông thì dùng màu vàng, đàn
tam giác thì dùng màu đỏ. Lại nữa, [để cúng dường] chư Phật thì dùng màu trắng,
chư Bồ Tát dùng màu vàng, các vị trời trong thế gian thì màu đỏ. Các thứ khác
như hương v.v… cũng chuẩn theo ý này, kiêm đối chiếu với kinh văn của kinh Tô
Tất Địa và Cù Hê để dùng, chẳng chép tường tận [ở đây].
Bát
Đầu Ma (Padma) là hoa sen hồng. Phàm các loại hoa mọc trong nước như hoa
sen xanh, đỏ, trắng v.v… đều có thể dâng cúng chung chư tôn. “Long
Hoa Bôn Na Già” (Nāgakesara Puṃnāga): Bôn Na Già là hoa Long Thụ. Di
Lặc Thế Tôn thành Phật ở dưới cội cây này. Nói thẳng là Long Hoa, tức loài hoa
được rồng coi trọng. Phương Tây có loại hoa này. Hoa Kế Tát Ra (Kesara), hoa
Mạt Lợi (Mallika, hoa lài), hoa Đắc Nghiệt La (Tagara), hoa Chiêm Bặc
(Caṃpaka), hoa Vô Ưu (Aśoka), hoa Để La Kiếm (Tilaka), hoa Bát Trá La
(Pāṭala), hoa cây Sa La (Śāla), đều là những thứ có ở Thiên Trúc,
phương này chẳng thể biết trọn.
Kinh
nói “thị đẳng tiễn diệu hoa” (các loại hoa tươi đẹp ấy), trong
bản tiếng Phạn có kèm thêm chữ Hoặc, ý nói các thứ hoa ấy đều có thể dùng
chung, nên nêu ra một số trường hợp. Nhưng nếu phương này thì có, phương kia
thì không, chỉ cốt sao loại hoa được người ta yêu thích, thế gian coi là cát
tường, thì đều có thể dùng để cúng dường, hãy nên mỗi mỗi lắng lòng khéo phân
biệt. “Thái tập dĩ vi man” (Gom góp thành tràng hoa), tức xen
lẫn trang nghiêm, hoặc xâu, hoặc kết, do cái tâm ân cần, thanh tịnh, thuần hậu
của hành nhân khiến cho chư tôn hoan hỷ hộ niệm.
(Kinh)
Chiên đàn cập thanh mộc, mục túc hương, uất kim, cập dư diệu đồ hương, tận trì
dĩ phụng hiến. Trầm thủy cập tùng hương, Phạ Lam dữ long não, bạch đàn, giao
hương đẳng. Thất Lợi Phạ Tắc Ca, cập dư phần hương loại, phân phức thế xưng mỹ.
Ưng đương tùy pháp giáo, nhi phụng ư thánh tôn.
(經)栴檀及青木、苜蓿香欝金,及餘妙塗香,盡持以奉獻。沈水及松香,嚩藍與龍腦,白檀膠香等,失利嚩塞迦,及餘焚香類,芬馥世稱美,應當隨法教,而奉於聖尊。
(Kinh:
Chiên đàn và thanh mộc, mục túc hương, uất kim, và các hương bôi quý khác, đều
dùng hết dâng hiến. Trầm thủy và tùng hương, Phạ Lam (Vāla) và long não,
bạch đàn, giao hương (Sarjarasa) thảy, Thất Lợi Phạ Tắc Ca (Śrīvāsaka), và
các loại hương đốt, thơm ngát, đời ca ngợi. Hãy nên tùy pháp giáo, dâng lên các
thánh tôn).
Kế
đó nói về hương bôi. Chiên đàn (Candana), thanh mộc (Kuṣṭha), uất kim
(Kuṅkuma), cỏ Đố Lộ Bà (Turuska)[35] loại hương Mục Túc
(Spṛkkā) ở phương Tây, hơi khác hương Mục Túc ở phương này. “Cập
dư diệu đồ hương” (và các loại hương bôi tốt đẹp khác) như trầm thủy,
cam tùng, đinh hương (clove), lõi cây quế, đậu khấu (cadarmom, nutmeg) ở phương
Tây, hương phụ tử[36] v.v… như kinh Tô Tất Địa và Cù
Hê đã nói. Lại nói trong các loại hương bôi ấy, đừng dùng hương lấy từ thân thể
của chúng sanh, tử khoáng[37], cũng như bị trùng đục khoét. Hãy
nên dùng thứ hương tốt, thanh tịnh, dùng nước để nghiền. Nếu dâng cúng Phật,
hãy nên dùng uất kim mới, tốt, hoặc hắc trầm hương cùng với long não. Quyến
thuộc Liên Hoa thì nên dùng bạch đàn, Kim Cang quyến thuộc cũng nên dùng bạch
đàn; còn các vị tôn thánh khác thì tùy ý mà dùng chung, còn các loại hương hòa
hợp thì đều thêm long não.
Kế
đó, nói về hương đốt, hãy nên dùng trầm thủy hương (agaru), tùng hương (dīpavṛkṣa), phạ lam hương (vāla), long não hương (karpūra), bạch đàn hương phương Tây tên là Ma La
Dữu (Malayū, tức
là tên núi Malaya, phiên âm là Ma Lê Sơn), như Trí Độ Luận đã nói: “Ngoại
trừ núi Ma Lê, không có chỗ nào khác sanh ra Chiên Đàn” là nói về loại
hương này. Bạch giao hương (sarjarasa) chính là nhựa cây Sa La. Thất Lợi Phạ Tắc
Ca (Śrīvāsaka) hương tương tự huân lục hương (kunduruka, tức frankincense)
ở phương này. Thất Lợi (Śrī) có nghĩa là trọn đủ đức cát tường, ý nói loại
hương này thậm chí thiên thần cũng đều yêu thích; do vậy đặt tên như thế. “Cập
dư phần hương loại, phân phức thế xưng mỹ” (và các loại hương đốt
khác, thơm ngào ngạt được cõi đời khen ngợi) cũng như trên đã nói. Kinh Cù Hê nói: “Thiêu
hương dụng bạch đàn, trầm thủy tương hòa, cúng dường Phật loại. Kỳ thụ chấp
hương, cúng dường Liên Hoa loại. Hắc trầm cập An Tức, cúng dường Kim Cang loại” (Hương
đốt thì dùng bạch đàn và trầm thủy hòa hợp để cúng dường Phật Bộ. Hương từ nhựa
cây để cúng dường Liên Hoa Bộ. Hắc trầm và an tức để cúng dường Kim Cang Bộ).
Hoặc vâng theo pháp ấy mà làm hương, hòa hợp trọn khắp để dâng lên chư
tôn. “Ưng đương tùy pháp giáo” (hãy nên tùy theo pháp giáo),
tức là dùng chân ngôn và mật ấn để gia trì trừ nhơ như nói trong phần Thứ Tự
Cúng Dường. Các loại hương bôi và hoa khác phỏng theo lệ này mà suy ra.
(Kinh)
Phục thứ, Đại Chúng Sanh, y giáo hiến chư thực, phụng nhũ mi, lạc phạn, hoan
hỷ, Mạn-đồ-ca, bách diệp cam mỹ bính, tịnh diệu sa đường bính, bố lợi ca, gián
huyệt, cập mạt đồ thất ra, bễ nặc ca, vô ưu, bá bát trá thực đẳng, như thị chư
hào thiện, chủng chủng trân diệu quả, kiển đồ dữ thạch mật, đường mật, sanh
thục tô, chủng chủng chư tương ẩm, nhũ lạc, tịnh ngưu vị.
(經)復次大眾生,依教獻諸食,奉乳糜酪飯,歡喜漫荼迦,百葉甘美餅,淨妙粆糖餅,布利迦間穴,及末塗失囉,嫓諾迦無憂,播鉢吒食等,如是諸餚饍,種種珍妙果,蹇荼與石蜜,糖蜜生熟酥,種種諸漿飲,乳酪淨牛味。
(Kinh:
Lại này, Đại Chúng Sanh, theo giáo, hiến thức ăn, dâng cháo sữa, cơm bơ, hoan
hỷ, Mạn-đồ-ca, bánh ngon ngọt bách diệp, bánh đường cát sạch ngon, bố lợi ca,
gián huyệt, và mạt đồ thất ra, bễ nặc ca, vô ưu, bá bát trá các món. Món ngon
quý như thế, các thứ quả ngon, quý, kiển đồ và thạch mật, đường, mật, sanh thục
tô, và các thứ nước ép, sữa, lạc, các vị sữa).
Kế
đó nói “y giáo hiến chư thực” (theo đúng lời dạy, dâng các
thức ăn). Như trong bản đầy đủ của kinh này nói, cúng dường các thứ ăn đều
có phương tiện để tịnh hóa cho tới ý nghĩa sâu mầu [của việc tịnh hóa ấy],
mỗi mỗi đều tương ứng với pháp môn. Phương này nếu không có, chỉ nên dựa theo
các kinh như Tô Tất Địa v.v… Theo đúng pháp tạo tác, kết giới, thủ hộ, gia trì,
sẽ được gọi là “y giáo”. “Nhũ mi”: Phương Tây có nhiều loại cháo,
hoặc dùng nước ép Ô Ma, hoặc dùng các loại đậu và các vị thuốc, như trong các
kinh văn Thập Tụng Dược Pháp v.v… đã nói cặn kẽ, nhưng cháo sữa[38] là loại tốt nhất. Phàm khi
dâng thức ăn, phải nên thêm vào các thứ như tô, đường cát v.v… khiến cho sắc
lẫn vị đều trọn vẹn để dâng cúng trước. Lại nữa, cơm ở phương Tây có nhiều
loại, cũng coi cơm nấu trộn bơ là vị ngon nhất. Khi dâng món ăn này, phải nên
nêm đường cát, muối, gừng các vị. Lại nên dâng canh theo đúng cách nấu nướng ở
phương đó, hoặc thuận theo phong tục nước nhà.
Đối
với viên hoan hỷ (laḍḍuka), hãy nên dùng chất tô để nấu các loại bánh, hòa hợp
các vị và ba loại thuốc có vị đắng v.v… khiến cho trang nghiêm đủ mọi cách.
Mạn-đồ-ca (Maṇḍaka) chính là loại bánh ép mỏng (pancake) ở phương này.
Diệp bính là cách làm bánh ở Thiên Trúc: Dùng các vị như mật, đường, trộn với
bột mì, dầu bơ đem nấu, hết sức thơm ngon. Bánh đường cát thì loại đường cát
này có tên là Kiển Đồ (Khanda, đường trắng), hình dạng giống như loại đường sản
xuất tại Ích Châu, nhưng màu sắc hết sức trắng sạch, đụng tới là vỡ ngay. Đem
loại đường này pha nước; trước hết, dùng bột mì làm bánh, nhỏ vài giọt nước
đường lên đó rồi mới ăn. “Tịnh diệu” tức là chú trọng sao cho
thanh khiết, khiến cho sắc lẫn hương đều trọn vẹn. Bố-lợi-ca (Pūrikā) dịch là
Trước Lam Bính, do các thứ vị ngon nhất hòa hợp để cân nhắc làm thành. Bánh
Gián Huyệt (Garitra) có hai loại hoặc đâm thành lỗ thủng, hoặc có hình
dạng như tơ rối cuộn tầng tầng ở mỗi lỗ thủng, thêm vào các vị. Bánh
Mạt-đồ-thất-ra (Madhuśīrṣaka) cũng rắc muối, bôi mật và đường lên trên.
Bánh Bễ-nặc-ca (Phenaka) dùng bột mì nổi, rắc muối, chiên bằng dầu bơ, hình
dáng như bọt nổi trên mặt nước, rất đáng yêu! Vô Ưu (aśokavarti) là bánh đường cát cuộn
lại. Món Bá Bát Trá (Parpaṭa) là loại bánh mỏng làm bằng bột mì không lên
men[39].
“Như
thị chư hào thiện” (các món ngon lành như thế), lại nói là tùy theo
địa phương, quốc gia, tất cả các món ngon nhất và các loại quả ngon lành, quý
báu, tùy ý dâng hiến. Đường trắng, thạch mật, đường cát, tô mật lại đều sắp
riêng. “Chủng chủng chư tương ẩm” (các loại nước uống chế từ
nước ép): Cách chế nước ép ở phương Tây rất nhiều, dùng hòa với thuốc thơm,
ngon lành lại trị bệnh. Còn các thứ nước uống phi thời như nước nho v.v… thì
như trong Tỳ Ni đã nói. Các món có sữa và lạc thì cũng dùng Tất Bát hoặc long
não v.v… đúng như trong cách nấu ăn trong Y Minh mà làm. Nói chung, phương Tây
chế biến thức ăn và thức uống đều có thứ tự trước sau, phần nhiều dựa theo dược
thuật, có công hiệu dưỡng tánh phòng thân. Vì thế, họ phần nhiều sống hết tuổi
thọ, ít bị chết yểu.
Phàm
chỗ đặt thức ăn, nên dùng hương bôi để bôi khắp. Đặt đồ ăn trong viện, trải
khắp lá sen, hoặc lá chuối v.v… khiến cho trọn khắp. Nếu không có, hãy nên dùng
vải trắng mịn hoặc vải sạch mới tinh, tận lực dùng nước sạch để giặt tẩy, dùng
hương bôi khắp. Khi sắp xếp thức ăn, đối với các vị tôn thánh thượng thủ, nên
xếp nhiều hơn, tức là nơi Trung Thai Tạng Tỳ Lô Giá Na, Quán Âm và Kim Cang Thủ
ở viện thứ hai, bốn vị Bồ Tát như Văn Thù v.v… ở các viện kế tiếp, Thích Ca Mâu
Ni ở ngoại viện và vị Bổn Tôn mà ta tôn phụng. Giả sử như các vị trí khác thì
dâng một phần, nơi các vị tôn thánh thượng thủ thì dâng hai phần. Hoặc các vị
trí khác dâng hai phần, kinh Cù Hê nói: “Mạn-đồ-la chủ đương số bội gia
chi” (nơi vị chủ của mạn-đồ-la thì nên tăng gấp bội). Tuy có thứ hạng
bất đồng như vậy, nhưng từ chư Phật cho đến quỷ thần trong thế gian, đều nên
vận tâm bình đẳng cúng dường, cốt sao đều dồi dào. Còn như không lo xuể, chỉ
nên cúng dường Bộ Chủ, hoặc đặt thức ăn trong nội viện, vận tâm cúng dường hết
thảy chư tôn. Các thứ hương, hoa v.v… dâng hiến cũng phỏng theo đây mà biết!
(Kinh)
Hựu phụng chư đăng chúc, dị loại tân tịnh khí, thịnh mãn diệu hương du, bố liệt
vi chiếu minh. Tứ phương tăng phan, cái, chủng chủng sắc tướng gian, môn tiêu
dị hình loại, tịnh huyền dĩ linh, đạc.
(經)又奉諸燈燭,異類新淨器,盛滿妙香油,布列為照明。四方繒憣蓋,種種色相間,門標異形類,并懸以鈴鐸,
(Kinh:
Lại dâng các đèn, đuốc, các đồ đựng sạch mới, chứa đầy dầu thơm quý, sắp bày để
chiếu sáng. Bốn phương phan, lọng lụa. Trong các thứ sắc tướng, cửa treo nhiều
hình tướng, và treo các linh, khánh).
Kế
đó, nói đến chuyện dâng đèn chiếu sáng. Các loại dầu thơm rất nhiều, như dầu
thơm Chiêm Bặc, dầu thơm từ hoa Tô Ma Na (Sumana) v.v… Phàm làm dầu thơm, hãy
nên dùng hoa mới, giống như cách kết tràng hoa để xâu lại, để đến ban ngày, đặt
hoa trên đồ hứng dầu, dùng vật dụng rót dầu rưới lên hoa khiến cho dầu ấy lại
rơi xuống đồ hứng. Lại đem dầu ấy rưới lên hoa, lặp đi lặp lại như thế từ lúc
mặt trời mọc cho đến khi mặt trời lặn mới thôi. Hôm sau, lại lấy hoa mới làm
giống như trước, khiến cho dầu ấy có mùi thơm giống hệt như hoa mới thôi. Các vật
dụng để dâng hiến thức ăn và đèn chiếu sáng làm bằng các thứ báu là tốt nhất.
Nếu chẳng thể lo liệu, dùng bạc, đồng v.v… cho đến các thứ đồ sứ mới sạch cũng
được! “Tứ phương tăng phan cái” (Phan lọng bằng lụa màu ở bốn
phương): Nếu có tài lực, hãy nên đặt riêng nơi mỗi vị tôn thánh, cũng coi các
thứ làm bằng chất báu là tốt nhất. Nếu chẳng thể lo liệu, thì dùng lụa màu cho
đến vẽ vời. Khi vẽ, nên dùng vật sạch sẽ, chớ nên dùng các chất keo v.v.. Nếu
không thể tạo rộng khắp thì tối thiểu là mỗi phương trong bốn phương đặt một
cái lọng. Các vật trang trí ở cửa, linh, khánh v.v… đều tùy sức trang nghiêm đủ
mọi lẽ, cũng nên chuẩn theo tướng trạng được dạy trong phẩm Nhập Bí Mật Mạn Đồ
La.
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần bốn hết
[1] Nói “phương
thượng” tức là phía trên của Trung Đài Bát Diệp (Trung Thai Bát Diệp),
gồm các tầng Biến Tri, Thích Ca Viện, Văn Thù Viện và ngoại kim cang giới ở
phía trên của mạn-đồ-la.
[2] Thước Để (Śakti) hay còn gọi là Thước Khất Để, Chước Cất
Để, dịch nghĩa là Sóc (giáo), tức là một loại kích. Đây là vũ khí đặc trưng của
Bấtt Động Minh Vương. Thước Để dùng trong Mật giáo như biểu tượng của oai lực.
[3] Theo phẩm Thành Tựu Tất Địa của
kinh Đại Nhật, tùy theo hình dạng của đàn tràng mà có màu khác nhau. Đàn vuông
là màu vàng, đàn tròn là màu trắng.
[4] Tay
Dữ Nguyện tức là tay kết ấn Dữ Nguyện (còn gọi là Thí Nguyện, hoặc Mãn Nguyện):
Ngửa lòng bàn tay hướng ra ngoài, năm ngón tay duỗi ra hướng xuống dưới. Ngụ ý
tay tuôn ra Như Ý Bảo Châu hoặc nước Cam Lộ.
[5] Đông Mật chia Mạn-đồ-la thành
bốn loại lớn:
- Đại Mạn-đồ-la (còn
gọi là Hình Tượng Mạn-đồ-la, tức là Mạn-đồ-la có vẽ hình các vị tôn thánh, có
màu sắc, tư thế, hình dạng tương ứng với các lời dạy trong kinh Đại Nhật và Kim
Cang Đảnh.
- Tam-muội-da
Mạn-đồ-la không vẽ hình tôn thánh mà chỉ vẽ các vật biểu trưng (thường gọi là
“ấn” trong bản sớ giải này) như đao, kiếm, kích, hoa sen, bảo châu, tích
trượng, bát v.v…
- Pháp Mạn-đồ-la, còn
gọi là Chủng Tử Mạn-đồ-la tức “Tự Mạn-đồ-la” trong bản sớ giải này, nơi mỗi tọa
vị của các tôn thánh chỉ vẽ chữ chủng tử chân ngôn tương ứng.
- Yết-ma Mạn-đồ-la tức
mạn-đồ-la miêu tả tư thế, oai nghi của Phật, Bồ Tát, tác dụng sự nghiệp của các
Ngài, có thể hiểu thô thiển là tổng hợp của cả ba loại trên.
[6] Trong hệ thống Thai Tạng Giới,
khi nhìn vào mạn-đồ la được vẽ trên giấy, vải v.v… treo lên thì phía trên là
phương Đông, phía dưới là phương Tây, bên phải là phương Bắc, bên trái là
phương Nam.
[7] Kim
Cang chữ thập (Vishva-vajra, còn gọi là chày kim cang kép) tức là loại chày kim
cang gồm hai chày kim cang đặt vuông góc với nhau, giống như hình chữ Thập, gồm
bốn đầu kim cang cùng xuất phát từ một khối tròn chung, tạo thành hình dáng chữ
thập, biểu thị bất động, đồng thời biểu thị Tứ Trí của Như Lai cùng phát xuất
từ Đại Viên Kính Trí.
[8] Đạc
là một loại chuông lắc bằng đồng gần giống như Linh, nhưng to hơn. So với Linh
thì Đạc thô hơn. Nếu quả lắc trong lòng Đạc bằng gỗ thì gọi là Mộc Đạc, bằng
đồng thì gọi là Kim Đạc.
[9] Tức
Mạn-đồ-la chỉ vẽ các pháp khí hoặc biểu tượng của các vị tôn thánh, không vẽ
hình người.
[10] Đà
La Ni Tập Kinh (Dhāraṇīsamuccaya) gồm
mười hai quyển, do sa-môn A Địa Cù Đa (Atikūṭa, Vô Cực Cao) dịch vào năm Vĩnh
Huy thứ tư (652) đời Đường tại chùa Huệ Nhật ở kinh đô Trường An. Kinh chép về
nghi quỹ Mật giáo, chia thành năm bộ: Phật Bộ, Bồ Tát Bộ, Kim Cang Bộ, Thiên
Bộ, và Phổ Tập Hội pháp đàn.
[11] Ở
đây, ấn Già Đà nói đúng hơn là Già Đà Bổng, còn gọi là Bảo Bổng, tức một loại
gậy dùng làm vũ khí. Nếu nói theo thủ ấn (Mudra) thì ấn Già Đà như sau: Hai tay
chắp lại, hơi khum các ngón tay để có chỗ trống giữa hai lòng bàn tay, hai ngón
út chéo nhau gập vào lòng bàn tay, hai ngón cái dựng thẳng, hai ngón trỏ cong
lại, đè lên lưng hai ngón giữa.
[12] Do loài quỷ này bụng rất to,
tay chân ngắn, trông như cái vò nên gọi là Ủng Hình Quỷ.
[13] Hiện
Đồ Mạn-đồ-la (現圖曼荼羅),
cỏn được gọi là Tùy Cơ Mạn-đồ-la, là danh từ được Mật giáo Nhật Bản dùng để chỉ
hai bộ Mạn-đồ-la (Thai Tạng và Kim Cang Giới) được vẽ thành hình ảnh cụ thể để
lưu hành. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp đây là hai bộ Mạn-đồ-la do sáng tổ Mật Tông
Nhật Bản (ngài Không Hải) vẽ được lưu giữ tại chùa Thần Hộ và Đông Tự (tương truyền
được trực tiếp truyền thừa từ tổ Huệ Quả). Hiểu theo nghĩa rộng, đây là
Mạn-đồ-la tổng hợp từ các lời dạy của các vị Không Hải, Viên Nhân, Viên Chân,
Tông Duệ mang từ Trung Hoa về. Tương truyền, Hiện Đồ Thai Tạng Mạn-đồ-la do
ngài Thiện Vô Úy cầu thỉnh, mạn-đồ-la liền hiện ra giữa không trung để Ngài vẽ
lại. Còn Kim Cang Giới Mạn-đồ-la là do ngài Kim Cang Trí cảm được. Thai Tạng
Mạn-đồ-la về sau được ngài Huệ Quả truyền cho ngài Không Hải, còn Kim Cang Giới
Mạn-đồ-la do ngài Bất Không truyền cho Huệ Quả. Ngài Huệ Quả là người thuộc
huyện Chiêu Ứng ở kinh đô, sống vào đời Đường, họ ngoài đời là Mã. Thoạt đầu,
ngài học Thiền. Về sau, gặp Bất Không Tam Tạng, ngài Bất Không hết sức ngạc
nhiên, mừng rỡ nói: “Pháp của ta sẽ do ngươi hưng thịnh”. Bất
Không đại sư liền truyền dạy giáo nghĩa Mật Tông cho ngài Huệ Quả. Về sau, ngài
Huệ Quả làm quốc sư cho cả ba triều vua (Đại Tông, Đức Tông, Thuận Tông), các
đệ tử của Ngài đều là hành giả Mật Tông lỗi lạc như Nghĩa Minh, Nghĩa Viên,
Biện Hoằng, Huệ Nhật, Nghĩa Thao, Duy Thượng, Mai Đài, Thao Mẫn, Kiên Thông,
Không Hải v.v...
[14] Thước Khất Để (Śakti) dịch nghĩa là Tác Sóc, tức là một loại
giáo ngắn, thường dùng để bài trí trong đàn Mật Tông, hoặc làm pháp khí của Bất
Động Minh Vương.
[15] Còn
gọi là sương khúc, hay sương vệ, tức là chỗ vị thủ hộ cửa đàn tràng ngự ở hai
bên cửa thông vào đàn tràng.
[16] Tức
là như trong phần trước đã nói, đối với mỗi cạnh của mạn-đồ-la, chia thành chín
phần bằng nhau. Giữ một phần chính giữa làm cửa, mỗi bên cửa là bốn phần cho
cân bằng.
[17] Do cửa vào đàn tràng mở ra ở
phương Tây, Nam tức là bên trái của cửa, Bắc là ở bên phải của cửa, khi đứng ở
ngoài cửa nhìn vào đàn.
[18] Đại
Chúng Sanh ở đây là dịch nghĩa của chữ Ma Ha Tát Đỏa, tức đại Bồ Tát.
[19] Hiểu theo nghĩa thông thường,
kinh có số quyển nhiều, hoặc rất quan trọng cho một tông phái thì gọi là Đại
Kinh. Như Tịnh Độ Tông coi kinh Vô Lượng Thọ là Đại Kinh, Thiên Thai Tông coi
Đại Bát Nhã Kinh là Đại Kinh v.v… Do Đông Mật lấy kinh Đại Bát Nhã làm cơ sở lý
luận cho tánh Không, do vậy, Đại Kinh ở đây chính là kinh Đại Bát Nhã.
[20] Tức
tam-muội của Phật, của Bát Địa Bồ Tát, của Duyên Giác, của Thanh Văn, và của
thế gian như vừa mới nói trong phần trên.
[21] Tám món điên đảo chính là phàm
phu đối với pháp hữu vi sanh diệt, bèn chấp là thường, lạc, ngã, tịnh; Nhị
Thừa đối với Niết Bàn vô vi bèn chấp chẳng phải là thường, chẳng phải lạc,
chẳng phải ngã, chẳng phải tịnh.
[22] Lục
Tế là sáu cái tâm chướng lấp chân tánh, gồm tâm keo kiệt, tâm phá giới, tâm sân
khuể, tâm giải đãi, tâm tán loạn, và tâm si.
[23] Tất
Đàm (Siddhāṃ) còn gọi là Phạn Thư, Phạn
Tự, có nghĩa là “thành tựu hoàn mỹ”, là văn tự được dùng để ghi chép chữ Phạn
từ năm 600 đến 1200. Đây là văn tự được phát triển trên cơ sở văn tự Brahmi,
vốn phát xuất từ sự hoàn thiện hóa văn tự dùng trong vương triều Gupta. Phần
lớn các kinh Phật được mang tới Trung Hoa theo con đường tơ lụa được chép bằng
văn tự Tất Đàm, đặc biệt là các văn bản Mật giáo. Sau này, tại Ấn Độ, văn tự
Tất Đàm bị thay thế bởi chữ viết theo kiểu Devanagari (Thiên Thành văn tự).
Đồng thời, một biến thể của văn tự Tất Đàm là Gaugi đã phát triển thành các văn
tự của các xứ Đông Nagari, Tirhuta, Odia, và tự mẫu của Nepal. Do vậy, cho đến
nay văn tự Tất Đàm chỉ còn được bảo tồn ở Đông Á (Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn quốc
…) qua các văn bản hoặc nghi thức Mật giáo, hoặc các kiến trúc, điêu khắc liên
quan tới Mật giáo.
[24] Tức là mạn (tự chấp trước
chính mình hơn người, có nhiều ưu điểm), quá mạn (chẳng hơn người khác mà tự
cho là mình ăn đứt người ta), mạn quá mạn (do hơn người khác điều gì đó bèn
kiêu ngạo, hống hách), ngã mạn (chấp vào ngã mà kiêu mạn), tăng thượng mạn
(chưa đắc xưng là đã đắc, chưa chứng xưng là đã chứng), ty mạn (tuy hơn người
khác mà tự ty mặc cảm mình thua kém họ), tà mạn (chính mình chẳng có đức mà tự
cậy mình đức rất nhiều).
[25] Tứ ma: Phiền não ma, ấm ma, tử
ma, và thiên ma.
[26] Chữ
Na này tương ứng với âm Da (đa) trong tiếng Phạn. Không hiểu vì sao cổ đức dùng
âm N trong tiếng Hán để phiên âm D (nhất là trong thời Đường - Tống); vì
thế, có bản dịch phiên âm Mandala thành Mạn Noa La. Hoặc phiên âm tên Chuẩn Đề
Bồ Tát (Cundā) thành Tôn Na như Trì Minh
Tạng Du Già Đại Giáo Tôn Na Bồ Tát Minh Thành Tựu Nghi Quỹ chẳng hạn.
[27] Chữ
Ma này tương ứng với âm Ba trong Phạn văn. Nhất là thời Đường - Tống, một số
bản dịch khi phiên âm thần chú thường phiên âm B thành âm M, chẳng hạn câu đầu
của chú Tiêu Tai Giáng Cát Tường được phiên âm là “nam mô tam mãn đa
một đà nẫm” (quy mạng hết thảy chư Phật) trong khi tiếng Phạn là Namaḥ samanta Buddhānāṃ.
[28] Hai
mươi lăm Hữu chỉ là tam giới được chia nhỏ, chẳng hạn sáu đường, tứ đại châu
v.v… mỗi nơi đó đều gọi là một hữu.
[29] Phẩm
Hóa Thành Dụ trong kinh Pháp Hoa nêu thí dụ: Để đến được chỗ có của báu, phải
vượt qua đường xa đầy dẫy hiểm nạn, dài năm trăm do-tuần.
[30] Đây là một khái niệm được đề
ra trong Nhân Minh Học. Theo đó, nhân có sáu loại:
- Năng tác nhân (còn
gọi là sở tác nhân, tùy tạo nhân): Chỉ chung tất cả các sự vật chẳng gây trở
ngại cho sự phát sanh của một sự vật nào đó.
- Câu hữu nhân (còn
gọi là cộng hữu nhân, cộng sanh nhân) tức là cái nhân có thể đồng thời lần lượt
làm nhân và quả.
- Đồng loại nhân (còn
gọi là tự phần nhân, tự chủng nhân) chính là hết thảy các pháp hữu lậu từ quá
khứ đến hiện tại, do cùng loại tương tự nương vào nhau. Chẳng hạn như thiện
pháp sẽ làm nhân cho thiện pháp phát sanh.
- Tương ứng nhân: Khi
nhận thức phát sanh, tâm và tâm sở đồng thời tương ứng phát khởi, cùng nương
vào nhau mà tồn tại.
- Biến hành nhân: Tức
là nói đến một pháp có thể hiện diện trọn khắp trong hết thảy các pháp nhiễm ô,
phát sanh từ mười một món Biến Hành Tâm Sở.
- Dị thục nhân (còn
gọi là tác báo nhân): Chính là nghiệp nhân thiện ác chiêu cảm cái quả khổ lạc
trong ba đời.
[31] Đây
là các chữ ṅa (ङ),
ña (ञ),
ṇa (ण),
na (न),
ma (म)
trong tiếng Phạn.
[32] Mười hai thanh chính là mười
hai nguyên âm ghép với các phụ âm, tức a, ā, i, ī, u, ū, e, ai, o, au, aṃ, aḥ.
Thanh thứ mười một chính là thêm một cái chấm trên chữ A. Trong các nguyên âm
trên đây, ngoại trừ A, các âm khác khi viết sẽ dùng các vạch ký hiệu nên gọi là
vạch tam-muội. Chẳng hạn như Hetu (हेतु), chữ He do Ha (ह) và E (ए), nhưng E chỉ được viết bằng vạch tam muội
tức là े, nên He được viết thành हे. Tương tự, Tu (तु)
do chữ Ta (त)
ghép với vạch tam-muội của chữ U (tức ु) nên thành तु thay vì viết là तउ. Vì thế, lời Sớ mới
viết “từ thanh thứ ba trở đi dùng các nét để thêm
vào đều là tam-muội”.
[33] Đây
là một thí dụ được nói trong kinh Đại Bát Niết Bàn, quyển thứ bảy: “Ngã
giả tức thị Như Lai Tạng nghĩa. Nhất thiết chúng sanh tất hữu Phật tánh, tức
thị Ngã nghĩa. Như thị Ngã nghĩa tùng bổn dĩ lai thường vị vô lượng phiền não
sở phú, thị cố chúng sanh bất năng đắc kiến. Thiện nam tử! Như bần nữ nhân xá
hữu chân kim chi tạng, gia nhân đại tiểu vô hữu tri giả. Thời hữu dị nhân,
thiện tri phương tiện, ngữ bần nữ nhân: Ngã kim cố nhữ, nhữ khả vị ngã vân trừ
thảo uế. Nữ tức đáp ngôn: Ngã bất năng dã, nhữ nhược năng thị ngã tử kim tạng
nhiên hậu đương tốc vị nhữ tác… Thị nhân tức ư kỳ gia quật xuất chân kim chi
tạng” (Ngã chính là nghĩa Như Lai Tạng. Hết thảy chúng sanh đều có
Phật tánh, tức là ý nghĩa của Ngã. Nghĩa của Ngã như thế vốn thường bị vô lượng
phiền não che lấp. Vì thế, chúng sanh chẳng thể thấy được. Thiện nam tử! Như
người nữ nghèo, nhà có kho vàng ròng, người nhà lớn nhỏ chẳng có ai biết. Khi
đó, có người lạ khéo biết phương tiện, bảo người nữ nghèo rằng: ‘Ta nay mướn bà
để dọn cỏ dại”. Người nữ liền đáp: “Tôi chẳng thể, nếu ông có thể chỉ cho con
tôi kho vàng. Sau đó, tôi sẽ nhanh chóng làm cho ông”… Người ấy liền ở trong
nhà bà ta đào ra kho vàng ròng).
[34] Vi
Đà thế tiên: Những người tu khổ hạnh trong Bà La Môn giáo.
[35] Có
thuyết nói loại cỏ này tương ứng với hương Tô Hợp.
[36] Hương Phụ Tử chính là cỏ gấu
(nut grass), còn gọi là cỏ cú, hay cỏ gấu vườn, thuộc họ Cói. Đây là một loại
cỏ dại, có thể mọc cao tới 40 cm. Trong y học, củ cỏ gấu được dùng làm thuốc để
chữa trị vết thương, điều hòa khí, chữa mụn nhọt, trị chứng nôn mửa, sốt, và
viêm nhiễm.
[37] Tử
Khoáng (bastard teak, flame of the forest) là một loại cây thường thấy ở Đông
Nam Á, tức cây lâm vố, hoặc cây gièng gièng, còn có các tên gọi như Dhak hoặc
Palash tại Ấn Độ. Có lẽ không dùng hương chế từ loại cây này vì tại Ấn Độ, trên
cây này có nhiều loại bọ hút nhựa như Kerria Lacca, chúng bị người Ấn bắt lấy
trích nhựa đã được tiêu hóa bởi chúng để chế thành chất nhựa cánh kiến
(shellac) chuyên dùng để sơn phết, hoặc nhuộm răng.
[38] Ngu
ý cho rằng đây là món Kheer (còn gọi là Payasam hay Payesh) tức là gạo nấu nhừ,
khá đặc, thêm đường, sữa, đôi khi thêm các loại hạt khô như hạnh nhân, hạt
pistachio, và bột đậu khấu, hoặc nghệ để tạo vị. Đây là món ngọt rất phổ biến
trong các tiệm ăn của Ấn Độ.
[39] Hiện
thời, loại bánh này được gọi là Papadam, thường làm bằng bột (ngoài bột gạo,
còn có thể sử dụng bột đậu, kê hoặc khoai tây) nhào thành miếng mỏng như bánh
tránh của người Việt rồi nướng trên lò hay chiên trong dầu. Đôi khi họ cho rất
nhiều tiêu để tạo vị.
Đại
Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần năm
大毘盧遮那成佛經疏
Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê ký
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và
Huệ Trang
(Kinh)
Hoặc dĩ tâm cúng dường, nhất thiết giai tác chi. Trì chân ngôn hành giả, tồn ý
vật di vong. Thứ cụ Ca La Xa, hoặc lục, hoặc thập bát, bị túc chư bảo dược,
thịnh mãn chúng hương thủy. Chi điều thượng thùy bố, gián sáp hoa, quả, thật,
đồ hương đẳng nghiêm sức. Kết hộ nhi tác tịnh, hệ cảnh dĩ diệu y, bình số hoặc
tăng quảng. Thượng thủ chư tôn đẳng, các các phụng kiêm phục. Chư dư Đại Hữu
Tình, nhất nhất giai hiến chi.
(經)或以心供養,一切皆作之。持真言行者,存意勿遺忘,次具迦羅奢,或六或十八,備足諸寶藥,盛滿眾香水。枝條上垂布,間插華果實,塗香等嚴飾,結護而作淨,繫頸以妙衣,瓶數或增廣。上首諸尊等,各各奉兼服,諸餘大有情,一一皆獻之。
(Kinh:
Hoặc dùng tâm cúng dường, hết thảy đều thực hiện. Hành giả trì chân ngôn, chú
tâm đừng quên sót. Sắp đủ Ca La Xa[1], hoặc sáu, hoặc mười tám, trọn
đủ các thuốc báu, chứa đầy các nước thơm. Xếp cành nhánh buông rủ, cắm xen kẽ
hoa quả, hương bôi để trang hoàng. Y đẹp buộc cổ bình. Hoặc tăng thêm số bình.
Nơi thượng thủ chư tôn, mỗi mỗi cúng gấp đôi. Các Đại Hữu Tình khác, mỗi mỗi
đều hiến dâng).
Như
đức Thế Tôn đã nói, trong các thứ cúng dường, tâm là tối thượng. Đối với mỗi
một vật cúng như trên, đều nên vận tâm trọn khắp pháp giới, dùng chân ngôn và
bí ấn để gia trì, như trong phần Thứ Tự Cúng Dường đã rộng nói. Hoặc quán đại
bảo thụ vương phủ rợp hết thảy các thế giới, giống như cây chúa Bồ Đề (Bồ Đề
thụ vương) [được nói] trong kinh Hoa Nghiêm trọn đủ các tướng trang nghiêm. Mỗi
thứ vật cần dùng để thọ dụng, đều từ trong ấy tuôn ra chẳng có cùng tận, tới
khắp trước mặt hết thảy hiền thánh. Sự cúng dường rộng lớn cũng phủ trọn hết
thảy chúng sanh. Đã vận tâm như thế xong, hãy nên dùng Hư Không Tạng Chuyển
Minh Phi để gia trì, sẽ tự nhiên tùy ý thành tựu.
Kế
đó, nói về pháp “bình cát tường”: Hãy nên dùng các thứ báu như
vàng, bạc v.v… [để làm bình], cho đến nếu chẳng thể, hãy nên dùng đồ sứ, hoặc
đồ gốm sạch. [Cái bình ấy] phải tột bậc viên mãn, đoan chánh, lại chẳng rò rỉ.
Đúng như phương tiện trong Tỳ Ni (Luật Tạng) mà gạn lọc nước sạch, chứa đầy
trong đó. Trong ấy, đặt năm thứ báu và ngũ cốc, năm loại thuốc như trong kinh
Cù Hê đã nói; nhưng năm thứ thuốc ấy đều thuộc về Ngũ Thiên Trúc, phương này
chẳng thể có đủ được. Dùng các thứ bột hương bôi như đã nói trong phần trước
hòa vào nước, bỏ thêm long não và ngưu hoàng. Nơi miệng bình, cắm hoa đẹp nhất,
hoặc tất cả các loại hoa nổi tiếng tại địa phương. Lấy các thứ hoa, quả, cành
lá tươi tốt, trọn đủ, để cắm xen kẽ rủ xuống vào đó, sao cho tột bậc đoan
nghiêm. Dùng lụa màu buộc vào cổ bình, cũng đeo tràng hoa, dùng các thứ hương
bôi lên. Phương tiện kết giới, thủ hộ, tịnh trị cũng như trong phần Thứ Tự Cúng
Dường đã nói.
Tại
Trung Thai Tạng [của Mạn-đồ-la], nên đặt năm cái bình. Bình lớn nhất [cúng dường] đức
Đại Nhật đặt tại hoa đài, các bình khác đặt trên nhụy hoa. Phàm khi dâng thứ ăn
lên Trung Thai, đối với bốn vị Phật và bốn vị Bồ Tát, đều đặt nơi tòa của các
Ngài trong hoa đài. Dâng cúng cho đức Tỳ Lô Giá Na thì đặt trước đài hoa. Nếu
có sức thì nơi mỗi vị tôn thánh, đều đặt một bình. Nếu chẳng thể làm như vậy,
thì ở chỗ các vị tôn thánh thượng thủ các phương trong, ngoài, đều đặt [bảo
bình]. Ở bốn cửa, mỗi nơi đều đặt một bình, ở bốn góc cũng đặt mỗi nơi một
bình. Ở ngoài cửa ra vào, lại đặt riêng một bình nữa. Dùng chân ngôn và ấn của
ngài Hàng Tam Thế để gia trì. Lúc muốn ra vào [đàn tràng], hãy nên dùng [nước
từ bảo bình đặt ở ngoài cửa ra vào] để rưới lên thân tự thủ hộ, và khi gọi đệ
tử vào đàn, cũng dùng [nước ấy] để rảy. Ở chỗ hộ-ma, lại đặt riêng một bình.
Đại lược là có thể hơn một trăm bình. Kinh nói “sáu bình” là
hạn lượng tối thiểu. Trong ấy, ở bốn phương của Trung Thai Bát Diệp, mỗi phía
đặt một bình và ở ngoài cửa một bình là nhất định chẳng thể thiếu. Nếu dùng
mười tám bình, thì Trung Thai đặt một bình, nơi viện thứ hai, chỗ Đại Cần Dũng
(tức chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật trong Thích Ca Viện), Liên Hoa, Kim Cang Bộ Chủ
và ở cửa là bốn bình, bốn vị đại Bồ Tát thuộc viện thứ hai, như Văn Thù v.v…
[nơi mỗi vị] đặt một bình, bốn cửa thuộc ngoại viện, bốn góc và ở ngoài cửa sử
dụng số bình sao cho vừa đủ.
Đối
với người muốn nhận quán đảnh, hãy tùy theo số người mà tạo một bình, chớ để
thiếu khuyết. Giống như bình đựng nước thơm, đồ đựng át-già cũng thế, hãy nên
dùng vàng, bạc, bạch lưu ly v.v… để làm đồ đựng, cho đến thương-khư, đồng hun,
đá, gỗ, hoặc dùng lá cây, đồ gốm mới để đựng các nước thơm, cắm các hoa đẹp.
Đối với mỗi chỗ nên đặt bình như đã nói trên đây đều đặt [bình đựng Át-già].
Lại ở chỗ các vị tôn thánh, đều dâng y sạch; như phần trước đã nói, ở chỗ các
vị tôn thánh thượng thủ nên chuẩn theo cách dâng thức ăn mà tăng gấp đôi. Vì
thế nói “các các phụng kiêm phục” (ở mỗi chỗ đều nên dâng, lại
còn nhiều gấp đôi).
Nếu
chẳng thể làm được, chỉ nên đặt [bảo bình] ở chỗ các vị tôn thánh thượng thủ.
Hoặc đem tất cả thứ mình cất chứa được, đều đặt trong viện Trung Thai, vận tâm
cúng dường hết thảy chư tôn. Phàm các vật dâng cúng ở Trung Thai, hãy nên đặt ở
chỗ trống thuộc ranh giới tầng thứ nhất của phía ngoài Trung Thai. Nếu dâng cho
các vị tôn thánh khuyết danh, hãy nên đặt trong ranh giới của tầng thứ ba. Lại
nữa, khi cúng dường, trước hết nên dâng nước Át-già; kế đến dâng hương bôi, kế
đó, dâng hoa, hương đốt, thức ăn. Sau cùng, dâng đèn chiếu sáng, [tuy] kinh văn
chẳng nói thứ tự trước sau.
Lại
nữa, nếu giải thích theo kiểu sâu xa, bí mật, hương bôi là nghĩa Tịnh. Như
hương bôi trong thế gian có thể tịnh trừ cấu uế, dứt trừ nhiệt não. Nay hành
giả dùng Át-già như hư không để gột rửa cấu nhơ một trăm sáu mươi loại hý luận
trong Bồ Đề tâm, dùng trụ vô vi giới để bôi, trừ diệt nỗi nóng bức sanh tử, đạt
được tánh thanh lương. Vì thế nói là “hương bôi”. Nói đến hoa
thì nghĩa là “sanh bởi từ bi”. Tức là chủng tử tịnh tâm trong
Đại Bi Thai Tạng vạn hạnh xòe nở, trang nghiêm cây Bồ Đề của Phật, cho nên nói
là “hoa”. Hương đốt nghĩa là “trọn khắp pháp giới”. Như cây
chúa trên cõi trời khi nở hoa, mùi hương ngược gió hay thuận gió tự nhiên lan
khắp. Hương Bồ Đề cũng thế, tùy thuộc mỗi công đức được lửa huệ đốt, được gió
giải thoát thổi, thuận theo sức bi nguyện mà lan tỏa, xông khắp hết thảy. Vì
thế nói là “hương đốt”. Thức ăn là cam lộ vô thượng, là vị bất
sanh bất tử. Nếu quả đức ấy lại thành thục, sẽ là vị không chi hơn được nữa.
Khi đó, bèn gọi là “nhập chứng”, cho nên nói là “thức
ăn”. Nói tới đèn, chính là ý nghĩa “quang minh của Như Lai phá
tối tăm”. Ý nói: Khi đạt tới quả địa thì tâm chướng đều tận, chuyển vô
tận huệ, chiếu trọn khắp chúng sanh, cho nên nói là “đèn”.
Nếu
nói theo chiều dọc, trong mỗi địa đều có đủ năm nghĩa như thế. Nếu nói theo
chiều ngang, trong mỗi môn, đều có đủ năm nghĩa như thế. Chẳng hạn như thức ăn
được nói trong phần kinh văn trên đây, tuy ngon miệng như nhau, nhưng tùy theo
tài nghệ khéo nêm nếm, chế biến của mỗi người mà có đủ loại hương vị khác nhau!
Các thứ khác như hương, hoa v.v… cũng nên phỏng theo đó mà suy. Nếu hành giả
khéo có thể dùng năm tự môn làm kim cang vũ hý ứng hợp trọn khắp chúng sanh, ví
như hòa hợp năm vị, sắp đặt năm màu, hòa hợp ngũ âm, điều hòa năm loại thuốc,
tuy tánh phận chẳng vượt ngoài năm loại, nhưng thiên biến vạn hóa, xoay chuyển
khéo léo chẳng cùng tận! Hãy nên biết người ấy khéo hiểu ý nghĩa của Đồ Hương
tam-muội, cũng hiểu ý nghĩa của Hoa tam-muội, Thiêu Hương tam-muội, Ẩm Thực
Đăng Minh tam-muội, cũng hiểu ý nghĩa của năm loại Đà La Ni ấy. Dùng các vật
cúng thuộc đủ loại pháp môn như thế để cúng dường Tâm Vương Như Lai, có thể
khiến cho chư tôn hoan hỷ, ắt đạt được điều mong cầu. Nếu từ ý nghĩa ấy, phản
quán hương, hoa v.v… thuộc Thế Đế, sẽ tự nhiên biết chỗ đáng nên dùng của sắc,
hương, tánh phận ấy, vô lượng phương tiện sẽ tự nhiên hễ gặp chuyện bèn sanh
khởi.
(Kinh)
Như thị tu cúng dường, thứ dẫn ưng độ giả, sái chi dĩ tịnh thủy, thọ dữ đồ
hương, hoa, linh phát Bồ Đề tâm, ức niệm chư Như Lai, nhất thiết giai đương
đắc, sanh ư tịnh Phật gia. Kết Pháp Giới Sanh ấn, cập dữ Pháp Luân ấn, Kim Cang
hữu tình đẳng, nhi dụng tác gia hộ. Thứ ưng đương tự kết, chư Phật tam-muội-da,
tam chuyển gia tịnh y, như Chân Ngôn pháp giáo, nhi dụng phú kỳ thủ.
(經)如是修供養,次引應度者,灑之以淨水,授與塗香華,令發菩提心,憶念諸如來,一切皆當得,生於淨佛家。結法界生印,及與法輪印,金剛有情等,而用作加護。次應當自結,諸佛三昧耶,三轉加淨衣,如真言法教,而用覆其首。
(Kinh:
Tu cúng dường như thế, kế dẫn người đáng độ, dùng tịnh thủy rưới vẩy, trao cho
hương bôi, hoa, dạy phát Bồ Đề tâm, nghĩ nhớ các Như Lai, hết thảy sẽ đều được,
sanh nhà Phật thanh tịnh. Kết ấn Pháp Giới Sanh, cùng với ấn Pháp Luân, Kim
Cang hữu tình thảy, dùng để làm gia hộ. Kế đó, nên tự kết, chư Phật
tam-muội-da, ba lượt gia y sạch, như Chân Ngôn pháp giáo, dùng để che đầu họ).
Tiếp
đó, nói về chi phần “gia trì, răn dạy khi tác pháp” và chi
phần hộ-ma. Phần “gia trì, răn dạy” nhằm trả lời ba câu hỏi
của ngài Kim Cang Thủ, tức là dẫn đệ tử [nhập đàn tràng] như thế nào? Cho họ
quán đảnh như thế nào? Cúng dường thầy như thế nào? Hỏi ba câu ấy xong, mới hỏi
về chỗ hộ-ma. Nay trong lời đáp ở đây, trước hết nói về chuyện dẫn đệ tử, liền
nói về chuyện hộ-ma rồi mới trả lời hai câu kia. Nhưng hộ-ma là chung cho hết
thảy các pháp sự, chẳng phải chỉ nhằm gia trì đệ tử mà thôi! Vì thế, đáng nên
tách thành một chi phần riêng! Trong quyển trước [của chánh kinh], đã nói trong
đêm thứ bảy, khi tác pháp, vẽ các phương vị trong Mạn-đồ-la, trong ấy đã riêng
nói về các chi phần trọng yếu; do vậy, mạch văn bị gián đoạn. Nay bèn thừa tiếp
mạch văn trong phần trước, nói theo thứ tự.
A-xà-lê
đã vẽ Mạn-đồ-la xong, quán sát trọn khắp, biết đã hoàn bị rồi mới ra ngoài, sái
tịnh đúng như pháp. Giống như trên, vận tâm lễ trọn khắp hết thảy các đức Như
Lai, sám hối, quy y, tự tịnh tam nghiệp. Sau đấy, tuân theo cách cúng dường,
kết tam-muội-da minh v.v… để hộ thân. Các vật cúng dường ấy cũng dùng chân ngôn
Bất Động để trừ cấu cho thanh tịnh, đúng như pháp mà chuẩn bị trọn vẹn. Lại nên
mặc Kim Cang giáp v.v… sao cho mỗi mỗi đều đúng pháp. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê
nói: “Khi làm thân Như Lai (khi quán tưởng thân mình chính là thân Như
Lai), hãy nên dùng Như Lai giáp. Khi làm Kim Cang thân, nên dùng Kim Cang giáp.
Hãy nên thay đổi để dùng”. Lại chuẩn theo các kinh như Tô Tất Địa
v.v…, dùng các tướng nhục kế, viên quang của Như Lai để trang nghiêm thân sẽ
càng tốt hơn, hoặc có thể dùng chung, hoặc dùng chân ngôn Thành Biện Chư Sự để
làm. Làm như thế xong, sau đấy mới đến chỗ Mạn-đồ-la, theo lẽ đáng nên mà ngồi,
trụ trong Du Già.
(Kinh)
Thâm khởi bi niệm tâm, tam tụng tam-muội-da, đảnh đới dĩ Ra tự, nghiêm dĩ Đại
Không điểm, châu táp khai diễm man. Tự môn sanh bạch quang, lưu xuất như mãn
nguyệt. Hiện đối chư Cứu Thế, nhi tán ư tịnh hoa. Tùy kỳ sở chí xứ, hành nhân
nhi tôn phụng. Mạn-đồ-la sơ môn, đại long sương vệ xứ, ư nhị môn trung gian, an
lập ư học nhân, trụ bỉ tùy pháp giáo, nhi tác chúng sự nghiệp. Như thị linh đệ
tử, viễn ly ư chư quá, tác tịch nhiên hộ-ma, hộ-ma y pháp trụ.
(經)深起悲念心,三誦三昧耶,頂戴以囉字,嚴以大空點,周匝開焰鬘。字門生白光,流出如滿月,現對諸救世,而散於淨華,隨其所至處,行人而尊奉。漫荼羅初門,大龍廂衛處,於二門中間,安立於學人,住彼隨法教,而作眾事業,如是令弟子,遠離於諸過,作寂然護摩。護摩依法住。
(Kinh:
Khởi tâm bi niệm sâu, tụng thệ nguyện ba lượt, đỉnh đầu đội chữ Ra, trang
nghiêm chấm Đại Không, vòng lửa sáng vây quanh. Tự môn sanh bạch quang, túa ra
như trăng tròn. Đối trước các Cứu Thế, mà tán rải tịnh hoa. Hoa rơi xuống chỗ
nào, hành nhân phụng pháp ấy. Cửa ngoài Mạn-đồ-la, nơi đại long vương trụ, giữa
tầng cửa thứ hai, xếp kẻ học đứng đó. Trụ đó, theo pháp giáo, thực hiện các sự
nghiệp. Dạy đệ tử như thế, xa lìa các lỗi lầm, làm tịch nhiên hộ-ma, hộ-ma theo
pháp trụ).
Trước
hết, dùng môn chữ Ra (र) để tịnh hóa trọn khắp tâm họ. Kế đó, tịnh
hóa đất nơi đạo tràng, đều trừ sạch các tướng ương hoạn giống như hư không. Sau
đấy, dùng môn chữ Ha (ह) để khởi đại phong luân. Trên phong luân,
dùng chữ Phạ (व)
để khởi biển nước thơm, liền dùng môn chữ A (अ) để khởi đất kim cang và
núi chúa Diệu Cao. Hãy nên biết Mạn-đồ-la này ở ngay trên đó, vâng theo phương
tiện quán trong phần Thứ Tự Cúng Dường để tạo đủ mọi trang nghiêm, dùng hư
không tạng để gìn giữ. Kế đó, nơi mỗi một tôn vị trong Mạn-đồ-la, đều quán chữ
chủng tử của mỗi vị ấy. Từ các chữ ấy, đều chuyển thành thân Bổn Tôn. Nếu vị
A-xà-lê chưa dung hội quán đạo, sợ kéo dài thời gian, chỉ từ nơi đài hoa sen
thuộc Trung Thai mà quán chữ A. Tự môn tỏa ra vô lượng quang, chiếu trọn khắp
các tọa vị của chư tôn. Lúc bấy giờ, chư tôn liền hiện. Khi đó, dùng phương tiện
để chuyển quán “các vị tôn thánh như thế và thân ta chẳng hai, chẳng
khác”, tức là chư tôn liền ở ngay trong thân. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê
nói: “Nếu hành giả chưa trụ Du Già, sao có thể tạo đàn pháp như thế
được? Cho tới khi mới kiến lập, đã quán [chư tôn đều ở] trong thân rồi mới vẽ
vời ư? Nếu là bậc thâm hạnh A-xà-lê, sẽ thường tụ họp với thánh chúng trong Đại
Bi Thai Tạng như thế, cũng liền chứng biết cái tâm này của ta cũng giống như
mười câu duyên sanh rốt ráo chẳng thể được!”
Quán
Bổn Tôn xong; kế đó, lại vận tâm tưởng đủ loại cỗ xe báu, dùng chân ngôn và ấn
Bất Động để gia trì. Dùng đó để kính cẩn nghênh đón các vị thánh và tịnh trị
đường nẻo. Kế đó, triệu thỉnh. Kinh Cù Hê nói: “Đương các dĩ bổn chân
ngôn phụng thỉnh, hoặc dĩ Mạn-đồ-la chủ chân ngôn đô thỉnh chư tôn” (Hãy
nên dùng chân ngôn của mỗi vị tôn thánh để phụng thỉnh, hoặc đều dùng chân ngôn
của vị chủ Mạn-đồ-la để thỉnh chư tôn). Hoặc vâng theo những điều được nói
trong bổn giáo (pháp môn mà hành nhân đang tu tập). Hãy nên tùy ý [thực hiện]
rộng lược, kiêm dùng chân ngôn và ấn triệu thỉnh. Hơn nữa, điều được đề cao
trong kinh này là “bổn tọa thọ thỉnh” (vị bổn tôn chẳng rời
bảo tọa mà tiếp nhận lời triệu thỉnh), lại còn dùng tướng “chẳng đến mà
đến” để tới đạo tràng này, chẳng giống như trong thô phương tiện có
tướng đây, kia.
Đại
chúng đã vân tập xong, hãy nên dùng Bất Động Minh (chân ngôn của ngài Bất Động
Minh Vương) để trừ khử các chướng, tức là phô bày ba loại tam-muội-da để gia
trì. Kế đó, hãy nên dâng nước Át-già và trải tòa, nói như thế này: “Đức
Thế Tôn đến lành thay! Đức Thế Tôn đến lành thay! Do sức bổn nguyện mà đến
giáng hiện. Nguyện rủ lòng gia trì, tiếp nhận lời thỉnh cầu này và các vật cúng
nhỏ nhoi. Do đại từ bi, hãy rủ lòng tiếp nhận”. Khi đó, A-xà-lê do muốn
thực hiện Kim Cang sự, lại dùng đao Vô Động Huệ để tự trừ chướng nơi thân,
chuyển [bản thân] thành Kim Cang Tát Đỏa hàng phục ma nghiệp. Vẫn dùng huệ đao
để kết giới ở các phương. Lại còn dùng Như Lai đại giới chân ngôn và ấn để kết
giới chung quanh, dùng tứ đại hộ[2] để thủ hộ mỗi phương. Lại trì
Vô Kham Nhẫn Đại Hộ[3] để đều thủ hộ trọn khắp.
[Thiện
Vô Úy] A-xà-lê nói: “Phàm tạo Mạn-đồ-la, từ đầu trở đi đều dùng chân
ngôn của ngài Bất Động, hoặc [dùng chân ngôn của] ngài Hàng Tam Thế để hộ trì
cuộc đất ấy. Trong khoảng ấy, mỗi lúc trì tụng, đều đúng pháp kết giới, xong việc
sẽ giải giới. Tới đêm tác pháp, lại kết giới đầy đủ trong phạm vi của kim cang
tuyến (tức chỉ ngũ sắc đã được gia trì chăng quanh các cọc kim cang để ấn định
ranh giới của đàn tràng). Nơi đàn làm quán đảnh hoặc hộ-ma, ở phía ngoài
Mạn-đồ-la, nên chăng dây quanh khu vực ấy, sao cho thông với phía trong, và xếp
đặt cửa ra vào. Ở phía ngoài Mạn-đồ-la, đều dùng kim cang tuyến để vây quanh
làm ranh giới. Tới khi cúng dường, hộ-ma, cũng nên vận tâm. Ở nơi cửa ra vào,
nâng dây kim cang để qua lại, thông đến chỗ chư tôn. Lại nữa, khi kết giới, chỉ
nên ở chỗ tòa của mình để tác pháp như lệ thường. Nếu muốn đi nhiễu một vòng để
kết giới trọn khắp thì cũng đều thành tựu. Nếu đã kết giới, mà bỗng có vọng
niệm thì giới bị phá, hoặc đủ thứ ma sự dấy lên, hãy liền trì niệm Vô Kham Nhẫn
Đại Hộ. Nếu muốn cho hết thảy mọi lúc đều không có chướng ngại, đối với chỗ kết
giới ấy và các vật cúng, đều trước đó dùng Đại Hộ để thủ hộ. Sau đó, chướng dấy
lên, lại nên sử dụng [chân ngôn ấy để diệt trừ]”.
Kế
đó, hãy nên làm lễ, dâng nước Át-già, dùng đại huệ đao[4] để rảy khắp các vật cúng dường,
tịnh hóa bằng tâm pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Nếu lúc dâng hương bôi, hãy nên
trụ trong Đồ Hương chân ngôn để trì. Lúc theo thứ tự cúng dường, lại nhất nhất
dùng chân ngôn của mỗi vị tôn thánh ấy để gia trì, hoặc thông, hoặc biệt, hoặc
dùng chân ngôn mà chính mình đang trì tụng. Các vật cúng khác cũng phỏng theo
đó. Lại nên thực hiện pháp “tâm cúng dường”, trì minh chú của
ngài Hư Không Tạng, và dùng kim cang A-lợi-sa để ngâm tụng, tán thán. Kế đó, ra
ngoài để thí thực cho quỷ thần Khoáng Dã. Theo đồ hình, ngoài cửa Đông thí thực
cho Tỳ Na Dã Ca, ngoài cửa Nam thí cho Nghiệt Lật Hà (Graha); đó là loại quỷ
dựa người. Ngoài cửa Tây, thì cho Nghiệt Ra, đó là quỷ gây tật dịch. Ngoài cửa
Bắc, thí cho Đồ Cát Nhĩ (Ḍākinī). Ở hai
bên ngoài cửa đều đặt bốn vị trí. Nhưng kinh Cù Hê dạy: “Giai thị La
Sát, Tỳ Xá Xà, Bộ Đa, chư thực đạm huyết nhục giả, chủng chủng phi nhân chi
loại, hoặc cư địa giả, hoặc cư thụ lâm giả” (đều là La Sát, Tỳ Xá Xà (Piśāca)[5], Bộ Đa (Bhūta)[6], các loại phi nhân ăn nuốt máu thịt,
hoặc sống trên mặt đất, hoặc ở trong rừng cây). Và các loài hễ tâm nghĩ tới,
đều tùy theo phương vị của họ để thí trọn khắp. Hết thảy thức ăn dùng cúng
dường trong Mạn-đồ-la đều gom chung lại một chỗ. Và các thứ như hương, hoa v.v…
đều chia ra [theo từng loại], đặt chung một chỗ. A-xà-lê hãy nên khởi tâm pháp
thí đại bi vô hạn, từ trong Du Già, quán tưởng đủ loại vật thọ dụng, cũng dùng
minh chú của ngài
Hư Không Tạng để gia trì rồi rải trọn khắp. Các quỷ thần ấy thọ thực, sẽ không
gây chướng cho Mạn-đồ-la. Hãy nên khởi đầu từ phương Đông, kế đó là qua các
phương Nam, Tây, Bắc. Trọn hết một vòng như thế xong, lại thí ở phương Đông
Bắc; kế đó qua các phương Đông Nam, Tây Nam, và Tây Bắc. Lại hết một vòng xong,
lại đến phía Đông của đàn để thí thực cho quỷ thần ở phương trên. Sau đó, qua
phương Tây của đàn để thí thực cho quỷ thần ở phương dưới. Nói chung là tụng
[chân ngôn] ba lần vào thức ăn. Trong các pháp sự, pháp này khó nhất, vì trong lúc
ấy, có thể hiện ra đủ loại hình dạng đáng sợ nhất, hoặc nghe sấm rền ầm vang,
hoặc tiếng dã can (chó rừng) tru v.v… đủ loại tướng lạ. A-xà-lê hãy nên tự khéo
an tâm. Lại nữa, khi sắp thí, trước đó, hãy nên phòng hộ thân này, khiến cho
mỗi mỗi đều đúng như pháp. Nếu họ ăn hết rồi lại muốn thêm, hãy lại thí tiếp,
cốt sao dồi dào khiến cho họ hoan hỷ. Nếu vật dụng ít, chỉ thuận theo những thứ
có được mà thôi!
Phàm
vật để dâng hiến trong đàn tràng, cũng nên dùng tâm bình đẳng, chớ nên có thiếu
sót! Kinh Cù Hê dạy: “Nhược hành thực thời, thác ngộ, khuyết thiếu, tức
ưng bổ chi, nhưng khất hoan hỷ. Sở hành thực loại, nhược bất biến giả, ưng dĩ
dư vật sung số dã” (Nếu lúc hành thí thực mà có sai lầm, thiếu sót,
hãy nên bổ sung liền, vẫn xin họ hoan hỷ. Các vật thực để thí nếu chẳng trọn
khắp, hãy nên dùng vật khác thêm vào cho đủ số). Thí thực cho các phương đã
xong, rửa tay, sái tịnh, ở trước cửa [Mạn-đồ-la] đốt hương cúng dường. Kế đó,
vào trong [đàn tràng], dâng Át-già, hương đốt, vận tâm dâng cúng y phục để cúng
thí. Sau đấy, trụ nơi tòa Du Già, dùng ngũ luân tự (A, Ra, Va, Ha, Kha) để hộ
trì thân, trên đầu đặt Bách Quang Biến Chiếu Vương (Đại Nhật Như Lai). Dùng mắt
vô cấu quán chữ “bất sanh” (chữ A) nơi hoa đài trong tự tâm
rồi mới thực hiện phổ môn trì tụng. Trước hết, nơi tâm nguyệt Tỳ Lô Giá Na,
hiện chân ngôn rạng ngời. Sau đó, tụng trì và kết mật ấn trọn khắp trong thai
tạng xong; kế đó, tới chư tôn thuộc viện thứ hai cho đến hết: Hoặc đối trước
từng vị mà quán tưởng, trì tụng, hoặc tưởng tự thân là vị Bổn Tôn ấy, trong tâm
nguyệt hiện chữ chân ngôn để tụng trì, cho tới nhanh chóng hiện thân Mạn-đồ-la
để tụng trì, tùy thuộc thế lực quán tâm của hành giả. Nếu chẳng thể làm như
vậy, hãy nên nhất tâm tụng chân ngôn của Bộ Chủ một trăm lần. Đối với các vị
thượng thủ khác, đều tụng chân ngôn [của mỗi vị] bảy lượt, cũng kết ấn của các
Ngài. Chi tiết thì như được nói trong phần Thứ Tự Cúng Dường.
A-xà-lê
tác pháp như thế xong xuôi, lại dùng tâm chí thành đảnh lễ chư tôn. Sau đấy mới
triệu tập các đệ tử, sao cho mỗi người đều vào đàn tràng. Trước đó, dùng nước
thơm để sái tịnh, trao cho họ hương bôi để xoa lên tay. Kế đó, trao cho tịnh
hoa, vì họ tuyên nói đại lược thật nghĩa của Bồ Đề tâm trong phẩm Trụ Tâm,
khiến cho họ biết chỗ tự quy y, chân chánh phát tâm, chí thành, trân trọng nghĩ
nhớ hết thảy chư Phật. Vì sao vậy? Do hành giả có thể phát khởi Phật tâm tức là
Phật tử, sẽ nhận lấy địa vị pháp vương tử quán đảnh, sanh trong chủng tánh của
Như Lai. Trong hành động, cư xử, đều chẳng quên chư Phật. Nay trong kinh này,
mỗi khi sắp nói hết thảy các chân ngôn, liền nói “quy mạng trọn khắp
hết thảy chư Phật” chính là do ý nghĩa này[7]. Nói “tịnh Phật” thì
trong pháp Thanh Văn, A La Hán cũng được gọi là Phật. Trong các kinh Đại Thừa
chưa liễu nghĩa cũng có ý nghĩa “thành Phật”, nhưng chẳng được
gọi là “giá tịnh”. Nay nói thẳng vào vị Phật thường hằng trong
bổn tâm, cho nên dùng chữ Tịnh để phân định. Dịch sát nghĩa theo bản tiếng
Phạn, hãy nên nói “Phật gia” là Phật Bộ, tức là hàm
nghĩa “chủng tộc, bộ loại”.
Khi
đó, A-xà-lê quán ngũ luân[8] nơi thân đệ tử, dùng năm chữ để
gia trì, kiêm đặt chữ A nơi hoa đài trong tâm, khiến cho họ có cùng cái Thể với
đức Đại Nhật. Dùng Nhập Phật Tam-muội-da ấn để ấn lên đỉnh đầu họ. Kế đó dùng
Pháp Giới Sanh Ấn để ấn tâm. Lại kết Chuyển Pháp Luân ấn để ấn phía trên rốn,
mỗi nơi đều tụng chân ngôn ba lượt. Kế đó, chuyển chữ A trong tâm thành chữ
Phạ, kết Kim Cang Tát Đỏa ấn để ấn các chi phần. Đó gọi là “ngũ xứ”. Sở
dĩ làm như vậy là vì muốn thành tựu sự nghiệp kim cang cho họ vậy. Khi đó,
A-xà-lê cũng nên dùng các ấn chú như Tam-muội-da v.v… để tự hộ trì.
Sau
đó, dùng vải mới trắng sạch, hoặc các thứ lụa là khác; trước hết, dùng chân
ngôn Bất Động để đúng như pháp tịnh hóa [vải hay lụa ấy]. Lại dùng chân ngôn
vương của bổn bộ để ba lượt gia trì. Như làm Đại Nhật Mạn-đồ-la, liền dùng chân
ngôn Tỳ Lô Giá Na; đối với Liên Hoa Thủ và Kim Cang Thủ, cũng nên chuẩn theo
đó. Dùng lụa màu thanh tịnh ấy để phủ kín mặt đệ tử. Hãy nên khởi tâm từ bi hộ
niệm sâu xa, kề tai nói với họ về tam-muội-da giới, đừng để cho kẻ khác chưa
nhập đàn nghe tiếng. Bài kệ ấy sẽ được nói trong phẩm Chuyển Tự Luân Mạn-đồ-la
Hạnh. Lại quán trên đỉnh đầu người ấy có một chữ Ra (र), tưởng trên chữ ấy có
chấm. Vì thế nói “nghiêm dĩ Đại Không điểm” (trang nghiêm
bằng cái chấm Đại Không), đó chính là chữ Lãm (Ram, रं). Bốn phía chữ ấy có
vầng sáng như ngọn lửa, giống như tràng hoa liên hoàn chẳng dứt. Từ trong chữ
ấy, lại lưu xuất quang minh màu trắng, giống như ánh sáng của vầng trăng tròn
thanh tịnh. Do được tâm tịnh pháp giới ấy gia trì, có thể trừ các chướng trong và
ngoài.
Kế
đó, thầy dẫn [các đệ tử] tới tầng cửa thứ nhất là chỗ hai long vương Tốn Na và
Ưu Ba Tốn Na thủ vệ, khiến cho họ dừng ở ngay nách cửa, chẳng được tiến lên.
Thầy sẽ vì họ kết tam-muội-da ấn, tụng chân ngôn ấy ba lượt, kết ấn trên hoa, bảo
đệ tử dùng tâm chí thành, hướng về đạo tràng mà rải. Tùy thuộc hoa rơi vào chỗ
nào, sẽ biết hành nhân đã có nhân duyên xưa kia với pháp môn và thiện tri thức
ấy, liền nương theo phương tiện môn ấy để tiến nhập, tu hành.
Kinh
Cù Hê dạy: “Tương nhập đàn thời, A-xà-lê ưng tác thị ngôn: ‘Ngã mỗ giáp
như pháp tác thử Mạn-đồ-la, tương đệ tử nhập, tùy kỳ phước đức, chủng tánh, cập
dữ thành tựu sở kham pháp khí, duy nguyện ư thử Mạn-đồ-la trung, thị hiện kỳ
tướng’. Ký tán hoa dĩ, thứ ưng khai diện, linh chiêm đổ đạo tràng, dĩ hoan hỷ
tâm, nhi cáo chi viết: ‘Nhữ kim quán thử diệu Mạn-đồ-la, thâm sanh kính tín.
Nhữ dĩ sanh chư Phật gia, chư minh tôn đẳng đồng cộng gia hộ. Nhất thiết cát
tường, cập dữ Tất Địa giai hiện tiền. Thị cố, kiên trì tam-muội-da giới, ư chân
ngôn pháp giáo, ưng cần tu tập’. Thứ lệnh đệ tử dĩ hương, hoa đẳng phổ
cúng dường Mạn-đồ-la thánh chúng. Tức ư đạo tràng, thọ dữ bổn chân ngôn ấn,
linh tọa nhất xứ tụng chi. Thứ dẫn dư nhân nhập. Phàm A-xà-lê đương quán hoa sở
chí xứ, biện kỳ tánh loại. Nhược đọa Phật thủ thượng, Thế Tôn Phật Đảnh cập hào
tướng đẳng. Đọa diện thượng, ưng thành tựu Phật Nhãn. Tại thân trung phần,
đương tri thành tựu chư tâm. Nhược đọa hạ phần, thành tựu chư sứ giả đẳng. Hựu
tùy Phật thân thượng, trung, hạ phần, tri thượng, trung, hạ thành tựu. Liên
Hoa, Kim Cang diệc nhiên. Tự dư chư tôn, đản tri thượng, trung, hạ chi tướng.
Nhược hoa đọa khứ bỉ tôn viễn giả, cửu viễn phương nãi thành tựu. Nhược đọa
Cúng Dường Viện, tùy sở thuộc chi tôn, thọ bỉ chân ngôn. Nhược đọa lưỡng tôn
chi gian, đương quán kỳ viễn cận. Nhược tiên đọa nội viện tức di xuất ngoại
viện giả, bỉ nhân tín tâm bất cụ. Nhược cưỡng trì tụng, đắc hạ thành tựu. Đọa
chư giới đạo cập hành đạo viện giả, bỉ nhân vô quyết định tâm, bất hoạch thành
tựu. Nhược bỉ dục cánh trịch giả, ưng vị tác hộ-ma, nhiên hậu trịch chi” (khi
sắp vào đàn, vị A-xà-lê hãy nên nói như thế này: “Con tên là… đúng pháp tạo
Mạn-đồ-la này, dẫn đệ tử vào, tùy theo phước đức, chủng tánh, và pháp khí đáng
thành tựu, kính xin thị hiện tướng ấy trong Mạn-đồ-la này”. Đã rải hoa xong; kế
đó, nên bỏ khăn bịt mặt, dạy đệ tử chiêm ngưỡng đạo tràng, dùng tâm hoan hỷ bảo
rằng: “Nay ngươi quán Mạn-đồ-la mầu nhiệm này, hãy sanh lòng kính tín sâu xa.
Ngươi đã sanh trong nhà chư Phật, các vị minh tôn cùng gia hộ, hết thảy cát
tường cùng với Tất Địa đều hiện tiền. Do vậy, hãy giữ vững tam-muội-da giới,
hãy nên siêng năng tu tập pháp giáo chân ngôn”. Tiếp đó, bảo đệ tử dùng các thứ
như hương, hoa v.v… để cúng dường trọn khắp thánh chúng trong Mạn-đồ-la. Liền ở
ngay trong đạo tràng ấy, trao truyền chân ngôn và ấn của pháp ấy, bảo đệ tử
ngồi một chỗ mà tụng. Kế đó, dẫn người khác vào đàn. A-xà-lê nên quán chỗ hoa
rơi xuống để biện định tánh loại. Nếu rơi vào đầu Phật, sẽ thành tựu Phật Đảnh,
hào tướng v.v… Rơi trên mặt, sẽ thành tựu Phật Nhãn. Ở phần giữa thân, sẽ biết
là thành tựu các tâm. Rơi vào phần dưới, thành tựu các sứ giả v.v… Lại nữa, rơi
vào các phần thượng, trung, hạ nơi thân Phật, sẽ biết là thành tựu thượng,
trung, hạ. Đối với Liên Hoa và Kim Cang cũng thế. Đối với chư tôn khác, chỉ
biết tướng thượng, trung, hạ. Nếu hoa rơi cách xa vị tôn thánh ấy, sẽ lâu xa
mới thành tựu. Nếu rơi vào Cúng Dường Viện, sẽ tiếp nhận chân ngôn của vị tôn
thánh thuộc viện ấy. Nếu rơi vào giữa hai vị tôn thánh, hãy xem gần vị nào hơn.
Nếu trước là rơi vào nội viện rồi lăn ra ngoại viện, tức là người tín tâm không
trọn đủ, nếu cưỡng trì tụng, sẽ đắc hạ thành tựu. Hoa rơi vào phần đường ranh
và chỗ để đi lại, người đó chẳng có tâm quyết định, chẳng đạt được thành tựu.
Nếu người ấy muốn ném lại, hãy nên làm hộ-ma rồi mới ném). Các điều khác như
kinh ấy đã nói.
Kế
đó, hãy vì các đệ tử làm Tịch Nhiên Hộ-ma, tức là pháp Phiến Để Ca (Śāntika, pháp Tức Tai), cũng có thể dịch là Tức
Tai. Đó là một chi phần kế tiếp phần này. Nay trong lời đáp của Như Lai, do xét
theo thứ tự thực hiện, nói chi phần Gia Trì Răn Dạy chưa xong, liền ở đây nói
xen vào pháp hộ-ma, hoặc có thể kết hợp với các pháp như Quán Đảnh v.v… để gộp
thành một loại chi phần vậy.
Kinh
nói “tác tịch nhiên hộ-ma, hộ-ma y pháp trụ”: Hộ-ma (homa) được nói
trong câu đầu, ý nói “hãy nên thực hiện pháp hộ-ma này”. Câu kế là nói về người
hộ-ma, tức là răn truyền người tác pháp: Nếu lúc làm hộ-ma, hãy nên vâng theo
pháp mà trụ. Do vậy, lặp lại [chữ hộ-ma]! Trong đó, dùng pháp Du Già để gia trì
tự thân, cho đến phụng thỉnh, kết giới v.v… đều phải vâng theo phương tiện niệm
tụng. Do đó nói “đương y pháp trụ” (hãy nên nương theo pháp mà
trụ).
(Kinh)
Sơ tự trung thai tạng, chí đệ nhị chi ngoại, ư Mạn-đồ-la trung, tác vô nghi lự
tâm. Như kỳ tự trửu lượng, hãm tác quang minh đàn, tứ tiết vi châu giới, trung
biểu Kim Cang ấn. Sư vị chi hữu phương, hộ-ma cụ chi phần.
(經)初自中胎藏,至第二之外,於漫荼羅中,作無疑慮心。如其自肘量,陷作光明壇,四節為周界,中表金剛印,師位之右方, 護摩具支分。
(Kinh:
Trước từ Trung Thai Tạng, ra ngoài tầng thứ hai, ở trong Mạn-đồ-la, khởi tâm
chẳng ngờ lo. Như lượng khủy tay mình, đào rãnh lập đàn sáng, ranh giới rộng
bốn lóng, giữa đặt ấn Kim Cang. Ở bên phải của thầy, đủ chi phần hộ-ma).
Phần
kinh văn trên đây là mật ngữ, do Thích Ca Quyến Thuộc Viện là tầng thứ hai [của
Thai Tạng Mạn-đồ-la, nên nói là “từ trung Thai Tạng ra đến ngoài tầng
thứ hai”]. Ở phía ngoài đại đàn, [xếp đặt sao cho chỗ hộ-ma sẽ] tương ứng
với Trung Thai Tạng [của Thai Tạng Mạn-đồ-la]. A-xà-lê lại ở bên ngoài, mặt
hướng về [Thai Tạng] Mạn-đồ-la. Ở giữa hai vị trí ấy, hãy nên đặt hỏa đàn. Bản
tiếng Phạn cố ý nói bí mật rằng: “A-xà-lê Mạn-đồ-la trung tác hộ-ma
đàn” (A-xà-lê lập đàn hộ-ma trong Mạn-đồ-la). Nếu không được thầy
truyền dạy, phần nhiều sẽ hiểu sai ý chỉ, có thể sẽ tạo [đàn hộ-ma] ngay trong
Mạn-đồ-la. Nay đàn để quán đảnh lại phải đối diện trực tiếp với Trung Thai, có
thể dời đàn [hộ-ma] này khá gần với phía Nam [của Thai Tạng Mạn-đồ-la] cho đến
góc Tây Nam, đều là ba vị trí đối ứng với nhau, xét theo lý chẳng sai lẽ! “Vô
nghi lự tâm” có nghĩa là Tức Tai, hãy nên nhất duyên bất loạn mà làm.
Nếu hành giả trụ trong môn chữ Xa (श, śa) quán
các pháp thường vắng lặng, các tâm “ngờ vực, hối hận, mong mỏi” đều hết, cái
chướng trừ sạch; đó chính là bổn ý của Tịch Nhiên hộ-ma. Trong cách làm
Mạn-đồ-la, [phân lượng] dựa theo chiều dài một khủy tay của chính mình. Kích
thước mỗi bề [của hỏa đàn] là một khủy tay, có chiều sâu bằng một nửa. [Quanh
đàn] vẽ đường ranh giáp vòng, rộng bốn lóng tay, chiều cao cũng như thế. Đàn
hộ-ma thì vuông, tròn, tam giác, tùy theo sự nghiệp mà hoạch định, nhưng trong
sự tác pháp ở đây [do là truyền pháp quán đảnh], hãy nên dùng đàn vuông. Dùng
Cù-ma-di (gomatī, phân bò),
Cù-mô-đát-ra (gomūtra, nước tiểu bò)
để tô trát, rảy nước thơm.
“Trung
biểu Kim Cang ấn” tức là trong lò nên vẽ hình bạt-chiết-la (vajra,
chày kim cang). Vì sao vậy? Hộ-ma là lửa trí huệ của Như Lai, có thể thiêu rụi
hết thảy tai ương bất ngờ sanh bởi nghiệp nhân duyên [khiến cho] hết sạch,
chẳng còn thừa sót! Đàn vuông gọi là Đại Nhân Đà La, có nghĩa là “tâm
vương”, ý nói: Cái ấn lửa trí huệ ấy tột cùng nguồn đáy, sanh từ Kim
Cang tánh. Do vậy, giống như kim cang chẳng thể phá hoại! Tới phẩm Thế Xuất Thế
Hộ Ma trong phần sau, đức Thế Tôn sẽ tự nói rộng nhân duyên. Nếu hành giả Chân
Ngôn chỉ làm Thế Đế hộ-ma, chẳng hiểu mật ý trong ấy, há chẳng phải là xen lạm
cách cúng tế lửa của Vi Đà ư? Vì thế, người dịch nói kèm thêm cái tên trí huệ,
ngõ hầu cả hai cách giải thích theo ý nghĩa cạn và sâu đều được cùng nêu ra!
Kinh
nói: “Sư vị chi hữu phương, hộ-ma cụ chi phần”, tức là giả sử cửa
của đại Mạn-đồ-la mở về hướng Tây, hỏa đàn nên đặt ở phía Tây của đại đàn.
A-xà-lê lại ở phía Tây của hỏa đàn, mặt hướng về phía Đông mà ngồi. Các thứ vật
dụng cần dùng cho hộ-ma được xếp ở phía Nam của thầy. Củi để hộ-ma nên dùng nhũ
mộc (cây có nhựa thơm), như gỗ dâu chẳng hạn. Hoặc dùng cành ngưu tất[9] cắt thành đoạn dài chừng mười
hai ngón tay. Cần phải chọn loại tươi nhuận, mới đẵn. Chọn loại gỗ ngay ngắn,
thẳng thớm, hãy nên xem xét trên dưới để xếp cùng hướng với nhau. Dùng nước
thơm sái tịnh, [xếp] sao cho phần gốc hướng về thân mình. Nếu lúc sắp đốt, hãy
nên dùng sữa, lạc, tô và mật bôi lên hai đầu [mỗi khúc củi] rồi ném vào lò.
Hoặc dùng trầm thủy hương, có kích thước dài chừng bốn lóng tay, to bằng ngón
cái, bôi hương tô hợp, thiêu một trăm lẻ tám lượt thì càng hay hơn. Các thức ăn
và hoa, hương v.v… đáng nên dùng để hiến cúng trong Mạn-đồ-la đều nên sắp đặt,
dùng Biện Sự chân ngôn để đúng pháp sái tịnh, đặt bên phải chỗ ngồi. Bình đựng
Át-già nên đặt bên trái. Các thứ thức ăn để hiến cúng đều nên dùng tô, lạc v.v…
để hòa trộn, cùng đặt trong cùng một đồ đựng. Cũng dùng tô, dầu v.v… hòa trộn,
cùng chứa trong một đồ đựng khác, thảy đều chuẩn bị đầy đủ.
Nếu
giải thích theo cách sâu xa, bí mật, thì chi phần Hộ-ma có nghĩa là các nhân
duyên. Do các nhân duyên ấy mà có thể sanh ra tai ương, hoạn nạn trong ba cõi.
Nay lại dùng đó làm nguồn đốt cho lửa trí huệ, hòng cúng dường hết thảy các
thân Phổ Môn, tăng ích thế lực chẳng thể nghĩ bàn. Kinh dạy: “Phiền não
vi tân, trí huệ vi hỏa, dĩ thị nhân duyên thành Niết Bàn phạn, linh chư đệ tử
tất giai cam thị” (Phiền não làm củi, trí huệ làm lửa. Do nhân duyên
ấy, nấu thành cơm Niết Bàn, khiến cho các đệ tử thảy đều nếm vị ngon ngọt)
chính là ý nghĩa này.
(Kinh)
Học nhân trụ kỳ tả, tôn cứ, tăng kính tâm, tự phu Cát Tường thảo, tạ địa dĩ an
tọa. Hoặc bố chúng thái sắc, đồng huy cực nghiêm lệ, nhất thiết hội sự thành,
thị lược hộ-ma xứ. Châu táp bố tường mao, đoan tọa hỗ tương gia, hữu toàn giai
quảng hậu, biến sái dĩ hương thủy, tư duy Hỏa Quang Tôn, ai mẫn nhất thiết cố.
Ưng đương trì mãn khí, nhi dĩ cúng dường chi.
(經)學人住其左,蹲踞增敬心。自敷吉祥草,藉地以安坐,或布眾綵色,彤輝極嚴麗,一切繢事成,是略護摩處,周匝布祥茅,端坐互相加,右旋皆廣厚,遍灑以香水,思惟火光尊,哀愍一切故,應當持滿器, 而以供養之。
(Kinh:
Người học trụ bên trái, ngồi xổm, tâm thêm kính. Tự trải cỏ Cát Tường, để an
tọa trên đất. Hoặc sử dụng nhiều màu, rực rỡ cực đẹp đẽ. Vẽ vời hết thảy xong.
Lược làm chỗ hộ-ma, trải khắp cỏ Cát Tường, ngay ngắn gác lên nhau, theo chiều
phải rộng dày. Dùng nước thơm rưới khắp, tư duy Hỏa Quang Tôn, do xót thương
hết thảy. Nên cầm đồ đựng đầy, để thực hiện cúng dường).
Lại
nữa, khi vì đệ tử tác pháp, ở phía Bắc của A-xà-lê, lót bằng cỏ tranh tươi, bảo
họ ngồi xổm [trên đó]. A-xà-lê cũng nên ngồi trên đệm cỏ tranh, đừng lót thêm
các loại nệm. Nhưng thọ dụng cỏ tranh tươi thì đại lược có ba nghĩa:
-
Một, cỏ có tánh chất khiết tịnh, lìa cảm xúc vui sướng, có thể trừ khử cái tâm
hôn trầm, giải đãi, buông lung, kiêu mạn của hành giả.
-
Hai, đấy là loại cỏ cát tường, đức Thế Tôn dùng nó để trải ngồi mà chứng Bồ Đề.
Do vậy, có thể trừ hết thảy các chướng.
-
Ba, dùng cỏ cát tường để biểu thị huệ tánh. Loại cỏ này hai bên rìa lá đều có
gai nhọn. Nếu ngồi, nằm hoặc cầm, nắm mà chẳng có phương tiện, đâm ra sẽ bị
thương. Nếu thuận tay khéo giữ gìn, sẽ chẳng bị hại. Hết thảy các pháp cũng
giống như thế, nếu thuận theo đế lý để quán hết thảy trần lao, sẽ đều có tác
dụng bổn tánh thanh tịnh. Nếu đánh mất phương tiện, sẽ có thể làm hại trí thân.
Do vậy, dùng nó làm biểu tượng cho pháp môn.
Nếu
tạo Mạn-đồ-la trên tảng đá lớn, hoặc trên gác nhiều tầng, chẳng thể đào bới để
làm lò, hãy nên dùng các màu sắc để vẽ [lò hộ-ma], sao cho tột bậc trang nghiêm
rực rỡ, liền có thể sử dụng. Đó là “lược tác hộ-ma xứ” (đại
lược làm chỗ hộ-ma). Nếu Mạn-đồ-la được tạo trong phòng chật hẹp, hãy nên ra
ngoài, hướng vọng chỗ đạo tràng, đúng pháp làm lò. Bốn phía chung quanh lò, đều
dùng cỏ tranh tươi trải, xoay theo chiều phải, theo thứ tự đều xếp đè cỏ lên
nhau cho ló đầu ra. Các điều khác như trong phẩm Hộ Ma sẽ nói. Lại nên xếp
cỏ dày đặc quanh lò, đừng để lộ đất ra, dùng nước thơm rải khắp. Hãy nên dùng
[chân ngôn] Thành Biện Chư Sự để gia trì, và dùng chân ngôn rảy tưới đất như đã
nói trong phần trước. Trong hành pháp hộ-ma này, trước hết là A-xà-lê cúng
dường, trì tụng trong Mạn-đồ-la xong; kế đó, hãy nên ra ngoài để thực hiện hỏa
pháp:
[A-xà-lê]
hướng về phía Đông, ngồi trên cỏ Cát Tường. Trước hết, lấy củi nhũ mộc khô, đặt
ở trong lò, dùng chất tô rưới lên để đốt. Sau đó, đặt củi ướt (củi còn tươi).
Dùng chân ngôn Biện Sự để trừ khử cấu uế và sái tịnh xong, hãy nên trụ trong Du
Già, dùng chủng tử của Hỏa Thiên để chuyển [tự thân] thành vị tôn thánh ấy. Ở
trong Mạn-đồ-la hình tam giác, đối với mười hai vị hỏa tôn được chỉ bày trong
phẩm sau, hãy chọn lấy một vị tương ứng với sự nghiệp (tức là ương ứng với pháp
sự mà A-xà-lê muốn thực hiện). Đã tương ứng rồi, hãy nên quán thân Hỏa Tôn và
thân chính mình chẳng hai, chẳng khác. Như Hỏa Tôn, hãy nên biết Hỏa Mạn-đồ-la
cũng thế. Hãy nên quán ba chỗ đều cùng một tướng; sau đấy, dùng chân ngôn của Hỏa
Thiên để phụng thỉnh. Kinh Tô Tất Địa dạy: “Dục phụng thỉnh thời, tiên
tác thị ngôn: - Ngã kim phụng thỉnh Hỏa Thiên chi thủ, thiên trung chi tiên,
phạm hạnh sở tông kính giả, duy nguyện giáng lâm thử xứ, thọ nạp hộ-ma” (Khi
muốn phụng thỉnh, trước hết, hãy nói như thế này: Con nay phụng thỉnh vị đứng
đầu Hỏa Thiên, là bậc tiên trong các trời, được bậc phạm hạnh tôn kính, kính
mong giáng lâm chốn này, nhận lãnh hộ-ma).
(Kinh)
Nhĩ thời, thiện trụ giả, đương thuyết thị chân ngữ: - Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm, a yết na duệ, sa ha.
(經)爾時善住者,當說是真語:南摩三曼多勃陀喃阿揭娜曳莎訶(नमः समत बुद्धानां अखये स्वाहा, Namaḥ
samata buddhānāṃ akhaye, svāhā).
(Kinh:
Lúc ấy, bậc khéo trụ, sẽ nói chân ngôn này: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a
yết na duệ, sa ha).
Câu
đầu tiên là quy mạng chư Phật, ý nghĩa như đã nói trong phần trước. Câu thứ
hai, tức “a yết na duệ” (akhaye) có nghĩa là Lửa. Ở đây, dùng
chữ A tối sơ làm chủng tử, do hết thảy các pháp vốn chẳng sanh, tức là giống
như kim cang trí thể. “Nga” có nghĩa là hành, do các pháp vốn
bất sanh, tuy trọn đủ vạn hạnh mà vô sở hành. Do vậy gọi là “vô sư tự
giác” (không có thầy mà tự giác). Nếu là vô sư tự giác, tức là giống
như Đại Không trọn khắp hết thảy mọi nơi. Vì thế, có cùng Thể với chữ Na. Do
các pháp không thầy, vô hành, tự trọn khắp hết thảy mọi nơi; vì vậy, ở trong
tam giới bất động mà đạt tới Tát Bà Nhã (Sarvajña). Vì thế, không có thừa và người nương vào
cái thừa ấy, bèn là Đại Thừa. Do vậy, cũng thêm âm thanh tam-muội, ngụ ý: Thừa
ấy Định và Huệ cân bằng. Khi chư Phật hành Bồ Tát đạo, đều dùng lửa trí huệ như
thế để thiêu đốt hết thảy tâm cấu, quang minh chánh pháp hừng hực. Do vậy, nói
như thật bèn thành chân ngôn. Nếu lúc thỉnh triệu (thỉnh vời), hãy thêm chữ Y
Hệ Y Hệ. Tới lúc tống tiễn, thì thêm chữ Yết Xa Yết Xa. Ấn tướng [của chân ngôn
ấy] như trong phẩm sau sẽ nói.
Đã
thỉnh triệu rồi, trước hết, dùng nước thơm Át-già để sái tịnh ba lượt, ba lần
dâng nước súc miệng, liền lấy các vật như ngũ cốc, tô, lạc v.v…, dùng chân ngôn
đã nói trên đây để ba lượt hộ-ma cúng dường Hỏa Thiên. Phàm khi hộ-ma, đều là
trước hết dùng thìa to đựng đầy chất tô sạch để đốt. Kế đó, đốt củi. Kế đó là
hộ-ma cơm. Kế đến là các loại hạt lương thực, hoặc dùng cháo sữa. Kế đó, lại
dùng hoa sen v.v… để tùy ý đốt. Trong khoảng giữa, các vật thí đều dùng muỗng
nhỏ. Vì thế, kinh nói: “Ưng đương trì mãn khí, nhi dĩ cúng dường chi” (hãy
nên dùng đồ đựng chứa đầy [vật cúng] để cúng dường). Cúng dường xong, lại rảy
nước thơm và rót Át-già ra, như người ăn xong dùng nước súc miệng, lại dùng
hương, hoa v.v… để cúng dường. Hãy nên vận tâm tiễn Hỏa Thiên đến tòa của vị
ấy.
Kế
đó, hãy nên phụng thỉnh chư tôn. Trước là lấy một bông hoa, dùng Thành Biện
Chân Ngôn để trừ khử nhơ uế, tạo thanh tịnh, và dùng chân ngôn của Bộ Chủ để
gia trì. Hai tay chắp lại ngang ngực, tâm nghĩ, miệng nói: “Kính mong
chư tôn gia trì chỗ này, nhận sự cúng dường nhỏ bé của con”. Liền cách lò,
ném [bông hoa] ấy hướng về Mạn-đồ-la. Tùy thuộc xa hay gần, khi sắp ném, trước đó,
hãy quán hoa tới trọn khắp tọa vị của hết thảy chư tôn, tạo thành tòa ngồi
tương ứng với từng loại. Lại dùng Thành Biện Chư Sự để khử cấu, tác tịnh trong
lò, rồi mới thỉnh chư tôn. Hoặc dùng chân ngôn của mỗi vị chư tôn để thỉnh
riêng từng vị, hoặc tùy theo quyến thuộc của một bộ [mà thỉnh]. Cho đến dùng
chân ngôn vương để thỉnh cùng lúc.
Hơn
nữa, lò lửa ấy đã đồng hỏa giới, khi thỉnh, chỉ quán chư tôn chẳng rời bổn tọa
mà đều giáng lâm. Lúc xong việc, cũng vô tướng trở về chỗ của các Ngài. Mỗi khi
hộ-ma cho một vị, liền dùng nước thơm rảy vào lò, và dâng nước súc miệng, dùng
chân ngôn Tịch Tai sẽ được nói trong phần sau tụng bảy lượt để cúng dường. Nhất
nhất làm như thế xong, lại hộ-ma một trăm lẻ tám lần, lại dùng đồ đựng chứa đầy
chất tô đốt một lần nữa. Còn như chẳng thể làm như thế, hãy nên cúng dường
chung một trăm lẻ tám lần, hoặc một ngàn tám mươi lần, niệm rằng: “Kính
mong chư tôn cùng nhận tất cả những thứ cúng dường này”. Kế đó, nên
xin trọn khắp [chư tôn] hoan hỷ.
(Kinh)
Phục dĩ tam-muội thủ, thứ trì chư đệ tử, huệ thủ Đại Không chỉ, lược phụng trì
hộ-ma. Mỗi hiến, triếp thành tụng, các biệt chí tam thất, đương trụ từ mẫn tâm,
y pháp chân thật ngôn: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ma ha phiến để nghiệt
đa, phiến để yết ra, bát ra thiểm ma đạt ma niết nhã đa, a bà phạ, tát phạ bà
phạ, đạt ma tam mạn đa, bát ra bát đa, sa ha.
(經)復以三昧手,次持諸弟子,慧手大空指,略奉持護摩。每獻輒誠誦,各別至三七,當住慈愍心,依法真實言:南麼三曼多勃陀喃。阿摩訶扇底蘗多。扇底羯囉。鉢囉睒摩達磨涅若多。阿婆嚩。薩嚩婆嚩。達摩三曼多。鉢囉鉢多。莎訶。
(Kinh:
Lại dùng tay tam-muội (tay trái), rồi cầm ngón Đại Không (ngón cái) nơi tay huệ
(tay phải) đệ tử, sơ lược trì hộ-ma, mỗi dâng, chí thành tụng. Mỗi trò: Hăm mốt
lần. Nên trụ tâm từ mẫn, nương pháp chân thật nói: - Nam ma tam mạn đa bộ đà
nẫm, a ma ha phiến để nghiệt đa, phiến để yết ra, bát ra thiêm ma, đạt ma niết
nhã đa, a bà phạ, tát phạ bà phạ, đạt ma tam mạn đa, bát ra bát đa, sa ha).
Đúng
như pháp cúng dường xong, sau đấy mới sám hối, hồi hướng, và ngâm kim cang
phúng vịnh, đốt hương chẳng dứt. Lại dâng Át-già; sau đó, đảnh lễ chư tôn,
triệu tập các đệ tử, đúng như kinh văn trong phần trên đã nói để thực hiện các
pháp như rải hoa v.v… cho đến kề tai bảo ban đều xong, mới dẫn từng đệ tử tới
chỗ hộ ma. Để họ ở bên trái của A-xà-lê, dùng tâm cung kính ngồi chồm hổm. Sư
dùng tay trái nắm lấy ngón cái của đệ tử mà tụng chân ngôn Tịch Tai, cứ mỗi lần
tụng là một lần thí hỏa thực (hộ-ma). Như thế cho đến hai mươi mốt lượt, đối
với các đệ tử đều làm như thế. Kinh Cù Hê nói: “Phục dĩ hương đồ thủ,
án kỳ hung thượng, tùy ý trì tụng nhi phát khiển khứ dã” (Lại dùng
hương bôi tay, đè lên ngực người ấy, tùy ý trì tụng để tiễn đi). Dưới đây, giải
thích Tịch Tai chân ngôn:
Chân
ngôn này dùng chữ A (अ) tối sơ làm Thể. A có nghĩa là “các
pháp vốn bất sanh”, tức là cái Thể của kim cang trí hỏa, thêm một chấm
tam-muội thành bổn sanh hạnh kim cang huệ hỏa. Bên cạnh vạch tam muội có hai
chấm (आः),
tức là nghĩa Niết Bàn. Ý nói: Nhập môn chữ A này, do huệ hạnh trọn đủ, có thể
thiêu sạch hết thảy các chướng cái, đạt được đại tịch Niết Bàn. Sở dĩ gọi là
Tịch Tai chân ngôn chính là do nghĩa này.
Lại
nữa, khi tác pháp, hãy nên quán tràng quang minh bao quanh chữ này. Từ lửa,
xuất hiện đủ ba màu: Bản thể là sắc trắng pha vàng, vạch tam-muội màu đỏ như
vàng Diêm Phù, hai điểm bên cạnh màu đen như lửa kiếp tai. Do bản tánh trắng
sạch, nên có tác dụng Tức Tai. Kèm thêm màu vàng là tác dụng Tăng Ích. Màu đỏ
là tác dụng thiêu đốt. Màu đen là tác dụng dẹp tan, khuất phục đại chướng và
nhiếp triệu. Hơn nữa, cái Thể của chữ này là phương tiện môn, hãy nên biết là
nó có cùng màu với Đại Không, bao gồm đủ loại sự nghiệp.
Lại
nữa, trong phần nói về mười hai vị Hỏa Thiên thuộc phần sau, chữ A là lửa trí
huệ, cái vạch tam-muội là lửa hạnh viên mãn. Có ý nghĩa nhiếp triệu là gió thổi
bùng lửa. Có ý nghĩa hàng phục là lửa Lô Hê Đa (Rohitaka, sắc đỏ), vàng và đỏ
hòa hợp là lửa Một Lật Noa (Vrata), kèm thêm màu đỏ và đen là lửa Phẫn Nộ. Lại
kèm thêm các sắc là Xà Trá La hỏa. Nói tóm lại, đều trọn đủ mười hai loại tác
dụng[10], hãy nên rộng
diễn. Các câu kế đó đều nhằm lần lượt diễn giải. Câu đầu tiên “ma ha
phiến để” (Mahāśānti) có nghĩa là Đại Tịch, “nghiệt đa” (Gata)
có nghĩa là Thệ (逝, đi tới), ý nói: Như Lai do nghĩa của một
chữ này, đạt tới bổn tánh thường tịch Đại Niết Bàn. Thể của chữ A là “bổn
tịch” (vốn sẵn vắng lặng), do có nét vẽ tam-muội nên là Thiện Thệ
(khéo đi). Do có cái chấm tịnh trừ nên là Niết Bàn, chẳng động nơi đây mà liền
đi, liền tới, giống như Đại Không không gì chẳng trọn khắp. Vì thế nói là Đại
Tịch. Câu kế đó, tức “phiến để yết ra” (śāntikara) có nghĩa là
Tác Tịch, ý nói: Do tự môn này trọn đủ phương tiện, nên thường trọn khắp mười
phương ba đời, thực hiện trọn khắp sự nghiệp Phổ Môn thành tựu chúng sanh,
khiến họ đều đạt tới đại tịch. Vì thế, nói là Tác Tịch.
Kế
đó, nói “bát ra thiểm ma đạt ma niết nhã đa” (praśamadharma nirjāta), Bát Ra nghĩa
là “tối thắng”. Thiểm Ma là chứng cái Tịch ấy, giải thích lần
nữa câu trước đó: Do tác tịch, nên chính là Tịch nhất trong các Tịch. Vì lẽ nào
vậy? Do Tịch rốt ráo chẳng thể được, nên thường tác. Do Tác Tịch rốt ráo chẳng
thể được, nên thường tịch. Do hết thảy thế gian chẳng thể nghĩ bàn, nên nói là
Tối Thắng. Đạt Ma là pháp, Niết Nhã Đa là sanh. Từ gì mà sanh? Tức là từ tịch
nghiệp chẳng thể nghĩ bàn này mà sanh. Do động và tịch rốt ráo bình đẳng, trong
câu “vốn bất sanh” lại sanh đủ rễ, thân, cành, lá, hoa, quả,
thành Bồ Đề thụ vương. Giống như hỏa giới có thể thiêu, mà có thể dưỡng; lửa
kim cang trí cũng thế, dùng cái chấm tịnh trừ để thiêu, dùng cái chấm tam-muội
để dưỡng. Kế đó nói “bà phạ, tát phạ bà phạ” (abhāva
svabhāva), lại nhằm giải thích câu trước đó, nên nói là “vô tự
tánh”. Hết thảy tự tánh do bản tánh là tịch mà từ duyên dấy lên, cho
nên chẳng có tự tánh. Từ duyên dấy lên thì đều là bổn tánh tịch; do vậy là tự
tánh của hết thảy các pháp. Do bởi nghĩa này, vọng tưởng chẳng sanh, mà Đại
Không sanh. Kế đó nói “đạt ma tam mạn đa bát ra bát đa” (dharma samantaprāpta) chính là để giải thích
câu trước đó. Do bởi nghĩa này, Như Lai bình đẳng trong hết thảy các pháp, tức
là thành Vô Thượng Bồ Đề. “Bát ra bát đa” (prāpta) nghĩa là
“đạt được”. Do vô sở đắc nên đạt được câu bình đẳng này. Những điều khác như
trong phần trước đã giải thích.
Lúc
hộ-ma, sẽ có đủ loại tướng hiện, hoặc có lúc đốt lửa không cháy, hoặc cháy mà
nhanh chóng tắt mất, chẳng cháy rất mạnh, hoặc khói bốc lên nhưng không có ngọn
lửa, hoặc khói mù mịt, hoặc vang ra tiếng như lừa kêu v.v… Người ta chẳng thích
nghe, hoặc nói chẳng thành tựu v.v… Hãy nên biết đó là tướng chướng ngại chẳng
thành tựu. Hoặc trong khói lửa hình thành đủ loại hình tướng mầu nhiệm như bình
báu, lưới báu, sư tử, xe cộ v.v… Hoặc vẳng ra các tiếng âm nhạc như chuông, linh,
ốc (tù và) v.v… Hoặc phát ra tiếng cát tường thành tựu. Hãy nên biết đó là
tướng Vô Ngại Tất Địa.
Cho
tới người khéo hộ-ma, sẽ từ trong các thứ tướng đó mà ngầm được chỉ dạy, hiểu
rõ biết trọn tướng thông tắc. Phàm hộ-ma đều thuận theo các sự nghiệp đáng nên,
hoặc dùng tâm tịch tĩnh, hoặc dùng tâm hoan hỷ, hoặc tâm oai mãnh, mặc quần áo
có các màu trắng, vàng, đỏ, nên ngồi mặt hướng về phía Bắc, phía Đông, phía
Nam. Mạn-đồ-la ấy (Mạn-đồ-la để hộ-ma) cũng có tròn, vuông, tam giác khác biệt,
màu sắc [của đàn hộ-ma] cũng nên biết giống như thế. Củi để hộ-ma thì Tức Tai
bèn dùng cành cây cao nhất, Tăng Ích thì dùng cành cây bậc trung. Nếu là chuyện
chiết phục, nên dùng rễ cây. Nếu là chuyện Tức Tai, nên dùng tô, sữa, đại mạch
(barley), mật, và cháo sữa, mầm cỏ tranh, hoa Quân-na (Kunda), bạch đàn hương,
gỗ Vô Ưu. Nếu là chuyện Tăng Ích, đáng nên dùng cháo sữa, cơm bơ, mật, cháo sữa
và lạc, mè, thiên mộc, hồi hương (fennel), thiên môn đông (chinese asparagus),
long hoa, các loại hạt thực phẩm v.v… Nếu là chuyện Nhiếp Phục, nên dùng hạt
cải đỏ hay trắng, hoặc dầu hạt cải, thuốc độc, xương, tóc, các loại cây có gai
góc v.v… Tuy kinh chẳng nói trọn, hãy nên suy luận để biết.
Lại
tùy theo [từng sự nghiệp như Tức Tai, Tăng Ích, Hàng Phục v.v…] mà thiêu tô mấy
lượt. Đối với mè cũng thế, những vật khác thì tùy ý mà làm nhiều hay ít. Lần
đầu tiên và lần cuối cùng, đều nên bôi đẫm tô rồi mới hộ-ma, các pháp sự khác
cũng phỏng theo đó. Phàm là Tức Tai hộ-ma, trước hết cần phải thực hiện pháp
Hàng Phục. Nếu trong các chân ngôn sử dụng đã có ý nghĩa hàng phục thì cứ trực
tiếp nương theo kinh bổn mà tụng. Nếu không có ý nghĩa ấy, hãy vâng theo pháp
mà tăng thêm (tức là làm Hàng Phục hộ-ma trước khi Tức Tai hộ-ma). Dùng các thứ
như hạt cải v.v… để làm vật hàng phục tương ứng, thực hiện bảy lần hay mười bốn
lần hộ-ma. Kế đó, quán cú nghĩa và vật cúng tương ứng với pháp để làm hộ-ma bảy
hay mười bốn lần rồi mới thực hiện đầy đủ pháp Tịch Tai (Tức Tai). Nếu làm Tăng
Ích hộ-ma thì trước hết cần tu pháp Hàng Phục rồi mới thực hiện trọn đủ pháp
Tăng Ích. Pháp Hàng Phục hộ-ma thì thực hiện trực tiếp một pháp ấy, chẳng cần
lập tiền phương tiện. Hãy nên biết Mạn-đồ-la này có ba loại pháp sự.
Kinh
Cù Hê nói: “Quán đảnh liễu hậu, phục đương y pháp hộ-ma. Tiên dụng
Mạn-đồ-la chủ chân ngôn phần tô bách biến. Thứ đương dĩ Tịch Tĩnh chân ngôn,
dụng tô, mật, lạc hòa phạn bách biến. Thứ dụng hồ ma bách biến, phương nãi
quảng thị Mạn-đồ-la” (Sau khi quán đảnh xong, lại nên theo đúng pháp
hộ-ma. Trước hết, dùng chân ngôn của vị Mạn-đồ-la chủ để thiêu tô một trăm
lượt. Kế đó, hãy lấy Tịch Tĩnh chân ngôn, và dùng tô, mật, lạc trộn với cơm [để
hộ-ma] một trăm lượt. Kế đó, dùng mè [để hộ-ma] một trăm lượt rồi mới chỉ bày
rộng rãi Mạn-đồ-la). Tới khi xong việc, sắp giải tán, thầy hãy nên [dùng nước
thơm] tự rưới thân mình, lại dâng Át-già, theo thứ tự cúng dường mỗi vị tôn
thánh. Kế đó, dùng [chân ngôn của] vị chủ Mạn-đồ-la để hộ-ma tám trăm lượt. Kế
đó, dùng Tịch Tĩnh chân ngôn [để hộ-ma] một trăm lần. Kế đó, dùng Bộ Tâm để thực
hiện hai mươi mốt lần. Kế đó, đối với chân ngôn của mỗi vị tôn thánh, đều dùng
ngưu tô để hộ-ma mỗi vị bảy lần. Sau đấy mới dùng chân ngôn mình vốn trì tụng
để tùy ý hộ-ma, xong rồi mới làm các pháp giải giới, tống tiễn v.v… Hoặc là
nương theo phần trên để thực hiện Tổng Tướng phương tiện thì cũng được.
Nay
ba chữ A, Sa, Phạ trong kinh này, như phẩm Tự Luân đã nói, chính là tâm chân
ngôn của ba bộ[11]. Nếu là ba thứ pháp sự vào các lúc
khác, chỉ cần trì tụng trong đàn xong xuôi, liền ra ngoài để làm hộ-ma. Hoặc
nếu thực hiện thành tựu hộ-ma, năm chỗ cần phải thẳng hàng, tức thứ nhất là Bổn
Tôn, thứ hai lò lửa, thứ ba vật được thành tựu, thứ tư là đồ đựng chất tô, thứ
năm là chỗ ngồi của A-xà-lê. Các vật để thành tựu dùng lá sạch đậy lên, mỗi lần
lấy các thứ như tô v.v… đều dùng bôi thêm trên lá rồi mới đốt.
Nếu
thành tựu hữu tình, hãy nên đặt vật ấy ở chỗ tô vẽ hình tượng ấy, những điều
khác như trên đã nói. Nếu vì người khác hộ-ma, thì mỗi mỗi [lượt hộ-ma] đều
xưng danh [người ấy] rồi mới ném [vật hiến cúng] vào trong lửa. Nếu không có
Mạn-đồ-la, chỉ thực hiện pháp hộ-ma, hãy nên tạo quanh lò một tầng Mạn-đồ-la,
xếp đặt tọa vị của chư tôn, muốn thỉnh chư tôn để cúng dường, cặn kẽ hay đại
lược đều tùy ý. Kinh Tô Tất Địa nói: “Hộ-ma liễu dĩ, giai đương dụng
bổn trì chân ngôn gia trì tịnh thủy, dĩ thủ tuần nhiễu, tán sái lô trung tam
độ. Tu phục thỉnh Hỏa Thiên trùng thọ dư cúng, nãi chí tưởng hoàn
bổn tòa. Sở tàn cốc, tô, mật, lạc đẳng, tổng hòa nhất xứ, dụng Hỏa Thiên chân
ngôn tam chuyển trì chi, nhi tác hộ-ma, trùng tác hộ thân, hộ phương đẳng ấn,
nãi chí giải giới, phương khả phát khiển dã” (Hộ-ma xong, đều
nên dùng chân ngôn mình vốn trì tụng để gia trì nước sạch, đi vòng quanh lò,
dùng tay rảy rắc trong lò ba lượt. Lại cần phải thỉnh Hỏa Thiên lần nữa nhận
lấy các vật cúng còn dư, cho đến tưởng vị ấy trở về tòa của mình. Các thứ ngũ
cốc, tô, mật, lạc v.v… còn thừa lại, đều nên để chung một chỗ, dùng chân ngôn
của Hỏa Thiên để ba lượt trì tụng làm hộ-ma, lại kết các ấn hộ thân, thủ hộ
phương vị v.v… cho đến giải giới, thì mới có thể tống tiễn).
Kinh
Cù Hê nói: “Đệ lục dạ tác đệ tử pháp cánh, vị trừ chướng cố, tiên tác
Hàng Phục hộ-ma, thứ vị tự tăng ích cố, dĩ bộ tâm chân ngôn hộ-ma. Nhiên hậu,
dĩ Tịch Tĩnh chân ngôn tác Tức Tai hộ-ma. Chí lâm tác pháp sự thời, nhược sổ
hữu bất thiện tướng giả, đương dĩ Bộ Mẫu chân ngôn tác Tức Tai hộ-ma, phần tô
cập tân các bách biến. Ư tác pháp chi minh nhật, vị mãn sở khuyết phạp cố, cánh
tác Tức Tai hộ-ma bát bách biến” (Đêm thứ sáu, thực hiện pháp [quán
đảnh cho] đệ tử xong, vì để trừ chướng, trước hết làm Hàng Phục hộ-ma. Kế đó,
vì tăng ích cho chính mình, dùng bộ tâm chân ngôn để hộ-ma. Sau đó, dùng Tịch
Tĩnh chân ngôn để làm Tức Tai hộ-ma. Cho tới lúc đang làm pháp sự, nếu có mấy
lượt tướng bất thiện, hãy nên dùng Bộ Mẫu chân ngôn để làm Tức Tai hộ-ma, đốt
tô, củi, mỗi thứ đều tám, trăm lần. Trong lúc tác pháp thuộc ngày hôm sau, nhằm
khiến cho các điều thiếu khuyết được trọn đủ, lại thực hiện Tức Tai hộ-ma tám
trăm lần). Nhưng hỏa pháp này cũng là chuyện khó khăn trong chi phần, do nó sẽ
trừ tai chướng, tăng ích oai thế của chánh pháp. Vì thế, các kẻ gây chướng nạn
đều rình rập tìm cơ hội trong khi ấy. Nếu chẳng hiểu rõ từng điều, sẽ tự bị
thương tổn, chớ nên bộp chộp làm bừa!
(Kinh)
Hành giả hộ-ma cánh, ưng giáo linh sấn thí, kim, ngân chúng trân bảo, tượng,
mã, cập xa thặng, ngưu, dương, thượng y phục, hoặc phục dư tư tài. Đệ tử đương
chí thành, cung kính khởi ân trọng, thâm tâm tự hân khánh, nhi phụng ư sở tôn.
Dĩ tu hành tịnh xả, linh bỉ hoan hỷ cố.
(經)行者護摩竟,應教令儭施,金銀眾珍寶,象馬及車乘,牛羊上衣服,或復餘資財。弟子當至誠,恭敬起慇重,深心自忻慶,而奉於所尊。以修行淨捨,令彼歡喜故。
(Kinh:
Hành giả hộ-ma xong, nên dạy họ bố thí, vàng, bạc, các thứ báu, voi, ngựa, và
xe cộ, trâu, dê, y phục tốt, hoặc các tài vật khác. Đệ tử nên chí thành, cung
kính, tâm trân trọng, tự vui mừng sâu xa, dâng lên đấng tôn kính. Do tu hành
tịnh xả, khiến người ấy hoan hỷ).
Từ
đây là trả lời câu hỏi “cúng dường thầy như thế nào?” trong lời hỏi của ngài Bí
Mật Chủ, vẫn thuộc vào chi phần “dạy bảo gia trì”. Do vậy, thầy tự dạy đệ tử
hãy bố thí, đừng vì tham đắm các vật ấy mà tìm cầu, mà hãy vì phát sanh thiện
căn, thành tựu công đức quán đảnh. Nếu đệ tử có thể đối với tất cả các thứ tài
vật trong, ngoài, vì cầu đại sự nhân duyên mà chẳng hề keo tiếc, chí thành,
trân trọng dâng tặng, hòng báo đáp người truyền pháp, sẽ có thể phá tan vô
lượng túc chướng. Lại do tự thấy lợi ích của bố thí, sanh tâm mừng rỡ sâu xa:
“Ta nay xả tài vật thế gian yêu mến này, chúng là tài sản chung của năm nhà,
lắm điều lầm lỗi, ương hoạn, hòng đổi lấy của báu chánh pháp là pháp bảo vô
thượng, thí trọn khắp chúng sanh thường chẳng cùng tận”. Do tư duy như vậy, cái
tâm hoan hỷ; do hoan hỷ bèn được lìa nghi hối. Do lìa nghi hối, sẽ được trụ
trong sự an lạc tịch nhiên trong tâm. Sau đấy, dùng pháp thủy để rưới, sẽ có
thể vĩnh viễn lìa trần cấu. Nếu chẳng có vật, thậm chí xả thân để cúng dường
thầy, tức là dùng thân này để phụng sự, cung cấp A-xà-lê, chẳng ngại khổ nhọc,
thường chẳng lìa bỏ tìm cầu chánh pháp, cho đến chẳng tiếc thân mạng vì cầu đạo
vậy. Lúc bấy giờ, A-xà-lê cảm lòng trân trọng của trò, sanh tâm bi niệm, bèn dạy bảo phương tiện thẳm
sâu, bí mật, cho tới công hạnh do chính mình trì chân ngôn trọn khắp trong đạo
tràng của chính mình, đều tác pháp hồi hướng bố thí. Dùng công sức ít mà đạt
được thành tựu to lớn, đấy là bậc thượng trong các cách bố thí. Kinh Cù Hê
nói: “Đệ tử đương ư hộ-ma xứ, dĩ chí thành tâm, đảnh lễ A-xà-lê. Tiên
đương phụng hiến y tài nhị táp, nhiên hậu xả thí dư tài” (Đệ tử hãy
nên ở chỗ hộ-ma, dùng tâm chí thành đảnh lễ A-xà-lê. Trước hết, nên dâng cúng
hai rương y đã may cắt. Sau đấy xả thí các tài vật khác). Lại nữa, trong kinh
văn ấy nói: Sau khi quán đảnh xong, [thầy] dạy cặn kẽ về tướng Mạn-đồ-la, dạy
chân ngôn và ấn rồi [đệ tử] mới dâng thí, chẳng giống kinh này. Có thể tùy ý sử
dụng [cách nào để cúng dường thầy cũng được].
(Kinh)
Dĩ vị tác gia hộ, ưng triệu nhi cáo ngôn: “Kim thử thắng phước điền, nhất thiết
Phật sở thuyết. Vị dục quảng nhiêu ích, nhất thiết chư hữu tình, phụng thí nhất
thiết Tăng, đương hoạch ư đại quả, vô tận đại tư tài, thế thuyết thường tùy
sanh. Dĩ cúng dường tăng giả, thí cụ đức chi nhân. Thị cố, Thế Tôn thuyết: -
Ưng đương phát hoan hỷ, tùy lực biện hào thiện, nhi thí hiện tiền Tăng”.
(經)已為作加護,應召而告言:今此勝福田,一切佛所說,為欲廣饒益,一切諸有情。奉施一切僧,當獲於大果,無盡大資財,世說常隨生。以供養僧者,施具德之人,是故世尊說,應當發歡喜,隨力辦餚膳,而施現前僧。
(Kinh:
Đã gia hộ xong xuôi, [thầy] nên triệu vời [đệ tử] bảo rằng: - Nay ruộng phước
thù thắng, được hết thảy Phật nói. Vì muốn lợi ích rộng, hết thảy các hữu tình,
dâng thí hết thảy Tăng, sẽ đạt được quả lớn, tài vật to vô tận, đời đời thường
sanh theo, do bởi cúng dường Tăng, và thí người trọn đức. Vì vậy, Thế Tôn nói:
“Hãy sanh tâm hoan hỷ, tùy sức sắm món ngon, để thí hiện tiền Tăng”).
Ý
nói: Từ lúc được gọi vào [đàn tràng] cho tới nay, đều là phương tiện gia trì.
Nay vì phát khởi cái tâm của đệ tử, lại do dạy bảo mà [thầy] nói như thế
này: “Kim thử thắng phước điền, nhất thiết Phật sở thuyết, vị dục quảng
nhiêu ích, nhất thiết chư hữu tình” (Nay phước điền thù thắng này do
hết thảy chư Phật đã nói, vì muốn lợi ích rộng lớn hết thảy các hữu tình),
nghĩa là đức Thế Tôn thấy các chúng sanh từ vô thỉ cho tới nay, luôn thường
thiếu hụt tài vật trong, ngoài, thực hiện các việc chẳng được tự tại. Do nhân
duyên ấy, đọa vào chỗ chẳng thanh nhàn, chẳng thể mau chóng đạt tới Vô Thượng
Bồ Đề. Do vậy, [chư Phật] cùng dùng thần lực, nói phước điền vô thượng này. Do
trong Đại Bi Tạng này, hết thảy biển cả Phổ Môn không gì chẳng nhóm họp trọn
hết. Nay do rộng gieo thiện căn vô hạn ở trong ấy, từ đời này trở đi, cho đến
tột đời vị lai sau, thường làm thân Như Ý Châu, hoặc thân Hư Không Tạng, có thể
thỏa mãn hết thảy mong ước của mình lẫn người. Vì thế nói là “quảng
nhiêu ích nhất thiết chúng sanh” (rộng lợi ích hết thảy chúng sanh).
Lại nữa, đã thí cho Đệ Nhất Nghĩa Tăng và người truyền pháp xong, thầy lại sắc
truyền [đệ tử hãy] cúng dường Thế Đế hòa hợp tăng. Nếu lúc thí cho hòa hợp
Tăng, mười phương hết thảy các vị Tăng dù thánh hay phàm thảy đều có phần. Vì
thế, phước ấy như hư không, như mây, như biển chẳng thể nghĩ bàn!
“Đương
hoạch ư đại quả” (sẽ đạt được cái quả to lớn) chính là lợi ích rốt
ráo. Nếu gieo phước trong ấy, giống như ăn kim cang, rốt ráo chẳng tiêu, ắt sẽ
xuyên thấu tới kim cang địa tế[12] rồi mới ngừng. Vì thế, ngài
Đạo Sanh nói: “Một mảy điều thiện có thể tiến nhập Phật quả”. Kế
đó, do nói về các điều ước nguyện của thế gian, nên lại nhắc đến nghĩa lợi thế
gian, tức là “vô tận đại tư tài, thế thuyết thường tùy sanh” (của
báu to lớn vô tận, cõi đời nói là “thường sanh theo”). Đó là Thế Giới Tất Đàn;
do vậy nói là “thế thuyết”. Như ngài Bạc Câu La (Vakkula) do
dùng một quả Ha Lê Lặc (Haritaki, myrobalan) thí cho Tăng, trong suốt chín mươi
mốt kiếp thường chẳng bệnh tật, chẳng chết bất ngờ. Ngài A Na Luật (Aniruddha)
do thí một bữa ăn cho Bích Chi Phật, cũng trong vô lượng kiếp thường sanh cùng
với kho báu, như trong kinh Bổn Sanh đã nói cặn kẽ, nên nói là “thường
tùy sanh”. Lại nữa, Hữu Bộ Tỳ Ni (Luật Tạng của Nhất Thiết Hữu Bộ)
nói: Bốn vị đại đệ tử là Đại Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề
giống như hiền bình (bảo bình). Nếu có ai tịnh tâm cúng dường [các Ngài] xong,
mong cầu quả báo thế gian trong đời hiện tại, không gì chẳng được như nguyện.
Hà huống thí cho hết thảy tăng! Hãy nên biết: Các vị trọn đủ đức trong mười
phương thế giới như thế đều được bao gồm trong đó, cho đến bậc thánh nhân vô
học muốn kéo dài tuổi thọ để trụ thế, đều phải cậy vào sức của Tăng chúng. Vì
thế, nay quý vị muốn thành tựu cái quả Tất Địa, hãy nên tu Đàn thí (bố thí) trọn đủ chẳng thiếu. Lại
nên dùng tâm hoan hỷ để cúng dường Thế Đế hiện tiền Tăng. Do mười phương tăng
chẳng thể nhóm họp trọn hết, chỉ thuận theo những vị hiện tiền nhóm họp trong
vùng mà cúng thí thì chính là “thí cho hết thảy các vị Tăng”.
(Kinh)
Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn phục cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, nhi thuyết kệ
ngôn: - Nhữ Ma Ha Tát Đỏa, nhất tâm ưng đế thính, đương quảng thuyết quán đảnh,
cổ Phật sở khai thị. Sư tác đệ nhị đàn, đối trung Mạn-đồ-la, đồ họa ư ngoại
giới, tương cự nhị trửu lượng. Tứ phương chánh quân đẳng, nội hướng khai nhất
môn, an tứ Chấp Kim Cang, cư kỳ tứ duy ngoại. Vị Trụ Vô Hý Luận, cập Hư Không
Vô Cấu, Vô Cấu Nhãn Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y đẳng. Nội tâm đại liên hoa, bát diệp
cập tu nhụy. Ư tứ phương diệp trung, tứ bạn lữ Bồ Tát, do bỉ đại hữu tình, vãng
tích nguyện lực cố. Vân hà danh vi tứ? Vị Tổng Trì Tự Tại, Niệm Trì, Lợi Ích
Tâm, Bi Giả Bồ Tát đẳng. Sở dư chư tứ diệp, tác tứ phụng giáo giả, Tạp Sắc Y,
Mãn Nguyện, Vô Ngại, Vô Giải Thoát.
(經)爾時毘盧遮那世尊復告執金剛祕密主而說偈言:汝摩訶薩埵,一心應諦聽;當廣說灌頂,古佛所開示。師作第二壇,對中漫荼羅,圖畫於外界,相距二肘量,四方正均等,內向開一門,安四執金剛,居其四維外,謂住無戲論,及虛空無垢。無垢眼金剛,被雜色衣等,內心大蓮華,八葉及鬚蘂,於四方葉中,四伴侶菩薩,由彼大有情,往昔願力故。云何名為四?謂總持自在,念持利益心,悲者菩薩等。所餘諸四葉,作四奉教者,雜色衣滿願,無礙及解脫。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn lại bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, bèn nói kệ
rằng: - Ông Ma Ha Tát Đỏa, nên nhất tâm nghe kỹ, sẽ rộng nói quán đảnh, do cổ
Phật khai thị. Thầy lập đàn thứ hai, đối diện Trung Thai đàn, tô vẽ ở bên
ngoài, cách đại đàn hai khủy. Bốn phương đều cân xứng, mở một cửa hướng nội,
đặt bốn Chấp Kim Cang, ở phía ngoài bốn góc, tức Trụ Vô Hý Luận, và Hư Không Vô
Cấu, Vô Cấu Nhãn Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y thảy. Giữa vẽ đóa sen to, tám cánh và
tua nhụy. Nơi bốn cánh bốn phía, bốn bạn lữ Bồ Tát, do các đại hữu tình, nguyện
lực từ thuở trước. Thế nào là bốn vị? Tức Tổng Trì Tự Tại, Niệm Trì, Lợi Ích
Tâm, Bi Giả Bồ Tát thảy. Nơi bốn cánh sen kia, vẽ bốn vị phụng giáo: Tạp Sắc Y,
Mãn Nguyện, Vô Ngại, và Giải Thoát).
Kế
đó, nói về pháp quán đảnh, vẫn thuộc chi phần “gia trì dạy bảo”. Nhưng
phép quán đảnh này cũng thông với các pháp sự khác, hoặc có thể xếp riêng thành
một chi phần. A-xà-lê tạo Mạn-đồ-la thứ hai, đối xứng với Trung Thai Mạn-đồ-la,
cách đại Mạn-đồ-la (Trung Thai Mạn-đồ-la) hai khủy tay. “Đệ nhị” có
nghĩa là kém hơn, nhỏ hơn, tức là nói tương đối. Phàm lò lửa nên đặt ở trung
thai (phần chính giữa của Mạn-đồ-la). Nếu nơi chốn bất tiện, có thể dời [đàn
quán đảnh] hơi lệch về phía Nam, thậm chí dời sang góc Tây Nam [của Trung Thai
Mạn-đồ-la]. Đàn quán đảnh này lại ở phía Bắc hỏa đàn, cũng lập sao cho bốn phía
cân bằng, chỉ mở một cửa. Cửa mở hướng về phía đại đàn. Ở bốn góc của đàn [quán
đảnh] này, vẽ bốn vị Chấp Kim Cang. Nơi Hỏa phương, tức là phương Đông Nam, đặt
Trụ Vô Hý Luận (Aprapañcavihārin)
Chấp Kim Cang. Ở phương Niết Rị Để (Tây Nam), đặt Hư Không Vô Cấu (Gaganāmala), nơi phương Phong (Tây
Bắc) đặt Vô Cấu Nhãn (Vimalanetra),
nơi phương Y Xá Ni (Đông Bắc), đặt Bị Tạp Sắc Y (Vicitrāmbaradhara).
Đại
liên hoa vương tám cánh trong đàn, tua nhị đầy đủ. Ở bốn cánh sen, đặt bốn vị
Bạn Lữ Bồ Tát: Ở phương Đế Thích (phương Đông) là Tổng Trì Tự Tại Bồ Tát (Dhāraṇīśvara-rāja), phương Diễm Ma (phương
Nam) là Niệm Trì Bồ Tát (Smṛtisaṃprajanyin),
phương Na Già (phương Tây) là Lợi Ích Tâm Bồ Tát (Hītadhyāśayin), phương Dạ Xoa (phương
Bắc) là Bi Giả Bồ Tát (Kāruṇika).
Kế đó, nơi bốn cánh sen tương ứng bốn góc, đặt bốn vị phụng giáo giả[13]. Hỏa phương (phương Đông Nam) là Bị
Tạp Sắc Y (Vicitrāmbara),
phương Niết Rị Để (Tây Nam) là Mãn Nguyện (Āśāparipūraka), phương Phong (Tây Bắc) tên là Vô Ngại
(Asakta), phương Y Xá Ni (Đông Bắc) tên là Giải Thoát (Vimukta).
(Kinh)
Trung ương thị pháp giới, bất khả tư nghị sắc.
(經)中央示法界,不可思議色,
(Kinh:
Chính giữa bày pháp giới, màu chẳng thể nghĩ bàn).
Tức
là chữ Lam (रं)
được vẽ với màu thuần trắng; đó gọi là biểu tượng của pháp giới chẳng thể nghĩ
bàn. Lại giải thích theo kiểu sâu xa, bí mật, thì đàn vuông chính là Đại Nhân
Đà La Tâm Vương Kim Cang Giới. Trụ Vô Hý Luận chính là trí giới cội nguồn tánh
tịnh, ba đời chẳng chướng ngại. Do giới này, hết thảy các hý luận đều dứt. Do
dứt hý luận, được thành trí huệ to lớn không có thầy, các thứ trần cấu che lấp
đều hết sạch như hư không thanh tịnh. Vì thế, gọi là Hư Không Vô Cấu. Như trong
hư không, lúc chẳng có cấu chướng, mắt nhìn tột cùng mười phương, không gì
chẳng thấy. Bát Nhã cũng thế, do lìa hết thảy các tướng, trong hết thảy các
loại, không gì chẳng thấy, nghe, hay, biết. Vì thế, gọi là Vô Cấu Nhãn. Như
người sáng mắt, có thể tự tại làm các sự nghiệp; nay dùng lòng Bi vô ngại quán
trọn khắp hết thảy căn duyên xong, liền hiện trọn khắp sắc thân để tạo lợi ích.
Vì thế gọi là Bị Tạp Sắc Y. Nếu bốn thứ kim cang huệ ấn ấy trọn đủ trong một
tâm chẳng thiếu sót, tức là có thể trấn định tâm địa ấy, kham trì thân quán
đảnh huệ, giống như ở dưới
cội Bồ Đề từ Kim Cang địa tế trở lên, thảy đều cứng chắc. Vì thế, lúc Như Lai
thành đạo, [tòa Bồ Đề] chẳng nghiêng ngửa, chẳng khuyết hãm.
“Bốn
bạn lữ” là nói tất cả các pháp trong tâm (tức tâm sở), là bầu bạn của
tâm vương. Ý nói tâm vương trong pháp giới thanh tịnh ấy thành tựu bốn pháp, có
thể hành bốn loại Như Lai sự, sẽ kham quán đảnh, tiếp nhận địa vị pháp vương.
Trước hết nói Đà La Ni Tự Tại Vương, tức là thông đạt môn chữ A. Khi thấy chân
ngôn vương này, liền có thể trong hết thảy các môn đà la ni, đều được tự tại.
Do vậy, đặt tên như thế. Lại do tổng trì tự tại, thành tựu Như Lai niệm giác
như ý tam-muội vương, có thể nắm giữ một vạn cõi Phật, như vật báu bí mật trong
cung rồng có thể giữ cho biển cả chẳng dâng tràn, mà cũng có thể giữ cho biển
chẳng khô cạn. Vì thế gọi là Niệm Trì. Đã có được niệm bảo như thế, liền nhớ
đến bổn nguyện, mưa trọn khắp pháp tài đầy ắp pháp giới, thí trọn khắp chúng
sanh, gọi là Lợi Ích Tâm. Đã tuôn ra vô tận tài vật để thực hiện đại thí vô
hạn, nhưng chúng sanh hèn kém, chẳng có tâm thọ dụng, chẳng chịu cầu. Vì thế,
hưng khởi tâm đại bi, dùng đủ loại phương tiện để điều phục đứa con nghèo túng,
cho nên nói “Bi Giả Bồ Tát đẳng”.
Nói “phụng
giáo giả” tức là từ nay trở đi, dùng bốn môn chiết phục, nhiếp thọ để
hành Như Lai sự. Hãy nên biết Bị Tạp Sắc Y chính là sự nghiệp được thực hiện
bởi Đà La Ni Tự Tại Vương. Mãn Nguyện là niệm trì sự nghiệp được tạo tác bởi
như ý bảo vương. Vô Sở Quái Ngại là đại từ bi pháp thí, tạo tác sự nghiệp. Giải
Thoát là phương tiện đạo bi, dẹp khổ chúng sanh, tạo tác sự nghiệp. Vì thế, gọi
là “bốn vị phụng giáo”.
(Kinh)
Tứ bảo sở thành bình, thịnh mãn chúng dược bảo, Phổ Hiền, Từ Thị tôn, cập dữ
Trừ Cái Chướng, Trừ Nhất Thiết Ác Thú, nhi dĩ tác gia trì. Bỉ ư quán đảnh thời,
đương trí diệu liên thượng, hiến dĩ đồ hương, hoa, đăng minh cập Át-già. Thượng
ấm tràng, phan, cái, phụng nhiếp ý âm nhạc, cát khánh già-đà đẳng, quảng đa mỹ
diệu ngôn.
(經)四寶所成瓶,盛滿眾藥寶。普賢慈氏尊,及與除蓋障,除一切惡趣,而以作加持。彼於灌頂時,當置妙蓮上,獻以塗香華,燈明及閼伽。上蔭幢幡蓋,奉攝意音樂,吉慶伽陀等,廣多美妙言。
(Kinh: Bốn
báu làm thành bình, chứa đầy các thuốc báu, Phổ Hiền, ngài Từ Thị, cùng với Trừ
Cái Chướng, Trừ Nhất Thiết Ác Thú, thảy đều cùng gia trì. Trong khi làm quán
đảnh, đặt bình trên diệu liên, dâng cúng hương bôi, hoa, đèn sáng và Át-già.
Trên che tràng, phan, lọng. Dâng âm nhạc nhiếp ý, kệ tụng tốt lành thảy, lời
tốt đẹp rộng nhiều).
“Tứ
bảo sở thành bình” (bốn báu làm thành bình) chính là báu tứ đức của
ngài Tỳ Lô Giá Na, đặt ở bốn góc của Trung Thai như trong phần trước đã nói.
Dùng Bất Động Minh Vương để gia trì xong, lại dùng chân ngôn của bốn vị Bồ Tát
để gia trì mỗi bình. Phổ Hiền là vô tận nguyện hạnh bảo, Từ Thị (Di Lặc) là vô
tận nhiêu ích chúng sanh bảo, Trừ Cái Chướng (Sarvanīvaraṇaviṣkambhin) là vô tận tịnh tri kiến bảo, Trừ Chư Ác
Thú (Sarvāpāyaṃjaha)
là vô tận đại bi phương tiện bảo. Lại nữa, Phổ Hiền là biến pháp giới tịnh Bồ
Đề tâm (tâm Bồ Đề thanh tịnh trọn khắp pháp giới), Từ Thị là rễ, mầm, thân, lá
phát sanh từ Thai Tạng trong tịnh tâm ấy. Trừ Cái Chướng là hoa quả nở bừng của
thụ vương tịnh giác diệu nghiêm ấy. Trừ Nhất Thiết Ác Thú là sau khi thâu hoạch
quả hạt ấy, bèn gieo vào ruộng “hết thảy chúng sanh”. Xoay vần sanh khởi như
thế, chẳng có cùng tận! Vì thế, dùng bốn cái bình báu ấy, đựng đầy các thứ
thuốc báu, các hạt ngũ cốc, ngâm trong nước thơm tánh tịnh dùng để rưới lên đài
hoa sen trong tâm pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, được gọi là “con
của đấng pháp vương”.
Hãy
nên biết một loại bảo bình lại còn cơ cảm tương ứng với một vị Bồ Tát, một Kim
Cang, hoặc một sứ giả, dùng phương vị pháp môn đối ứng, sẽ có thể biết. Phàm
khi muốn quán đảnh, hãy dùng Biện Sự Chân Ngôn để gia trì tòa và vật, đặt trên
đài hoa sen. A-xà-lê lại vì đệ tử đúng như pháp hộ thân: Trước hết, dùng [chân
ngôn và ấn của] Bất Động Minh Vương để trừ các chướng. Kế đó, dùng ba loại
tam-muội-da để gia trì ba chỗ, [dùng chân ngôn và ấn của] Kim Cang Tát Đỏa gia
trì chi phần xong, bảo các đệ tử theo cách ngồi cát tường[14] mà ngồi trong đó. Tất cả hương
bôi, hoa, đèn, nước Át-già v.v… trước đó đã được đúng pháp gia trì, nhất loạt
như cách đã nói trong phần trên. Trước hết, A-xà-lê nên dâng nước thơm. Kế đó,
dùng hương bôi xoa khắp thân [tôn thánh trong đàn quán đảnh], dùng tràng hoa
trang hoàng thân họ, coi như anh lạc. Tiếp đó, dâng hương đốt để xông, xếp đặt
đèn chiếu sáng trước họ, và dâng cúng các thứ thức ăn. Phàm các vật cúng dường,
tổng cộng là mười ba tọa vị, tức là bốn vị Kim Cang, bốn Bồ Tát, bốn sứ giả và
đệ tử. Vật cúng cho đệ tử phải sao cho dồi dào nhất, giống như cúng dường Bổn
Tôn. Cũng có thể đặt trước tòa vị để cúng dường trong Đại Mạn-đồ-la.
Còn
như khi quán đảnh, chỉ nên trì danh hiệu của các Ngài để thỉnh các Ngài gia trì
đệ tử. Bốn vị Bồ Tát thì nơi viện thứ nhất, đều đặt mỗi vị ở mỗi phương. Sứ giả
thì đặt ở hai bên cửa hẹp ở phía dưới Như Lai. Lại chuẩn bị một cái lọng mới
sạch, trên đó treo tràng hoa và lụa trắng, cũng trước đó dùng Bất Động chân
ngôn để khử cấu trừ chướng, dùng chân ngôn của Đại Nhật Như Lai để gia trì.
A-xà-lê tự cầm lọng để che lên trên, lại sai người khác cầm phất trần bằng lông
mao ngưu (lông bò Yak), quạt, và lò hương, [các thứ ấy] đều dùng Biện Sự chân
ngôn gia trì. Lại ở trong rương, đặt y, và các vật cát tường, tức là kim vàng
để khêu màng mộng mắt, gương sáng, bánh xe báu, thương-khư (vỏ ốc to), cũng cầm
bình bằng bốn chất báu để cúng dường, cũng tấu âm nhạc thâu nhiếp ý niệm. Khúc
nhạc này được chép đầy đủ trong Du Già Đại Bổn. Nếu lúc cúng hương bôi, liền có
nhạc khúc dâng hương bôi. Hoa, đèn, thức ăn v.v… cũng đều như thế. Mỗi lời ca
vịnh đều là chân ngôn, mỗi một điệu múa không gì chẳng phải là mật ấn. Thậm chí
nếu không có người biết thì A-xà-lê hãy nên tự tấu. Nếu chẳng được như vậy,
[A-xà-lê] sẽ chẳng gọi là “kiêm tổng chúng nghệ”. Nói “nhiếp
ý”, tức là người trông thấy sắc thanh đẹp đẽ, hay khéo như thế, tâm
say đắm, tình thức chuyên chú, chẳng còn duyên theo điều chi khác. Nay kim cang
kỹ nhạc này có thể cảm động tâm người cũng giống như thế, như Mã Minh Bồ Tát tự
tấu khúc nhạc Lại Trá Hòa La (Raṣṭrapāla),
năm trăm vương tử nghe xong, đồng thời bỏ nhà nhập đạo, tức là ý nghĩa này.
Kinh Cù Hê chỉ nói: “Nhược đắc biện giả, ưng tác âm nhạc” (Nếu
có người có thể làm, hãy nên tấu âm nhạc).
Kinh
nói “cát tường già-đà đẳng, quảng đa mỹ diệu ngôn” (kệ tụng
tốt lành thảy, lời hay đẹp rộng nhiều). Kệ tụng có ba loại: Một là cát khánh,
hai là cát tường, ba là cực cát tường, đều là A Lợi Sa già-tha. Dùng lời tốt
lành, mừng vui ấy để an ủi cái tâm, lại còn có tác dụng gia trì, A-xà-lê hãy
nên tự nói. Kế đó, phần kinh văn tiếp theo nêu ra một loại cát khánh, có thể
dùng cách [tán tụng] ở phương này để tạm thay thế. Khi nói bài kệ ấy, hãy nên
tự cầm phất trần trắng để phảy lên thân người ấy.
(Kinh)
Như thị nhi cúng dường, linh đắc hoan hỷ dĩ, thân đối chư Như Lai, nhi tự quán
kỳ đảnh, phục đương cúng dường bỉ, diệu thiện chư hương hoa.
(經)如是而供養,令得歡喜已,親對諸如來,而自灌其頂。復當供養彼,妙善諸香華。
(Kinh:
Cúng dường như thế xong, khiến được hoan hỷ rồi, đối trước các Như Lai, để tự
rưới đỉnh đầu, lại nên cúng dường Phật, các hương hoa tốt lành).
Tán
tụng xong xuôi, A-xà-lê lại nên đảnh lễ hết thảy chư tôn trong Mạn-đồ-la, vì
quán đảnh mà chí thành khải bạch. Liền cầm bình báu nhiễu quanh Mạn-đồ-la ba
vòng, lại theo đúng pháp mà gia trì. Tới chỗ đệ tử, trước hết, dùng chữ Ra (र)
làm lửa, [quán tưởng] thiêu đốt thân người ấy thành tro xong, mới dùng bốn bình
theo thứ tự mà xối. Xối xong, quán môn chữ Phạ (व, Va) trong tro ấy, sắc
thuần trắng. Từ chữ ấy, sanh ra năm chữ, tức là A Vãm Lãm Hám Khiếm (A, Vaṃ, Raṃ,
Haṃ, Khaṃ), trì năm luân ấy. Kế đó, nói chữ Ám ở
trên đỉnh đầu chuyển thành Trung Thai Tạng. Lại từ chữ ấy, sanh ra ba tầng lửa
sáng:
-
Một tầng nhiễu quanh cổ họng. Nó chiếu đến đâu, chư tôn đều hiện, liền thành
viện thứ nhất của Mạn-đồ-la.
-
Tầng ánh sáng kế đó nhiễu khắp quanh tim, chư tôn đều hiện theo đó, thành tầng
thứ hai của Mạn-đồ-la.
-
Tầng ánh sáng kế đó, nhiễu khắp quanh rốn, thành tầng thứ ba của Mạn-đồ-la.
Lúc
bấy giờ, các đệ tử đều thành thân Mạn-đồ-la. Nếu giải thích theo kiểu sâu xa,
bí mật hơn, sẽ là thân phổ môn pháp giới.
(Kinh)
Thứ ưng chấp kim bễ, tại ư bỉ tiền trụ, ủy dụ linh hoan hỷ, thuyết như thị
già-tha: “Phật tử! Phật vị nhữ, quyết trừ vô trí mạc, do như thế y vương, thiện
dụng dĩ kim trù”. Trì chân ngôn hành giả, phục đương chấp minh kính, vị hiển vô
tướng pháp, thuyết thị diệu già-tha: “Chư pháp vô hình tượng, thanh trừng vô
cấu trược, vô chấp ly ngôn thuyết, đản tùng nhân nghiệp khởi. Như thị tri thử
pháp, tự tánh vô nhiễm ô, vi thế vô tỷ lợi, nhữ tùng Phật tâm sanh”. Thứ đương
thọ pháp luân, trí dĩ nhị túc gian. Huệ thủ truyền pháp loa, phục thuyết như
thị kệ: “Nhữ tự ư kim nhật, chuyển ư cứu thế luân, kỳ thanh phổ châu biến, xuy
vô thượng pháp loa. Vật sanh ư dị huệ, đương ly nghi hối tâm. Khai thị ư thế
gian, thắng hạnh chân ngôn đạo. Thường tác như thị nguyện, tuyên xướng Phật ân
đức, nhất thiết Trì Kim Cang, giai đương hộ niệm nhữ”.
(經)次應執金篦,在於彼前住,慰喻令歡喜,說如是伽他:佛子佛為汝,決除無智膜,猶如世醫王,善用以金籌。持真言行者,復當執明鏡,為顯無相法,說是妙伽他:諸法無形像,清澄無垢濁,無執離言說,但從因業起。如是知此法,自性無染污,為世無比利,汝從佛心生。次當授法輪,置以二足間,慧手傳法螺,復說如是偈:汝自於今日,轉於救世輪,其聲普周遍,吹無上法螺。勿生於異慧,當離疑悔心,開示於世間,勝行真言道。常作如是願,宣唱佛恩德,一切持金剛,皆當護念汝。
(Kinh:
Kế nên cầm kim vàng, đứng trước mặt người ấy, khuyên nhủ khiến hoan hỷ, nói
già-tha thế này: “Phật tử! Phật vì ngươi, gỡ bỏ màng vô trí, như y vương trong
đời, khéo sử dụng đũa vàng”. Hành giả trì chân ngôn, lại nên cầm gương sáng,
hiển thị pháp vô tướng, nói kệ mầu nhiệm này: “Các pháp không hình tượng, lắng
trong, không nhơ đục, chẳng chấp, lìa ngôn thuyết, chỉ từ nhân nghiệp khởi.
Biết pháp này như thế, tự tánh chẳng nhuốm bẩn, lợi khôn sánh trong đời, ngươi
sanh từ tâm Phật”. Kế nên trao pháp luân, đặt ở giữa hai chân, tay Huệ (tay
phải) truyền ốc pháp, lại nói kệ thế này: “Ngươi từ nay trở đi, xoay chuyển
luân cứu đời, tiếng vang rền trọn khắp, thổi ốc pháp vô thượng, đừng nẩy sanh
dị huệ, nên lìa tâm nghi hối. Khai thị trong thế gian, đạo chân ngôn thắng
hạnh. Thường nguyện như thế ấy, tuyên xướng Phật ân đức, hết thảy Trì Kim Cang,
sẽ đều hộ niệm ngươi”).
Kế
đó, dẫn các đệ tử tới một chỗ, A-xà-lê đích thân khoác áo cho đệ tử, lụa trắng
bịt đầu, dùng hương bôi lên thân, trang điểm bằng tràng hoa, dâng hương, đèn
sáng, đúng như pháp cúng dường, cánh tay cũng buộc chỉ kim cang, cũng như vòng
cổ tay, nhẫn đeo nơi ngón tay. Cách tạo tác như đã nói trong phần Tất Địa Cúng
Dường. Lại nữa, trước đó, A-xà-lê dùng chữ Ra để gia trì kim vàng, dùng chữ Mãn
để gia trì gương sáng, pháp luân, ốc pháp (tù và), dùng chân ngôn gia trì pháp
luân và thương-khư (ốc pháp). Lại còn ở trước đệ tử, dùng kim vàng khêu sáng
mắt để nói kệ, hãy nên quán môn chữ Ra để trừ sạch cấu chướng trong mắt người
ấy. Kế đó, lại đối trước người ấy, chỉ bày gương sáng, vì người ấy nói kệ, hãy
nên quán môn chữ Mãn để tịnh trừ cấu chướng trong tâm. Kế đó, cầm pháp luân đặt
giữa hai chân người ấy, cũng trao cho thương-khư để cầm trong tay phải, vì
người ấy nói kệ. Đối với mỗi món, đều dùng chân ngôn của vật ấy để trì. Vì sao
vậy? Nếu hành nhân ấy có thể dùng mắt thanh tịnh để trong hiện tiền tự quán tâm
kính, tức là thành tựu đại Bồ Đề. Thành đại Bồ Đề rồi sẽ chuyển pháp
luân. “Chuyển pháp luân” chẳng phải là hạn định số lượng chừng
bao nhiêu đó, mà là giác ngộ hết thảy chúng sanh. Vì thế, thổi ốc
pháp lớn. Phàm trong tông Bí Mật, đều nói nhân duyên sự tướng để sánh ví ý chỉ
sâu xa, cho nên trao truyền như thế đó.
(Kinh)
Thứ đương ư đệ tử, nhi khởi bi niệm tâm, hành giả ư nhập trung, thị tam-muội-da
kệ: “Phật tử! Nhữ tùng kim, bất tích thân mạng cố, thường bất ưng xả pháp, xả
ly Bồ Đề tâm, xan lận nhất thiết pháp, bất lợi chúng sanh hạnh. Phật thuyết
tam-muội-da. Nhữ thiện trụ giới giả, như hộ tự thân mạng, hộ giới diệc như thị.
Ưng chí thành cung kính, khể thủ thánh tôn túc, sở tác tùy giáo hành, vật sanh
nghi lự tâm.
(經)次當於弟子,而起悲念心,行者應入中,示三昧耶偈:佛子汝從今,不惜身命故,常不應捨法、捨離菩提心、慳悋一切法、不利眾生行,佛說三昧耶,汝善住戒者,如護自身命,護戒亦如是。應至誠恭敬,稽首聖尊足,所作隨教行,勿生疑慮心。
(Kinh:
Kế nên, với đệ tử, dấy lên tâm bi niệm, hành giả vào trong ấy, dạy kệ
tam-muội-da: “Phật tử! Ngươi từ nay, do chẳng tiếc thân mạng, thường chớ nên xả
pháp, lìa bỏ tâm Bồ Đề, keo kiệt hết thảy pháp, hạnh chẳng lợi chúng sanh. Phật
nói tam-muội-da. Ngươi khéo trụ trong giới, như thủ hộ thân mạng. Thủ hộ giới
cũng thế. Nên chí thành cung kính, lễ dưới chân thánh tôn, vâng lời dạy mà
hành, đừng sanh tâm lo ngờ).
Kế
đó, A-xà-lê cũng nên cầm lọng che phía trên, dẫn họ nhiễu quanh Mạn-đồ-la ba
vòng, trước hết nhiễu quanh chỗ đi lại thuộc tầng thứ nhất trong đàn tràng, kế
đó nhiễu quanh chỗ đi lại thuộc tầng thứ hai, cuối cùng nhiễu quanh chỗ đi lại
thuộc tầng thứ ba. Khi đi nhiễu như thế, A-xà-lê hãy nên dùng các bài kệ cát
tường, cực cát tường v.v… hoặc có thể tụng kệ cát khánh bằng tiếng Phạn. Làm
xong xuôi, lại tới chỗ hai vị long vương ở hai bên nách của cửa Tây, bảo đệ tử
ân cần lễ bái. Cái lọng ấy nên thuận theo mà che trên, che dưới. Thầy liền vì
trò nói tam-muội-da kệ, đó chính là bốn loại trọng cấm trong Bí Mật Tạng. Các
bài kệ ấy đều là A Lợi Sa kệ, trong phần sau sẽ giải thích. Kinh Cù Hê
nói: “Đệ tử chí Tây môn lễ bái dĩ, A-xà-lê đương bạch chư tôn vân: ‘Ngã
mỗ giáp dĩ dữ mỗ giáp quán đảnh cánh, kim phó chúc chư tôn, linh trì minh
tạng’. Tác thị ngữ dĩ, ưng đương phóng tán, linh kỳ khởi lập, đối Mạn-đồ-la
tiền, vị thuyết tam-muội-da giới: - Nhữ kim dĩ thành tựu Mạn-đồ-la trì minh
A-xà-lê cánh, chư Phật, Bồ Tát, cập Chân Ngôn Chủ, nhất thiết thiên thần dĩ
cộng tri nhữ. Nhược kiến chúng sanh kham vi pháp khí, lân mẫn bỉ cố, đương vị
kiến lập Mạn-đồ-la, nhi giáo thọ chi” (Đệ tử đến cửa Tây lễ bái xong,
A-xà-lê hãy nên bạch với chư tôn rằng: “Con là X… đã quán đảnh cho Y…, nay phó
chúc chư tôn dạy kẻ ấy trì minh tạng”. Nói lời ấy xong, hãy nên bỏ lọng, bảo
người ấy đứng lên, đối trước Mạn-đồ-la, vì người ấy nói tam-muội-da giới: -
Ngươi nay đã thành tựu Mạn-đồ-la trì minh A-xà-lê. Chư Phật, Bồ Tát, và Chân
Ngôn Chủ, hết thảy thiên thần đều cùng biết ngươi. Nếu thấy chúng sanh kham làm
pháp khí, vì thương xót họ, hãy vì họ mà kiến lập Mạn-đồ-la để dạy bảo).
Nhưng
trong kinh này có bài kệ truyền pháp loa. Như người ở phương Tây (Ấn Độ) khi
[đồng tử trong hoàng thất] thọ pháp Quán Đảnh, sẽ lấy nước từ bốn biển, và nước từ hết thảy các sông trong
đất nước, sắp đặt đầy đủ các thứ báu, thuốc, hạt lương thực v.v… Làm địa đồ của
đất nước, bảo đồng tử ngồi xổm trên tòa sư tử, dùng đủ loại trân bảo để trang
nghiêm. Các quyến thuộc lớn nhỏ thuộc quyền thống lãnh [của hoàng đế] theo thứ
tự chầu hầu. Vi Đà phạm chí sư ngồi trên voi báu, sau khi đã đến nơi, bèn cầm
bình nước báu ấy rưới lên ngà voi để xối lên đỉnh đầu [đứa trẻ ấy]. Sau đó,
xướng lời bảo ban mọi người. Lại tán thán, diễn nói cách cai trị, cứu đời của
bậc vương giả tiên triết thuở trước: “Tùy thuận làm theo như thế, sẽ
đạt được thọ mạng dài lâu, quyến thuộc đông đảo, kế tục hưng thịnh sự nghiệp
Chuyển Luân. Nếu chẳng làm chuyện như thế, ắt sẽ thoái thất địa vị, mất mạng,
tuyệt tự”. Mỗi mỗi đều răn bảo như thế. Nay pháp quán đảnh của pháp
vương chẳng giống như vậy, phơi bày đồ họa to lớn của pháp giới trong cõi Phật
mật nghiêm, ngồi trên tòa sư tử thần thông tự tại của Diệu Pháp Liên Hoa, dùng
nước từ bi trí huệ từ bản tánh thanh tịnh, chứa đủ vạn đức để rưới cái tâm này.
Lúc bấy giờ, các vị Bồ Tát cho tới tám bộ chúng sanh, không ai chẳng hoan hỷ,
tán thán, sanh lòng kính ngưỡng. Khi đó, A-xà-lê dùng di huấn của đấng pháp
vương để giáo huấn. Từ đấy trở đi, [người được quán đảnh] sẽ được sanh trong
nhà Như Lai, nhất định kế tục địa vị Phật. Nếu chẳng đối trước đệ tử nói rõ như
thế, [đệ tử] sẽ chẳng biết tôn trọng chánh pháp.
* Cát Khánh A Lợi Sa Kệ (trích
từ kinh Phạ Nhật Ra A Tỵ Dữu – Vajrābhyutthāna sūtra, tiếng Hán dịch là Kim Cang
Khởi Kinh)
(Sớ)[15] Lạc cật sáp mị (cát tường dã),
đạt ra (trì dã) kiến giả nẵng (kim dã), bát lạt ma (sơn dã), đa bà (quang dã),
tất đát rị lộ ca (tam thế dã), nẵng tha (đạo dã) tất đát rị (tam dã), mãng la
(cấu dã) bát ra hệ noa (trừ dã), một độ (Phật dã) vi một đản (khai phu dã), mẫu
đồ (thủy sanh dã), bát đát ra (diệp dã), nê đát rô (nhãn dã), đát mộng nghiệt
lam (thị bỉ khánh dã), hệ đa yết lam (nhiêu ích dã), bát ra tha môn (tối sơ
dã), bát ra xã nan (dẫn chư chúng sanh dã. Nhất kệ).
(疏)落吃澁弭(吉相也)達囉(持也)。建者曩(金也)鉢喇麼(山也)多婆(光也)。悉怛哩路迦(三世也)曩他(導也)。悉怛哩(三也)莽羅(垢也)鉢囉係拏(除也)。沒度(佛也)。微沒誕(開敷也)畝闍(水生也)。鉢怛囉(葉也)泥怛嚧(眼也)。怛懵蘗藍(是彼慶也)係多羯藍(饒益也)。鉢囉他門(最初也)。鉢囉社難(引諸眾生也。一偈)
(Sớ:
Lạc cật sáp mị (cát tường), đạt ra (trì) kiến giả nẵng (vàng), bát lạt ma
(núi), đa bà (quang minh), tất đát rị lộ ca (ba đời), nẵng tha (hướng dẫn) tất
đát rị (ba), mãng la (dơ bẩn) bát ra hệ noa (trừ), một độ (Phật) vi một đản (nở
xòe), mẫu đồ (sanh từ nước), bất đát ra (lá), nê đát rô (mắt), đát mộng nghiệt
lam (là điều họ vui mừng), hệ đa yết lam (lợi ích), bát ra tha môn (tối sơ),
bát ra xã nan (dẫn dắt các chúng sanh. Đây là bài kệ thứ nhất).
(Sớ)
Đế nộ ba nễ sắt trá (bỉ sở tuyên thuyết dã) bát ra phạ ra (thắng pháp dã) tất
đát phạ nhận bỉ dã (bất động dã), khế đa (tuyên thuyết dã) tất đát rị lộ kế
(tam thế dã) nại ra (nhân dã) nê phạ bố nhĩ dã (ưng cúng dường dã) đạt ra mộ
(pháp dã) chiêm mãng (thù thắng dã) phiến để (tịch dã) yết ra (năng tác dã),
bát ra xã nan (chư chúng sanh) lộ kế (thế gian) nễ vĩ để diên (đệ nhị dã) thâu
bà (thiện dã) mộng nghiệt ram đam (gia khánh dã. Nhị kệ).
(疏)諦怒波儞瑟吒(彼所宣說也)。鉢囉嚩囉(勝法也)。悉怛嚩釰粃也(不動也)。契多(宣說也)。悉怛哩路計(三世也)。捺囉(人也)泥嚩布爾也(應供養也)。達囉慕(法也)瞻莽(殊勝也)扇(寂也)羯囉(能作也)。鉢囉社難(諸眾生)路計(世間)儞尾底延(第二也)輸婆(善也)。懵蘗藍儋(嘉慶也。二偈)
(Sớ:
Đế nộ ba nễ sắt trá (điều được tuyên nói) bát ra phạ ra (pháp thù thắng) tất
đát phạ nhận bỉ dã (bất động), khế đa (tuyên thuyết) tất đát rị lộ kế (ba đời)
nại ra (người) nê phạ bố nhĩ dã (đáng nên cúng dường) đạt ra mộ (pháp) chiêm
mãng (thù thắng) phiến để (tịch) yết ra (có thể làm), bát ra xã nan (các chúng
sanh) lộ kế (thế gian) nễ vĩ để diên (thứ hai) thâu bà (thiện) mộng nghiệt ram
đam (vui mừng cát khánh. Kệ thứ hai).
(Sớ)
Tát đạt lạt ma (chánh pháp dã) dục cật đa (tương ứng dã) thất rô để (văn dã)
mộng nghiệt la (hỷ khánh dã) trì tà (tuyên dã) tăng cù (chúng dã) đản lật (nhân
dã) nê phạ (thiên dã), tố la (phi thiên dã) nặc cật tỷ nị dã (ứng cúng giả)
hiệt rị (quý dã) thất rị (cát tường dã), ngu nĩnh (công đức dã) trì da (phú dã)
bát ra phạ lam (thù thắng dã), nghiễn nĩnh nan (chúng dã) lộ kế (thế gian dã)
đát rị để diên (đệ tam dã) thâu bà (thiện dã) mộng nghiệt đam (khánh gia dã.
Tam kệ)
(疏)薩達喇摩(正法也)欲吃多(相應也)室嚕底(聞也)懵蘗邏(喜慶也)遲邪(宣也)僧忂(眾也)𭈂栗(人也)泥嚩(天也)素囉(非天也)諾吃屣膩也(應供者)頡唎(愧也)室唎(吉祥也)麌儜(功德也)遲耶(富也)鉢囉嚩藍(殊勝也)巘儜難(眾也)路計(世間也)怛哩底延(第三也)輸婆(善也)懵蘗儋(慶嘉也。三偈)
(Sớ:
Tát đạt lạt ma (chánh pháp) dục cật đa (tương ứng) thất rô để (nghe) mộng
nghiệt la (vui mừng) trì tà (tuyên nói) tăng cù (đại chúng) đản lật (người) nê
phạ (trời), tố la (phi thiên) nặc cật tỷ nị dã (đấng ứng cúng) hiệt rị (thẹn),
thất rị (cát tường), ngu nĩnh (công đức) trì da (giàu) bát ra phạ lam (thù
thắng), nghiễn nĩnh nan (đại chúng) lộ kế (thế gian) đát rị để diên (thứ ba)
thâu bà (tốt lành) mộng nghiệt đam (vui mừng tốt lành. Kệ thứ ba).
(Sớ)
Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) đổ sử đa nê phạ (thăng Đâu Suất Thiên
dã), vi mãng nẵng (cung dã) nghiệt lạt sa na tứ (diệc như dã ) nễ hà (thử dã)
phạ đa la (hạ dã), đổ nhã nghiệt đổ (ư chúng sanh dã) hệ đa dã (lợi ích dã) tắc
ấn nại lại (dữ Đế Thích) tố lại (thiên dã), bát rị vật lật đát tả (vi nhiễu giả)
đát tha nghiệt đa tả (Như Lai giả), đát mộng nghiệt (bỉ khánh dã) bà phạ đổ
(đắc dã) phiến để (tịch dã) yết lam (tác dã) đát phạ nễ dã (kim nhật dã. Tứ kệ)
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)覩史多泥嚩(昇兜率天也)微莾曩(宮也)蘗喇娑那賜(亦如也)儞何(此也)嚩多羅(下也)覩若蘗覩(於眾生也)係多也(利益也)塞印捺嬾(與帝釋)素𡃤(天也)鉢哩勿栗怛寫(圍遶者)怛他蘗多寫(如來也)。怛懵蘗(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇底(寂也)羯藍(作也)哆嚩儞也(今日也。四偈)
(Sớ:
Duệ mộng nghiệt lam (như sự mừng rỡ ấy) đổ sử đa nê phạ (thăng lên trời Đâu
Suất), vi mãng nẵng (cung điện) bách lạt sa na tứ (cũng giống như), nễ hà (cái
này) phạ đa la (dưới), đổ nhã nghiệt đổ (nơi chúng sanh), hệ đa dã (lợi ích)
tắc ấn nại lại (và Đế Thích) tố lại (trời), bát rị vật lật đát tả (vây quanh),
đát tha nghiệt đa tả (Như Lai), đát mộng nghiệt (sự mừng rỡ ấy) bà phạ đổ (đạt
được) phiến để (tịch) yết lam (làm) đát phạ nễ dã (ngày nay. Kệ thứ tư).
(Sớ)
Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) bổ ra (cung thành dã) phạ lê (thắng dã)
Ca Bỉ La (cổ vân Ca Tỳ La), ha phạ duệ giá (danh dã) nễ phệ (thiên dã) ma ha
(đại dã) đát ma tỳ (đức dã) đá phạ nễ nễ đát tả (kính lễ giả dã) a tứ (diệc như
dã) na chấn để dã (bất tư nghị dã), đản xá la tả (thiện giả), đát tha nghiệt đa
tả (Như Lai dã) đát mộng nghiệt lam (bỉ khánh dã) bà phạ đổ (đắc dã) phiến để yết
lam (tịch nễ dã) đát phạ nễ dã (nhữ kim nhật dã. Ngũ kệ).
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)補囉(宮城也)嚩𠼐(勝也)迦粃羅(古云迦毘羅)訶嚩曳遮(名也)儞吠(天也)麼訶(大也)怛麼毘(德也)哆嚩儞儞怛寫(敬禮者也)阿賜(亦如也)梛震底也(不思議也)但舍邏寫(善者)怛他蘗多寫(如來也)怛懵蘗藍(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇底羯藍(寂儞也)怛嚩儞也(汝今日也。五偈)
(Sớ:
Duệ mộng nghiệt lam (như sự mừng rỡ ấy) bổ ra (cung thành) phạ lê (thù thắng)
Ca Bỉ La (xưa kia nói là Ca Tỳ La), ha phạ duệ giá (danh) nễ phệ (trời) ma ha
(lớn) đát ma tỳ (đức) đá phạ nễ nễ đát tả (kính lễ), a tứ (cũng như thế) na
chấn để dã (chẳng nghĩ bàn), đản xá la tả (thiện), đát tha nghiệt đa tả (Như
Lai) đát mộng nghiệt lam (sự vui mừng ấy), bà phạ đổ (đạt được) phiến để yết
lam (tịch nễ) đát phạ nễ dã (ngươi ngày nay, bài kệ thứ năm).
(Sớ) Duệ
mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) chỉ sa la du (hoa chi điều dã) nhập phạ la
(quang dã) bổ sáp ba (hoa dã) na đề (nghiêm sức dã) lam mê giá (duyệt lạc dã)
lâm mị ni (viên danh) phạ ninh (viên dã) ma hộ (vô lượng dã) nê phạ (thiên dã)
nhũ sắt sái (sở cư dã) nẵng tha tả (đạo sư dã) nhiên mãng nễ (đản sanh dã) phạ
bộ phạ (thời dã) bà phạ đa ca tả (hữu tận giả), đát mộng nghiệt lam (bỉ khánh
dã) bà phạ đô (đắc dã) phiến để ca lam đát phạ nễ dã (nhữ kim nhật dã. Lục kệ).
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)枳娑攞瑜(花枝條也)入嚩攞(光也)補澁波(花也)梛提(嚴飾也)藍迷遮(悅樂也)啉弭尼(園名)嚩寧(園也)麼護(無量也)泥嚩(天也)乳瑟𪘜(所居也)曩他寫(導師也)然莽儞(誕生也)嚩部嚩(時也)婆嚩多迦寫(有盡者)怛懵蘗藍(彼慶也)婆嚩都(得也)扇𫪭迦藍怛嚩儞也(汝今日也。六偈)
(Sớ: Duệ
mộng nghiệt lam (như sự vui mừng ấy) chỉ sa la du (cành nhánh hoa) nhập phạ la
(ánh sáng) bổ sáp ba (hoa) na đề (trang hoàng đẹp đẽ), lam mê giá (vui sướng)
lâm mị ni (tên vườn) phạ ninh (vườn) ma hộ (vô lượng) nê phạ (trời) nhũ sắt sái
(cư trú) nẵng tha tả (đạo sư) nhiên mãng nễ (hạ sanh) phạ bộ phạ (thời) bà phạ
đa ca tả (có cùng tận), đát mộng nghiệt lam (sự vui mừng ấy) bà phạ đô (đạt
được) phiến để ca lam đát phạ nễ dã (ngươi ngày nay, bài kệ thứ sáu).
(Sớ)
Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) vĩ vĩ đà (chủng chủng dã) nậu khư (khổ
dã) nang thiết nẵng da (trừ diệt dã) đổ sắt thất dã (hỷ duyệt dã) đát bố phạ
nẵng (khổ hạnh xứ dã) mãng tỵ (thú dã) một la nhã đổ (vãng dã) lại đà ra đát lê
(trung dạ dã) a tứ (diệc như dã) tố lại (thiên chúng dã) bá rị vật lật đát tả
(vi nhiễu giả) nạp mãng (lễ dã) tắc cật lật đát tả (tác giả) đát mộng bệ lam (bỉ
khánh dã) bà phạ đổ (đắc dã) phiến để ca lam (tịch tác dã) đát phạ nễ dã (nhữ
kim nhật dã. Thất kệ)
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)。尾尾馱(種種也)䅶佉(苦也)囊設曩耶(除滅也)賭瑟室也(喜悅也)怛布嚩曩(苦行處也)莽避(趣也)。沒囉若覩(往也)𡃤馱囉怛𠼐(中夜也)阿賜(亦如也)素𡃤(天眾也)播唎勿栗怛寫(圍遶者)納莽(禮也)塞吃栗怛寫(作者)怛懵𧂸藍(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇𫪭迦藍(寂作也)怛嚩儞也(汝今日也。七偈)
(Sớ:
Duệ mộng nghiệt lam (như sự mừng rỡ ấy) vĩ vĩ đà (các loại) nậu khư (khổ) nang
thiết nẵng da (trừ diệt) đổ sắt thất dã (mừng vui) đát bố phạ nẵng (chỗ khổ hạnh)
mãng tỵ (tiến đến) một la nhã đổ (đi qua), lại đà ra đát lê (nửa đêm) a tứ
(cũng như thế) tố lại (các vị trời), bá rị vật lật đát tả (vây quanh) nạp mãng
(lễ bái) tắc cật lật đát tả (người làm) đát mộng bệ lam (sự vui mừng ấy) bà phạ
đổ (đạt được) phiến để ca lam (tạo sự vắng lặng) đát phạ nễ dã (ngươi ngày nay.
Bài kệ thứ bảy).
(Sớ)
Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) bộ nhã già (long dã) ra xà (vương dã) nạp
mãng tắc cật lật đát tả (tác lễ giả) nại nễ dạ (hà dã) tát đá sái (ngạn dã) bát
lý vật lật đát tả (vi nhiễu giả) hệ giả sái bán để dã (điểu hàng liệt dã) phiến
để lật tha (tịch nghĩa dã) mãng nại bộ đan (kỳ dã) mãng bộ (đắc dã) ốt bà phạ
(hữu dã) tô nại nẵng tả (đoạn trừ giả dã) đát mộng nghiệt lam (bỉ khánh dã) bà
phạ đổ (đắc dã) phiến để ca lam (tịch tác dã) đát phạ nễ dã (kim nhật dã. Bát
kệ).
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)部若伽(龍也)囉闍(王也)納莽塞吃栗怛寫(作禮者)捺儞夜(河也)薩跢𮭮(岸也)鉢履勿栗怛寫(圍遶者)係者灑半𫪭也(鳥行列也)扇𫪭栗他(寂義也)莽捺部單(奇也)莽部(得也)嗢婆嚩(有也)蘇捺曩寫(斷除者也)怛懵蘗藍(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇𫪭迦藍(寂作也)怛嚩儞也(今日也。八偈)
(Sớ:
Duệ mộng nghiệt lam (như sự vui mừng ấy) bộ nhã già (rồng) ra xà (vua) nạp mãng
tắc cật lật đát tả (làm lễ) nại nễ dạ (sông) tát đá sái (bờ) bát lý vật lật đát
tả (vây quanh) hệ giả sái bán để dã (chim sắp thành hàng) phiến để lật tha (ý
nghĩa tịch tĩnh) mãng nại bộ đan (lạ lùng) mãng bộ (đạt được) ốt bà phạ (có) tô
nại nẵng tả (đoạn trừ) đát mộng nghiệt lam (sự mừng vui ấy) bà phạ đổ (đạt
được) phiến để ca lam (tạo sự tịch tĩnh) đát phạ nễ dã (ngày hôm nay, kệ thứ
tám).
(Sớ)
Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) bạc già phạt đổ (Thế Tôn dã) tốt rô mãng
(thụ dã) ra xà (vương dã) mộ lê (căn hạ dã) muội để rị (từ tâm dã) mạt lệ nẵng
(lực dã) vi nhĩ đế (hàng phục bỉ dã) mạc hồ (vô lượng dã) mang ra (ma dã) bác
cật sô (đảng dã) nang nang (chủng chủng dã) bát ra ca ra (dị loại dã) mãng bà
phạ (hữu dã) na bộ vĩ (biến nhân gian dã) chiêm mạt lệ giả (chí thiên dã), đát
mộng nghiệt lam (bỉ khánh dã) bà phạ đổ (đắc dã) phiến để ca lam (tịch tác dã)
đát phạ nễ dã (nhữ kim nhật dã, cửu kệ).
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)薄伽伐覩(世尊也)。窣嚕莽(樹也)囉闍(王也)慕𠼐(根下也)昧底唎(慈心也)沫麗曩(力也)微爾帝(降伏彼也)莫胡(無量也)忙囉(魔也)博吃蒭(黨也)囊囊(種種也)。鉢囉迦羅(異類也)莽婆嚩(有也)娜部尾(遍人間也)瞻沫麗者(至天也)怛懵蘗藍(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇底迦藍(寂作也)怛嚩儞也(汝今日也。九偈)
(Sớ:
Duệ mộng nghiệt lam (như sự vui mừng ấy) bạc già phạt đổ (Thế Tôn), tốt rô mãng
(cây cối) ra xà (vua) mộ lê (bén rễ) muội để rị (từ tâm) mạt lệ nẵng (lực) vi
nhĩ đế (hàng phục kẻ đó) mạc hồ (vô lượng) mang ra (thiên ma) bác cật sô (bè
lũ) nang nang (các thứ) bát ra ca ra (dị loại) mãng bà phạ (có) na bộ vĩ (khắp
nhân gian) chiêm mạt lệ giả (tới trời), đát mộng nghiệt lam (sự vui mừng ấy),
bà phạ đổ (đạt được) phiến để ca lam (tạo tịch tĩnh) đát phạ nễ dã (ngươi hôm
nay, kệ thứ chín).
(Sớ)
Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) bát ra phạ na đô phạ ra (thượng diệu dã)
đạt ra mãng (pháp dã) chước cật lệ (luân dã) phạ la nại tư (cổ viết Ba La Nại),
tất thể đa (trụ dã) phạ đa (ư dã) tô nghiệt đát tả (thiện thệ giả) xá tốt đổ
(đạo sư dã) hạt đế bộ đam (hy kỳ dã) bộ phí (nhân gian dã) phạ bộ (thời dã) bà
phạ đa ca tả (hữu tận giả), đát mộng nghiệt lạm (bỉ khánh dã) bà phạ đổ (đắc
dã) phiến để ca lam (tịch tác dã) đát phạ nễ dã (kim nhật dã, thập kệ)
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)鉢囉嚩娜都嚩囉(上妙也)達囉莽(法也)斫吃囇(輪也)嚩囉捺斯(古曰波羅奈)悉𭍑多(住也)嚩多(於也)蘇蘗怛寫(善逝者)舍窣覩(道師也)曷諦部儋(希奇也)部費(人間也)嚩簿(時也)婆嚩多迦寫(有盡者)怛懵蘗灆(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇𫪭迦藍(寂作也)怛嚩儞也(今日也。十偈)
(Sớ:
Duệ mộng nghiệt lam (như sự vui mừng ấy) bát ra phạ na đô phạ ra (thượng diệu)
đạt ra mãng (pháp) chước cật lệ (luân) phạ la nại tư (xưa kia nói là Ba La
Nại), tất thể đa (trụ) phạ đa (trong) tô nghiệt đát tả (đấng Thiện Thệ) xá tốt
đổ (đạo sư) hạt đế bộ đam (hiếm lạ) bộ phí (nhân gian) phạ bộ (thời) bà phạ đa
ca tả (có cùng tận), đát mộng nghiệt lạm (sự vui mừng ấy) bà phạ đổ (đạt được)
phiến để ca lam (tạo tịch tĩnh) đát phạ nễ dã (ngày nay, kệ thứ mười)
(Sớ)
Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) hệ đa yết lam (tác lợi ích dã) bát ra môn
(đệ nhất dã) bả vĩ đát lạm (cát nghĩa dã) bổn nật dã (phước dã) cật rị da (lợi
dã) ca la nĩnh (nhiêu ích dã) mang rị dã (thánh dã) nhã nang (chúng dã) tỳ nhũ
sắt (xưng tán dã) cật lật tha nẵng (biến dã) nhã già na (thuyết dã) bạc già
phạm (Thế Tôn dã) mâu ni thước cật dã tăng ha (sư tử dã) đát mộng nghiệt lam
(bỉ khánh dã) bà phạ đổ (đắc dã) phiến để ca lam (tịch tác dã) đát phạ nễ dã
(nhữ kim nhật dã. Thập nhất kệ)
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)係多羯藍(作利益也)鉢囉門(第一也)跛尾怛灆(吉義也)本昵也(福也)吃唎耶(利也)迦羅儜(饒益也)忙哩也(聖也)若囊(眾也)毘乳瑟(稱讚也)吃栗瑳曩(遍也)若伽娜(說也)薄伽梵(世尊也)牟尼鑠吃也僧訶(師子也)怛懵蘗藍(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇𫪭迦藍(寂作也)怛嚩儞也(汝今日也。十一偈)
(Sớ:
Duệ mộng nghiệt lam (như sự vui mừng ấy) hệ đa yết lam (tạo lợi ích) bát ra môn
(đệ nhất) bả vĩ đát lạm (ý nghĩa tốt lành) bổn nật dã (phước) cật rị da (lợi)
ca ra nĩnh (lợi ích) mang rị dã (thánh) nhã nang (chúng) tỳ nhũ sắt (khen
ngợi), cật lật tha nẵng (trọn khắp) nhã già na (nói) bạc già phạm (Thế Tôn) mâu
ni thước cật dã tăng ha (sư tử) đát mộng nghiệt lam (sự vui mừng ấy) bà phạ đổ
(đạt được) phiến để ca lam (tạo tác tịch tĩnh) đát phạ nễ dã (ông ngày nay. Kệ
thứ mười một).
[Dưới
đây là các bài kệ dịch nghĩa của các bài kệ bằng tiếng Phạn trên đây]:
(Sớ)
Trì cát tường chúng đức, cụ tướng kim sơn quang, tam thế chi đạo sư, trừ diệt ư
tam cấu, khai phu chánh giác nhãn, do như thủy sanh diệp. Thị nhiêu ích chúng
sanh, tối sơ chi thiện khánh.
(疏)持吉祥眾德,具相金山光,三世之導師,除滅於三垢,開敷正覺眼,猶如水生葉,是饒益眾生,最初之善慶。
(Sớ:
Giữ các đức cát tường, núi vàng đủ tướng sáng, đạo sư của ba đời, trừ diệt hết
tam cấu, nở bừng mắt Chánh Giác, ví như cánh hoa sen. Điều thiện khánh tối sơ,
nhằm lợi ích chúng sanh).
Trong
bài kệ trên đây, trước hết nêu ra nguyên do vì sao hết thảy các điều cát khánh
(vui mừng tốt lành) sanh khởi: Đều do Như Lai xuất thế. Vì thế, tiếng Phạn nói
là Lạc-cật-sáp-mị (Lakṣmī), dịch nghĩa là
Cát Tường Tướng, hoặc dịch là Cụ Tướng (tướng trọn đủ), cũng mang ý nghĩa “điều
mừng vui tốt đẹp, cát tường, cát khánh, sự ủy dụ đẹp đẽ, oai đức, tướng mạo tốt
đẹp”. Hãy nên biết danh xưng này thâu nhiếp hết thảy công đức, vì thế nói theo
cách hội ý. “Khai phu” (nở bừng) trong câu kế đó cũng có nghĩa
là “giác ngộ”. “Thủy sanh” là tên khác của hoa
sen. Do có các nghĩa như vậy, Như Lai xuất thế tạo nhiều lợi ích, cho nên nói
là “tối sơ thiện khánh”, hoặc nói “cát khánh”, hoặc
nói “gia khánh”, đại thể đều tương đồng!
(Sớ)
Cập bỉ sở tuyên thuyết, đệ nhất vô động pháp, khai thị ư tam giới, nhân thiên
ưng cúng dường. Thù thắng pháp năng linh, chư chúng sanh vĩnh tịch, thị tắc vi
thế gian, đệ nhị chi thiện khánh.
(疏)及彼所宣說,第一無動法,開示於三界,人天應供養。殊勝法能令,諸眾生永寂,是則為世間,第二之善慶。
(Sớ:
Và Ngài đã tuyên nói, pháp bất động bậc nhất, khai thị cho tam giới, trời,
người nên cúng dường. Pháp thù thắng khiến cho, chúng sanh vĩnh viễn tịch. Nên
là điều thiện khánh, thứ hai trong thế gian).
Bài
kệ trên đây nói hết thảy những điều đức Thế Tôn đã nói đều là rốt ráo đệ nhất
Thật Tế, vì thế nói là “pháp vô động”. Chữ Khế Đa trong tiếng Phạn
có nghĩa là “tuyên thuyết”, cũng có nghĩa là “khai
thị”. Trong tam giới này, trong nguyên bản tiếng Phạn là “tam
thế”, ngụ ý xuyên suốt ba cõi trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Do có
thể dạy trọn khắp thế gian Đệ Nhất Thật Tế, hết thảy trời người đều nên cúng
dường pháp này nhằm báo đại ân. Chữ Phiến Để Yết La (Śāntikara) trong
tiếng Phạn dịch nghĩa là Tác Tịch. Tác là có thể làm, tức là có thể khiến cho
đạt được. Pháp này có thể khiến cho chúng sanh ngộ hết thảy các pháp bản tánh
thường tịch, các chướng trong và ngoài rốt ráo chẳng sanh. Vì thế nói là “vĩnh
tịch”. Các bài kệ sau đều xét theo ý nghĩa này. Do Như Lai xuất thế
bèn có thể tuyên nói pháp này; vì thế nói là “điều thiện thứ hai”.
(Sớ)
Chánh diệu pháp tương ứng, hoạch đắc đa văn khánh, nhân, thiên, Tu La đẳng, ưng
cúng phước điền tăng. Phú cát tường, tàm quý, công đức thù thắng chúng, thị tắc
vi thế gian, đệ tam chi thiện khánh.
(疏)正妙法相應,獲得多聞慶,人天修羅等,應供福田僧。富吉祥慚愧,功德殊勝眾,是則為世間,第三之善慶。
(Sớ:
Chánh diệu pháp tương ứng, đạt niềm vui đa văn, trời, người, Tu La thảy, nên
cúng phước điền tăng, lắm công đức thù thắng, nhiều cát tường, hổ thẹn. Đấy là
điều khánh thiện, thứ ba trong thế gian).
Trong
bài kệ trên đây, Tát Đạt Lạt Ma (Sadharma) trong tiếng Phạn được dịch là Chánh
Pháp, hoặc Diệu Pháp, vì cho đủ số chữ nên ghi cả hai ý. Trong ấy, Tương Ứng là
Dục Cật Đa, có nghĩa là “nên kết hợp như thế”, tức là “khế hợp, ngầm phù hợp”,
hơi khác với Du Già. Câu kế đó, [ý nói] do được nghe nhiều pháp hạnh này, bèn
khế hợp lý. Đó là niềm mừng rỡ to lớn, nên nói là “đa văn khánh” (vui
mừng vì được nghe nhiều). Nếu xét theo cách dịch chính xác, phải
nên nói là “phú văn”, nay thuận theo cách dịch cổ. Lại nữa, danh từ
Ưng Cúng ở đây khác với A La Ha. Ưng Cúng ở đây có nghĩa là “các hàng
trời, người vì cầu phước nên cúng dường”. Bài kệ thứ hai nói Phú, có ý
nghĩa tương đồng với “phú văn” trong bài trước, cũng có nghĩa
là “đầy đủ, chẳng thiếu khuyết”. Dồi dào cát tường, tràn trề
hổ thẹn, công đức phong phú. Chữ Chúng trong câu cuối chỉ có nghĩa là nhiều,
khác với từ ngữ Tăng Già trong tiếng Phạn, vì Tăng Già còn có ý nghĩa “hòa
hợp”. Do chánh pháp tạng xuất hiện trong cõi đời, sẽ có người tu hành
đạt đến cái quả. Vì thế nói là điều thiện khánh thứ ba.
(Sớ)
Như tại Đâu Suất Đà, thiên cung tàng thời khánh, cập dữ tùng thiên giáng, lợi
ích chư quần sanh, Đế Thích thiên thần chúng, dực tùng Như Khứ giả, nhữ kim đắc
đồng bỉ, tác tịch chi gia khánh.
(疏)如在兜率陀,天宮藏時慶,及與從天降,利益諸群生。帝釋天神眾,翊從如去者,汝今得同彼,作寂之嘉慶。
(Sớ:
Như tại Đâu Suất Đà, lúc ẩn trong cung trời, và từ trời giáng xuống, lợi ích
các quần sanh. Đế Thích, các thiên thần, chầu hầu đấng Như Khứ, ngươi nay được
giống vậy, mừng rỡ tạo tịch tĩnh).
Trong
bài kệ trên đây, chữ Tạng âm tiếng Phạn là Nghiệt Lạt Bà (Garbha), chính là tâm
tạng, hoặc chữ Tạng trong Trung Thai Tạng, có ý nghĩa khác với Tỷ Trá Ca Câu Xá
(Piakakośa) v.v… Như Bồ Tát lúc ở
cung trời và lúc giáng sanh, trong các thế gian có vô lượng vô biên điều tốt
lành, vui mừng như đã được nói cặn kẽ trong các kinh như Hoa Nghiêm v.v… Tu La
(Sura, được phiên âm thành Tốt Lại trong phần phiên âm tiếng Phạn của bài kệ
này) tức là các thiên chúng. Vì muốn phân biệt với chư thiên, nên nói là A Tu
La (Phi Thiên). Các bộ luận như Lập Thế v.v… dịch từ ngữ này (A Tu La) thành
Phi Thiên. Lại nữa, Đát Tha Yết Đa (Tathāgata),
dịch là Như Lai, còn dịch là Như Khứ, hàm ý: Do đạo như thật mà đạt tới Niết
Bàn, chẳng còn sanh nữa, nên gọi như thế, dùng để giải thích ý nghĩa từ cõi
trời giáng sanh rất thuận tiện, cho nên dùng xen lẫn. Nếu cõi trời Đâu Suất có
bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát thì Phật chủng trong thế gian chẳng đoạn. Nếu ai thọ
địa vị Quán Đảnh trong bí mật tạng, cho đến trong một đời, có thể thành Chánh
Giác. Vì thế nói là “đồng bỉ khánh” (cùng một niềm vui mừng
ấy).
(Sớ)
Như tại Ca Tỳ La, thắng cung thành khánh thời, chư đại oai đức thiên, xưng thán
nhi tác lễ. Do nhược bất tư nghị, như thật thiện lai giả, nhữ kim đắc đồng bỉ,
tác tịch chi gia khánh.
(疏)如在迦毘羅,勝宮城慶時,諸大威德天,稱歎而作禮。猶若不思議,如實善來者,汝今得同彼,作寂之嘉慶。
(Sớ:
Như tại Ca Tỳ La, lúc ngự cung thù thắng, các trời oai đức lớn, khen ngợi và
làm lễ. Chẳng nghĩ bàn dường ấy, bậc khéo đến như thật. Ngươi nay được giống
thế, mừng vui tạo tịch tĩnh).
“Như
bỉ khánh” (như sự vui mừng ấy) trong bản tiếng Phạn hàm nghĩa “thời”, các
đoạn sau đều phỏng theo ý này. Đấy là Bồ Tát khi ở trong thai, hết thảy thế
gian có vô lượng chuyện cát khánh, cũng như các phẩm Nhập Pháp Giới và Ly Thế
Gian của kinh Hoa Nghiêm đã nói cặn kẽ. Cho đến mười phương vô lượng các đại Bồ
Tát đều cùng tụ tập trong bụng [của Phật mẫu] vì để nghe pháp. Do vậy, chẳng
thể nghĩ bàn! Đối với ý nghĩa Như Khứ trong bài kệ trước đó, nay dùng “đến
thành Chánh Giác” để giải thích ý nghĩa, cũng là do thuận tiện xét
theo ý nghĩa. Như Bồ Tát tuy ở trong thai, mà hết thảy chư thiên có oai đức
lớn, không vị nào chẳng ca ngợi, làm lễ. Ngươi nay cũng ở trong thai tạng của
Hư Không Nhãn Phật Mẫu mà nương gởi thánh thai. Do vậy, bát bộ long thần đều
cùng tôn kính, do vậy nói là “đắc đồng bỉ khánh” (cùng đạt
được niềm vui mừng giống như vậy).
(Sớ)
Như tại hoa viên khánh, quang hoa biến nghiêm sức, duyệt lạc Lâm Vi Ni, vô
lượng thiên chúng cư. Đạo sư sơ đản sanh, hữu tận hậu biên thân, nhữ kim đắc
đồng bỉ, tác tịch chi gia khánh.
(疏)如在華園慶,光花遍嚴飾,悅樂林微尼,無量天眾居。道師初誕生,有盡後邊身,汝今得同彼,作寂之嘉慶。
(Sớ:
Như mừng tại vườn hoa, hoa quang trang hoàng khắp, vui sướng Lâm Vi Ni, vô
lượng chúng trời ngự. Đạo sư mới đản sanh, đã hết thân hậu hữu, ngươi nay được
giống Ngài, mừng vui tác tịch tĩnh).
Chỉ
Sa La Du trong tiếng Phạn có nghĩa là nhánh cây có hoa trong rừng cây. Kế đó
nói Bổ Sáp Ba (Puṣpa) là nói trực
tiếp cái Thể của hoa. Như tràng hoa, tán hoa v.v… đều dùng danh từ này. Vì thế,
câu trước đó dùng vườn hoa để phân biệt cho rõ. Bồ Tát lúc mới đản sanh, trong
thế gian cũng có vô lượng điều vui mừng ứng hiện cát tường, tốt lành, cho đến
vô lượng chư thiên do cúng dường mà vân tập tại vườn Lâm Vi Ni (Lumbinī, Lâm Tỳ Ni). Lại có vô lượng chẳng
thể nghĩ bàn giải thoát Bồ Tát cũng như mây dầy phủ trăng đồng thời xuất sanh.
Ngươi nay cũng vừa mới được đản sanh trong bí mật tạng, hết thảy các quyến
thuộc trong pháp môn đều đã chớm nẩy. Nếu có thể dũng mãnh, tinh tấn tu hành,
cũng sẽ là thân sanh tử cuối cùng. Vì thế nói là “đắc đồng bỉ khánh” (cùng
đạt được niềm vui mừng đó).
(Sớ)
Như diệt trừ tại gia, chủng chủng khổ thời khánh, trung dạ tâm hoan hỷ, vãng
nghệ khổ hạnh xứ. Diệc như chư thiên chúng, kính lễ vi nhiễu giả, nhữ kim đắc
đồng bỉ, tác tịch chi hỷ khánh.
(疏)如滅除在家,種種苦時慶,中夜心歡喜,往詣苦行處。亦如諸天眾,敬禮圍遶者,汝今得同彼,作寂之喜慶。
(Sớ:
Như lúc vui diệt trừ, các nỗi khổ tại gia, nửa đêm tâm hoan hỷ, đi tới chỗ khổ
hạnh. Cũng như các chúng trời, kính lễ và vây quanh, ngươi nay được giống vậy,
niềm mừng vui tác tịch).
Đây
là Bồ Tát khi mới xuất gia, bản tiếng Phạn chỉ nói “diệt trừ các nỗi
khổ” tức là đã bao gồm ý nghĩa tại gia, đó gọi là “lìa bỏ các
nỗi khổ vì ân ái trói buộc”. Đối với từ ngữ tiếng Phạn của “khổ
hạnh xứ”, dịch sát nghĩa thì phải là “tu thân xứ”. Như
khi Bồ Tát mới bắt đầu vượt thành, đi tới chỗ tu thân, hết thảy thế gian có vô
lượng vô biên chuyện cát khánh, cũng như các kinh Hoa Nghiêm v.v… đã nói rộng.
Lúc bấy giờ, thiên chúng cõi trời Tịnh Cư cho đến các vị hộ thế đều hết sức
hoan hỷ, biết là chẳng lâu sau hoa Ưu Đàm Chánh Biến Giác sẽ nở tung, thảy đều
đảnh lễ, vây quanh, hoặc đích thân nâng chân ngựa đưa đi. Ngươi nay cũng ở
trong tạng bí mật, vừa mới giã biệt cha mẹ vô minh, đi tới chỗ tu thân sơ pháp
minh đạo. Hãy nên biết Tịnh Cư thiên chúng v.v… cũng đều hoan hỷ kính lễ, biết
là không lâu sau sẽ giống như đức Thế Tôn. Vì thế nói là “đắc như bỉ
khánh”.
(Sớ)
Hựu như bỉ long vương, cung kính lễ thời khánh, hà tân chúng phi điểu, hoàn
nhiễu nhi hàng liệt, đãi hy hữu tịch nghĩa, tương tồi chư hữu giả, nhữ kim đắc
đồng bỉ, tác tịch chi gia khánh.
(疏)又如彼龍王,恭敬禮時慶,河濱眾飛鳥,環遶而行列。逮希有寂義,將摧諸有者,汝今得同彼,作寂之嘉慶。
(Sớ:
Lại như khi vua rồng, vui mừng cung kính lễ, các chim bay bến sông, vây quanh
xếp thành hàng, do tịch nghĩa hiếm có, sẽ dẹp tan các cõi, ngươi nay được giống
vậy, mừng tạo nghĩa tịch tĩnh).
Lúc
ấy, Bồ Tát đã thấu đạt tận nguồn cội khổ hạnh chẳng có nghĩa lợi, tiếp nhận
cháo sữa do cô gái chăn bò [dâng cúng]. Tắm gội trong sông, tướng hảo viên mãn.
Lúc bấy giờ, gần bên đường đi của Phật có điềm lành là vô lượng chim thanh tước
như trong kinh Bổn Hạnh đã rộng nói. Loại chim ấy có tên chánh xác là Táng Sa,
giống thanh tước nhưng bé hơn, ở bên đó (Ấn Độ), thường gọi nó là Tiên Nhân
Điểu. Bồ Tát tắm gội xong, tâm tư duy các pháp vốn vắng lặng, thấy rõ
con đường đại Bồ Đề, sanh tâm hiếm lạ, tự biết ắt có thể dùng thế lực to
lớn để phá nát các cõi. Ngay khi đó, lại có vô lượng vô biên chuyện cát khánh
xuất hiện trong thế gian. Ngươi nay cũng ở trong bí mật tạng, vứt bỏ nỗi khổ do
đủ thứ mệt thân nhọc trí chẳng có nghĩa lợi của chín mươi lăm thứ ngoại đạo,
uống cháo sữa chữ A một vị, tăng thêm sắc lực của thọ mạng thường hằng, dùng
pháp thủy thanh tịnh rưới gội thân này, hiểu rõ tâm vương đại đạo, sẽ đến chỗ
“ngồi đạo tràng” của đức Tỳ Lô Giá Na. Vì thế nói là “đắc đồng bỉ
khánh”.
(Sớ)
Do như Bà Già Bà, thụ vương hạ thời khánh, dĩ từ tâm lực cố, phá vô lượng ma
quân. Chủng chủng tùy loại hình, biến thiên nhân thế gian, nhữ kim đắc đồng bỉ,
tác tịch chi gia khánh.
(疏)猶如婆伽婆,樹王下時慶,以慈心力故,破無量魔軍。種種隨類形,遍天人世間,汝今得同彼,作寂之嘉慶。
(Sớ:
Ví như Bà Già Bà, mừng lúc ngồi dưới cây, do sức của từ tâm, phá vô lượng ma
quân. Tùy loại các thứ hình, trọn thế gian trời, người. Ngươi nay được giống
vậy, vui mừng tạo tịch tĩnh).
Khi
đức Thế Tôn ngồi dưới cây đạo tràng (cây Bồ Đề), hàng phục thiên ma, thành
Chánh Giác, hết thảy thế gian và xuất thế gian đều có đủ loại vui mừng đẹp đẽ,
như cây chúa trên cõi trời là Thượng Xuân Nguyệt trổ hoa chi chít. Tất cả các
mong mỏi khi hành Bồ Tát đạo đã được như ý, liền hiện trọn khắp sắc thân, trọn
khắp thế giới, khai hóa chúng sanh. Lại nữa, “ma quân” được
nói ở đây, chánh âm trong tiếng Phạn là Bác Cật Sô (Pakṣa), có nghĩa là “bè đảng phe cánh”, nay dựa theo cách dịch
hội ý theo lối cổ. Ngươi nay đã phát Bồ Đề tâm, hãy nên biết đã được an tọa
dưới cội giác Sa La thụ vương của đức Phật, dùng thần lực gia trì của Như Lai
hàng phục trọn khắp ma quân. Nếu từ nay trở đi, kiên cố bất động, cho tới khi
thấy tâm hiểu đạo, tức là từ sơ phát tâm liền thành Chánh Giác, dùng Trừ Cái
Chướng tam-muội để hiện trọn khắp thân Mạn-đồ-la. Vì thế nói là “đắc
đồng bỉ khánh”.
(Sớ)
Như Thiện Thệ đạo sư, trụ ư Ba La Nại, sơ chuyển tối vô thượng, pháp luân gia
khánh thời, kỳ đặc vị tằng hữu, thế gian thời phần tận. Nhữ kim đắc đồng bỉ,
tác tịch chi gia khánh.
(疏)如善逝導師,住於波羅奈,初轉最無上,法輪嘉慶時,奇特未曾有,世間時分盡,汝今得同彼,作寂之嘉慶。
(Sớ:
Như Thiện Thệ đạo sư, trụ tại Ba La Nại, lúc mới chuyển pháp luân, vô thượng
tốt đẹp nhất, hiếm lạ, chưa từng có, thời phần thế gian hết. Ngươi nay được
giống vậy, mừng vui tạo tịch tĩnh).
Đức
Thế Tôn do mười nghĩa mà chuyển chánh pháp luân, như kinh Hoa Nghiêm v.v… đã
rộng nói. Chữ Bát Ra Phạ Na Đổ Phạ Ra (Pravanatuvara) trong
tiếng Phạn nghĩa là “thượng diệu, thù thắng, bậc nhất trong thế gian, không gì
hơn được”, cho nên nói là “tối vô thượng”. Lại nữa, những điều
đức Thế Tôn đã nói đều vì đại sự nhân duyên, nên nói là “tối vô
thượng”. Hết thảy thế gian trước nay chưa từng nghe, mà cũng chẳng thể
chuyển, nên nói là “kỳ đặc” (lạ lùng, đặc biệt). “Chưa từng
có” được ghi trong bản tiếng Phạn là “kỳ hy”, nay dịch thành
[“chưa từng có”] là dịch theo ý. Tự độ các cõi, cũng khiến cho vô lượng chúng
sanh trụ nơi thân tối hậu, cho đến cũng khiến cho ý niệm nẩy sanh thô trọng
vĩnh viễn diệt mất. Nay ngươi cũng thế, trong đời này cho tới khi đắc Trừ Cái
Chướng tam-muội và Ngữ Ngôn Đà La Ni, khởi thần thông tự tại, cũng sẽ có thể
chuyển pháp luân giống như đức Tỳ Lô Giá Na, nên nói là “đắc đồng bỉ
khánh”.
(Sớ)
Như bỉ vi lợi ích, đệ nhất cát nghĩa khánh, phước lợi sở nhiêu ích, xưng tán
chư thánh chúng, biến thuyết cụ đức tôn, Mâu Ni Thích sư tử, nhữ kim đắc đồng
bỉ, tác tịch chi gia khánh.
(疏)如彼為利益,第一吉義慶,福利所饒益,稱讚諸聖眾。遍說具德尊,牟尼釋師子,汝今得同彼,作寂之嘉慶。
(Sớ:
Như vì lợi ích đó, nghĩa cát khánh bậc nhất, phước lợi tạo lợi ích, ca ngợi các
vị thánh, nói trọn đấng đủ đức, Mâu Ni Thích sư tử. Ngươi nay được giống Ngài,
vui mừng tạo tịch tĩnh).
Bản
tiếng Phạn ghi là Hệ Đa (Hita), dịch nghĩa là “lợi ích”. Kế đó
nói Cật Rị Da (Kriyā), phương này dịch là
Lợi. Ca Ra Nĩnh (Karaṇi) dịch
là “nhiêu ích” (tạo lợi ích). Vốn là các danh từ khác biệt,
nhưng người truyền thừa chẳng phân biệt. Ví như nói Sơ Tai (初哉), Thủ
Cơ (首基), Triệu Tổ (肇祖),
Thỉ Thai (元胎), tuy đều [là các danh
từ] quy vào vị thỉ tổ, nhưng có đôi chút sai khác. “Lợi ích” trong
câu đầu tiên cũng có nghĩa là “khiến cho đạt được lợi ích”, nhằm kết lại phần
kệ tán thán Phật. “Đệ nhất cát nghĩa” trong câu kế tiếp nhằm
kết lại phần kệ tán thán Pháp. Hai câu kế đó nói về cái quả thù thắng được
thành tựu bởi sự tu hành, cúng dường, nhằm tổng kết phần kệ tán thán Tăng. Hai
câu kế đó tổng kết bảy bài kệ nói về bổn hạnh của đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Nói
tóm lại, hết thảy các công đức như thế đó, nay ngươi đã đạt được trọn vẹn. Lúc
đức Thế Tôn nhập Niết Bàn và thành Chánh Giác chẳng hai, chẳng khác, nhưng nếu
xét theo Thế Đế thì nói “ba cõi trống rỗng, phước của chúng sanh đã
hết”. Vì thế, ẩn đi chẳng nói. Nhưng ở đây, kết lại Tam Bảo và bổn
hạnh của Như Lai, tức là ý nghĩa Đại Niết Bàn. Mười một bài kệ này trọn đủ vô
lượng nghĩa, sẽ được rộng nói phân biệt trong các Tu Đa La. Do sợ trở ngại cho
phần nói về ý nghĩa của Mạn-đồ-la, nên tôi chỉ nêu lời giải thích đại lược đó
thôi!
* Kim trù kệ (kệ đũa vàng - bản tiếng Phạn)
(Sớ)
A nhưỡng nẵng (vô trí dã) bát trá lam (mạc dã) phạ tha (Phật tử dã) a bả nễ
than (quyết trừ dã) nhĩ nãi (nhân giả dã) tát-đá phạ (vị nhữ dã) xá la chỉ
(thiện dụng trù dã) muội nễ-dã ra chiết tốt đô (y vương dã) duệ tha lộ yết tả
(như thế gian dã) muội bổ ra (do như dã).
(疏)阿壤曩(無智也)。鉢吒藍(膜也)。嚩瑳(佛子也)。阿跛儞嘽(決除也)爾乃(仁者也)薩哆嚩(為汝也)。舍邏枳(善用籌也)昧儞也囉折窣都(醫王也)。曳他路羯寫(如世間也)。昧補囉(猶如也)。
(Sớ:
A nhưỡng nẵng (vô trí) bát trá lam (màng mộng) phạ tha (Phật tử) a bả nễ than (trừ
bỏ) nhĩ nãi (nhân giả) tát-đá phạ (vì ngươi) xá la chỉ (khéo dùng đũa) muội
nễ-dã ra chiết tốt đô (y vương) duệ tha lộ yết tả (như thế gian) muội bổ ra
(giống như).
[Ý
nghĩa của bài kệ này là]: Phật tử! Đức Phật đã vì ngươi trừ bỏ màng mộng vô
trí, giống như bậc y vương trong thế gian khéo dùng đũa vàng. Cách trị bệnh mắt
ở phương Tây là dùng vàng làm đũa, hai đầu tròn trơn nhẵn, ở giữa nhỏ, giống
như cái chày, dài chừng bốn năm tấc. Khi dùng thì bôi thuốc lên hai đầu, dùng
mỗi đầu để bôi thuốc lên một mắt. “Kim bễ” (chiếc kim bằng
vàng để lột màng mộng trong mắt) được nói trong kinh Niết Bàn thuộc loại này.
Trong tâm mục của hết thảy chúng sanh vốn sẵn có tánh tri kiến của Phật, chỉ vì
màng mộng vô trí che lấp, Thật Tướng của các pháp chẳng thể hiện tiền rõ rệt.
Nếu để cho thầy thuốc vụng về chữa trị, không chỉ vô hiệu mà thôi, hoặc càng
tăng thêm màng mộng, hoặc thương tổn tròng mắt! Như Lai phương tiện trọn đủ,
khéo dùng đũa vàng, chẳng giống như thế! Như người thợ đất Dĩnh[16] vung búa, tận lực trừ cấu nhơ,
nhưng chẳng thương tổn chỗ chẳng thể bị thương! Nếu có chút nào sai sót, chênh
lệch mảy may, sẽ bị Đoạn Không che lấp, chẳng thành tri kiến vô ngại. Hơn nữa,
con mắt bị bệnh ấy thấy tánh của sắc, trong thế gian dù có bậc y vương hay
không, pháp vốn sẵn thành tựu như thế đó, chỉ gặp cơ hội được chữa trị thì sẽ
có thể sáng bừng, chẳng phải do công sức của thuốc và đũa vàng mới tạo thành
vậy! Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã có thí dụ về kẻ mù, trong ấy đã nói cặn
kẽ. Hết thảy chư Phật có đủ loại môn phương tiện, xét đến chỗ chỉ quy, thảy đều
là ý này!
* Minh kính kệ ( kệ gương sáng – bản tiếng
Phạn)
(Sớ)
Bát-ra để phạ (tượng dã) ma mãng da (hình dã) đạt ma (pháp dã) a xa (trừng dã)
thâu đà (thanh tịnh dã) a nang vĩ la (bất trược dã) a nghiệt-ra hệ da-nẵng (vô
chấp dã) tỳ la tất-dạ thất-giả (ly ngôn thuyết dã) hệ đô (nhân dã) yết ma
(nghiệp dã) tam mẫu ốt bà-phạ (phát khởi dã, nhất kệ). Ế văn (như thị dã)
nhưỡng đát-phạ (tri dã) y doãn man (thử dã) đạt ma (pháp dã) niết sa-phạ bà phạ
(vô tự tánh dã) nẵng nang vi lam (bất trược dã) củ rô (vi dã) tát đát phạ (hữu
tình dã) lạt tha (lợi dã) mãng đổ lam (vô tỷ dã) bột đà nẫm (chư Phật dã) nhã
đa (sanh dã) tất-đát-phạ (nhữ dã) mạo ra sa (tâm dã). Chư pháp vô hình tượng,
thanh trừng vô cấu trược, vô chấp ly ngôn thuyết, đản tùng nhân nghiệp khởi.
Như thị tri thử pháp, tự tánh vô nhiễm ô, vi thế vô tỷ lợi, nhữ tùng Phật tâm
sanh.
(疏)鉢囉底嚩(像也)麼莾耶(形也)。達摩(法也)阿車(澄也)。輸駄(清淨也)阿囊尾羅(不濁也)阿蘗囉係耶曩(無執也)。毘邏必夜室者(離言說也)係都(因也)羯麼(業也)。三母嗢婆嚩(發起也。一偈)。翳文(如是也)壤怛嚩(知也)伊𭾥瞞(此也)達麼(法也)。涅娑嚩婆嚩(無自性也)曩囊微藍(不濁也)。矩嚕(為也)薩怛嚩(有情也)。喇他(利也)莽賭藍(無比也)。勃駄喃(諸佛也)若多(生也)。悉怛嚩(汝也)冒囉娑(心也)。諸法無形像,清澄無垢濁,無執離言說,但從因業起,如是知此法,自性無染污,為世無比利,汝從佛心生。
(Sớ:
Bát-ra để phạ (hình tượng) ma mãng da (hình) đạt ma (pháp) a xa (lắng trong)
thâu đà (thanh tịnh) a nang vĩ la (bất trược) a nghiệt-ra hệ-da nẵng (vô chấp)
tỳ la tất-dạ thất-giả (lìa ngôn thuyết) hệ đô (cái nhân) yết ma (nghiệp) tam
mẫu ốt-bà phạ (phát khởi, kệ thứ nhất). Ế văn (như thị) nhưỡng đát-phạ (biết) y
doãn man (cái này) đạt ma (pháp) niết sa-phạ bà phạ (vô tự tánh) nẵng nang vi
lam (chẳng đục) củ rô (làm) tát đát phạ (hữu tình) lạt tha (lợi) mãng đổ lam
(khôn sánh) bột đà nẫm (chư Phật) nhã đa (sanh) tất-đát-phạ (ngươi) mạo ra sa
(tâm). [Dịch nghĩa]: Các pháp không hình tượng, lắng trong, không cấu trược,
chẳng chấp, lìa ngôn thuyết, chỉ do nghiệp nhân khởi. Biết pháp này như thế, tự
tánh chẳng nhuốm bẩn, lợi khôn sánh trong đời, ngươi sanh từ tâm Phật).
Câu
đầu tiên trong bản tiếng Phạn chỉ nói “hình tượng”, nhưng mạch văn liên quan
“vô tướng pháp”, ý nói “pháp chẳng có hình tượng”. Tánh vốn tịnh, giống như
gương sáng trong lặng, thanh tịnh, chẳng có uế trược, có thể hiện trọn khắp các
hình bóng. Hãy nên biết hình bóng ấy chẳng sanh từ gương, chẳng sanh từ vật
chất bên ngoài, chẳng cộng sanh (do gương và vật bên ngoài cùng sanh ra), mà
cũng chẳng phải là không có nhân duyên. Đủ loại hý luận đều chẳng tương ứng,
cũng lại chẳng thể chấp giữ, chỉ thuộc vào các nhân duyên đó thôi! Duyên hợp
chẳng sanh, duyên lìa chẳng diệt, tức là nói “chẳng thường, chẳng đoạn,
chẳng đến, chẳng đi”. Hãy nên biết hình bóng chính là gương, gương chính
là hình bóng. Nếu có thể hiểu như thế, sẽ thấy Thật Tướng của các pháp, biết tự
tánh của tâm vốn chẳng nhiễm ô. Dùng cái tâm như gương để soi xét cái gương như
tâm, nên nói “tâm tự thấy tâm, tâm tự biết tâm, trí và gương chẳng hai,
chẳng khác”. Vì thế, trừ khử màng mắt, chính vì quán pháp giới như
thế. Do vậy, tự hiểu rõ! Nếu lúc tương ứng với điều này, tức là từ trong phổ
môn Mạn-đồ-la, đắc Trừ Cái Chướng tam-muội, có thể vì hết thảy chúng sanh tạo
lợi ích vô cùng, hoặc nói là “vô đối”, hoặc bảo là “vô
xứng”, tức là chẳng thể tính kể được! Do có thể tự sanh vào nhà của vị
Phật trong tự tâm, nên gọi là “đứa con của vị Phật trong tâm”. Do sanh từ vị
Phật trong tâm, bảo là “nhữ tùng Phật tâm sanh” (ngươi sanh từ
Phật tâm).
* Pháp luân pháp loa kệ (bản tiếng Phạn)
(Sớ)
A nại-dã (kim nhật dã) bát-ra bột-rị để (dĩ hậu dã) lộ yết tả (thế gian dã)
chước yết-lan mạt rị-đa dã (luân chuyển dã) đá diễn nan (cứu thế giả dã) a bố
lại diên (xuy dã) tam mạn đa nột-phạ (phổ biến dã) đạt ma (pháp dã) thương khư
(loa dã) mãng (vô dã) nỗ đá lam (thượng dã. Nhất kệ). Nẵng (vô dã) đế đát-ra
kiến cật-sái (bỉ lự dã) vĩ mạt để lạt-phạ (dị huệ dã) niết lạt-vĩ thương kế
nẵng (vô nghi dã) chế đá sa (tâm dã) bát-ra ca xa dã (khai thị dã) sa-phạ lộ kế
tất-mẫn (thế nhân dã) man đát-ra (chân ngôn dã) giá rị-tà (hành dã) nẵng diễn
(đạo dã) bát lam (thắng dã. Nhị kệ). Y phạm (như thị dã) cật-lật đá nhung (tác
nguyện dã) bột đà nẫm (chư Phật dã) ổ bả ca rị (ân đức dã) để nghĩ dã tế hát
(xướng dã, sai thuyết dã) đế giá (bỉ dã) phạ nhật-ra đà lạt (Chấp Kim Cang dã)
tát lạt-bệ (nhất thiết dã) lạc cật sạn-để (hộ dã) đát phạ (nhữ dã) tát bà xa
(giai thường đương dã. Tam kệ). Nhữ tự ư kim nhật, chuyển ư cứu thế luân, kỳ
thanh phổ châu biến, xuy vô thượng pháp loa, vật sanh ư dị huệ, dĩ vô nghi lự
tâm, khai thị ư thế gian, thắng đạo chân ngôn hạnh, thường tác như thị nguyện,
tuyên xướng Phật ân đức. Nhất thiết Trì Kim Cang, giai đương hộ niệm nhữ.
(疏)阿捺也(今日也)。鉢囉勃哩底(已後也)。路羯寫(世間也)斫羯蘭沫唎多也(輪轉也)。哆演難(救世者也)。阿布籟延(吹也)。三漫多訥嚩(普遍也)。達麼(法也)商佉(螺也)。莾(無也)努哆藍(上也。一偈)曩(無也)諦。怛囉建吃灑(彼慮也)。尾末底喇嚩(異慧也)。涅喇尾商計曩(無疑也)。制哆娑(心也)。鉢囉迦奢也(開示也)。娑嚩路計悉泯(世人也)。瞞怛囉(真言也)。遮唎邪(行也)。曩演(道也)鉢藍(勝也。二偈)。醫梵(如是也)。吃栗哆茸(作願也)。勃馱喃(諸佛也)鄔跛迦唎(恩德也)。底擬也細喝(唱也差說也)。諦遮(彼也)。嚩馹囉駄喇(執金剛也)。薩喇鞞(一切也)。𡀩吃鏟𫪭(護也)。怛嚩(汝也)薩婆奢(皆常當也。三偈)。汝自於今日,轉於救世輪,其聲普周遍,吹無上法螺,勿生於異慧,以無疑慮心,開示於世間,勝道真言行。常作如是願,宣唱佛恩德,一切持金剛,皆當護念汝。
(Sớ:
A nại-dã (ngày nay) bát-ra bột-rị để (về sau) lộ yết tả (thế gian) chước
yết-lan mạt rị-đa dã (luân chuyển) đá diễn nan (đấng cứu thế) a bố lại diên
(thổi) tam mạn đa nột-phạ (phổ biến) đạt ma (pháp) thương khư (tù và) mãng
(không) nỗ đá lam (trên. Kệ thứ nhất). Nẵng (Không) đế đát-ra kiến cật-sái (lo
nghĩ khác) vĩ mạt để lạt-phạ (dị huệ) niết lạt-vĩ thương kế nẵng (chẳng nghi) chế
đá sa (tâm) bát-ra ca xa dã (khai thị) sa-phạ lộ kế tất-mẫn (người đời) man
đát-ra (chân ngôn) giá-rị tà (hành) nẵng diễn (đạo) bát lam (thù thắng. Kệ thứ
hai). Y phạm (như thế) cật-lật đá nhung (phát nguyện) bột đà nẫm (chư Phật) ổ
bả ca rị (ân đức) để nghĩ dã tế hát (xướng, nói) đế giá (điều đó) phạ nhật-ra
đà lạt (Chấp Kim Cang) tát-lạt bệ (hết thảy) lạc cật-sạn để (thủ hộ) đát phạ
(ngươi) tát bà xa (đều sẽ thường. Kệ thứ ba). [Dịch nghĩa]: Ngươi từ nay trở
đi, chuyển pháp luân cứu đời, tiếng ấy lan trọn khắp, thổi ốc pháp vô thượng,
đừng nẩy sanh dị huệ, dùng tâm chẳng lo ngờ, khai thị cho thế gian, đạo thù
thắng chân ngôn, thường nguyện như thế này, tuyên xướng Phật ân đức. Hết thảy
Trì Kim Cang, sẽ đều hộ niệm ngươi).
Giống
như tự luân xoay tròn, cùng hợp thành một Thể. Giống như tự luân, ấn luân thân
cũng thế. Vì thế, khi hiểu nghĩa của Viên Kính Mạn-đồ-la, liền hiểu nghĩa “chuyển
pháp luân” trong bí mật tạng. Khi chuyển pháp luân này, dùng một âm
thanh trọn khắp mười phương thế giới, cảnh tỉnh, giác ngộ chúng sanh. Vì thế
nói là “thổi ốc pháp lớn”. Phạm âm trong chữ “phổ
biến”, có nghĩa “vang ra tiếng, thổi ra”, lại có nghĩa là “khiến cho
âm thanh ấy phổ biến”. “Dị huệ” là trí huệ phân biệt vọng
tưởng. “Vô nghi tâm” chính là nghi hối vĩnh viễn diệt mất, trụ
trong Thật Trí. Do trụ trong Thật Trí, liền có thể nhất định sư tử hống, khai
thị đạo pháp chân ngôn hạnh vô thượng cho trời, người. Nếu ngươi có thể phát
nguyện như thế, trong hết thảy mọi nơi, hết thảy mọi lúc, sẽ là báo đáp đại ân chánh
pháp, tuyên bố ân đức của Phật, tức là được Phật sai khiến hành Như Lai sự. Do
vậy, hết thảy Trì Kim Cang đều hộ niệm ngươi. Lại nữa, tâm vương của ngươi khi
hiểu rõ đạo pháp, thành Phật, chuyển pháp luân, đã có vô lượng vô biên kim cang
trí ấn trọn khắp cùng phù tá và hộ trì, huống hồ tất cả oai thế của đấng Tỳ Lô
Giá Na khi rốt ráo tâm vương thành Phật ư? Vì thế, hãy nên vì pháp này mà phát
khởi đại tinh tấn.
* Tam-muội-da kệ (Phạn bổn)
(Sớ)
A nễ dã bát ra bột rị để (tùng kim dĩ hậu) đế phạ tha (tác Phật tử dã) a bỉ nhị
vĩ đá (bất tích mạng dã) ca la nĩnh đa (cố dã) a bát rị (bất ưng dã), để dạ
dũng hệ (xả dã) tát đạt mô (chánh pháp dã) bồ đề chất đá (Bồ Đề tâm dã) mạt đát
bát ra (xả ly dã. Nhất kệ) Mãng tha rị diên (xan dã) tát bà đạt mê số (ư nhất
thiết pháp dã) tát đát phạ (chư chúng sanh dã) nẵng mang (vật dã, bất dã) hệ
thả giả dã đa (lợi ích hạnh dã) y đế (thử dã) tam-muội-da hệ (giới dã) tam bột
đài (Phật dã) ra khế dã đá (thuyết dã) tát đát phạ (nhữ dã) tô một ra đá (thiện
trụ giới giả. Nhị kệ) Duệ tha (do như dã) sa phạ (tự thân dã) nhị vĩ đan (mạng
dã) lạc cật sản (hộ dã), đát tha lộ cật sản (diệc hộ dã) y mê (như thị dã) đát
phạ dã bát ra nật bát nễ (thủ khể ư dã) ngu rô (tôn dã) thỉ sử (đệ tử dã, nhữ
dã) thất giả ra nhứ du bạc cát để (cung kính dã) phạ tha ra (kiền thành dã. Tam
kệ) A bửu bế da (y giáo phụng hành dã) tát thản đa (chư hữu dã) tát lạt man (sở
tác dã) niết thất chỉ đế (vô dã) nang (dã) thản ra (nghi lự dã) thản mãng na
(tâm dã. Phán kệ). Phật tử nhữ tùng kim, bất tích thân mạng cố, bất ưng xả
chánh pháp, xả ly Bồ Đề tâm, xan lận nhất thiết pháp, bất lợi chúng sanh hạnh.
Phật thuyết tam-muội-da, nhữ thiện trụ giới giả, như hộ tự thân mạng. Hộ giới
diệc như thị, ưng chí thành cung kính, khể thủ thánh tôn túc, sở tác tùy giáo
hành, vật sanh nghi lự tâm.
(疏)阿儞也鉢。囉勃哩底(從今以後)。諦嚩瑳(作佛子也)。阿粃貳尾哆(不惜命也)。迦羅儜多(故也)。阿鉢唎(不應也)。𫪭夜𭮛係(捨也)。薩達摸(正法也)菩提質哆(菩提心也)沫怛鉢囉(捨離也。一偈)莾瑳唎延(慳也)。薩婆達謎數(於一切法也)薩怛嚩(諸眾生也)。曩忙(勿也不也)係且者也多(利益行也)。醫帝(此也)三昧耶係(戒也)三勃臺(佛也)囉契也哆(說也)薩怛嚩(汝也)蘇沒囉哆。(善住戒者。二偈)曳他(猶如也)娑嚩(自身也)貳尾單(命也)落吃鏟(護也)怛他蕗吃鏟(亦護也)伊迷(如是也)怛嚩也鉢囉抳鉢儞(首稽於也)虞嚧(尊也)。始史(弟子也汝也)。室者囉絮瑜薄吉𫪭(恭敬也)嚩瑳囉(虔誠也。三偈)。阿𭍇閉耶(依教奉行也)薩坦多(諸有也)。薩喇瞞(所作也)。涅室旨帝(無也)囊(也)坦囉(疑慮也)坦莾娜(心也。判偈)。佛子汝從今,不惜身命故,不應捨正法,捨離菩提心,慳悋一切法,不利眾生行。佛說三昧耶,汝善住戒者,如護自身命,護戒亦如是,應至誠恭敬,稽首聖尊足,所作隨教行,勿生疑慮心。
(Sớ:
A nễ dã bát ra bột rị để (từ nay trở đi) đế phạ tha (làm Phật tử) a bỉ nhị vĩ
đá (chẳng tiếc mạng) ca la nĩnh đa (vì thế) a bát rị (chớ nên), để dạ dũng hệ
(xả) tát đạt mô (chánh pháp) bồ đề chất đá (Bồ Đề tâm) mạt đát bát ra (xả ly.
Kệ thứ nhất). Mãng tha rị diên (keo kiệt) tát bà đạt mê số (trong hết thảy các
pháp) tát đát phạ (các chúng sanh) nẵng mang (đừng, chớ), hệ thả giả dã đa (lợi
ích hạnh) y đế (cái này) tam-muội-da hệ (giới) tam bột đài (Phật) ra khế dã đá
(nói) tát đát phạ (ngươi) tô một ra đá (khéo trụ trong giới. Kệ thứ hai) Duệ
tha (giống như) sa phạ (tự thân) nhị vĩ đan (mạng) lạc cật sản (thủ hộ) đát tha
lộ cật sản (cũng thủ hộ) y mê (như thế) đát phạ dã bát ra nật bát nễ (đảnh lễ)
ngu rô (tôn quý) thỉ sử (đệ tử, ngươi) thất giả ra nhứ du bạc cát để (cung
kính) phạ tha ra (kiền thành. Kệ thứ ba) A bửu bế da (y giáo phụng hành) tát
thản đa (các cõi) tát lạt man (việc làm) niết thất chỉ đế (không) nang (cũng)
thản ra (nghi lự) thản mãng na (tâm. Kệ phán định). Phật tử kể từ nay, do chẳng
tiếc thân mạng, chớ nên xả chánh pháp, lìa bỏ tâm Bồ Đề, keo tiếc hết thảy
pháp, chẳng hành lợi chúng sanh. Phật nói tam-muội-da, ngươi khéo trụ trong
giới, như gìn thân mạng mình. Hộ giới cũng như thế, nên chí thành cung kính,
đảnh lễ chân thánh tôn, hành đúng theo lời dạy, đừng sanh tâm ngờ lo).
Trong
phần trước đã nói “kề tai bảo ban một bài kệ”, giống như Tăng
Kỳ Gia (Đại Chúng Bộ) truyền trao Lục Niệm, Tát Bà Đa (Nhất Thiết Hữu Bộ)
truyền trao pháp Ngũ Thời, dùng đó để nghiệm chứng [người được truyền dạy] đã
từng thọ giới Cụ Túc hay không? Nay nếu thọ trọn đủ bốn giới ấy rồi, đã dạy đại
lược giới tướng, hãy nên hiểu biết Tứ Ba La Di[17] trong tạng bí mật. Giống như
người bị kẻ khác chặt đứt đầu, mạng căn chẳng tiếp nối được, hết thảy các chi
phần chẳng thể làm gì được, chẳng lâu sau sẽ đều tan hoại. Nay bốn giới Ba La
Di này chính là mạng căn trong Chân Ngôn Thừa, mà cũng là mạng căn của chánh
pháp. Nếu phá hoại, sẽ giống như tử thi trong tạng bí mật. Tuy có đủ thứ hạnh
công đức, chẳng lâu sau sẽ bại hoại.
Giới
thứ nhất là “chớ nên xả chánh pháp”, vì hết thảy chánh giáo
của Như Lai sẽ đều nhiếp thọ, tu hành, thọ trì, đọc, tụng, như biển cả dung nạp
trăm sông, chẳng có tâm chán đủ! Nếu đối với hết thảy các pháp môn dù liễu
nghĩa hay bất liễu nghĩa trong các thừa mà sanh tâm vứt bỏ, như trong Thanh Văn
Thừa nếu đối với người có thể tu pháp mà tâm sanh ý niệm, hoặc miệng nói vứt bỏ
một pháp, thì cũng thành xả giới! Tuy đối với Cụ Túc Tỳ Ni, chẳng đọa vào các
số[18], nhưng chẳng
phải là tội phạm giới. Nay do Đại Thừa bí mật này rốt ráo chẳng có ý nghĩa
“xả”, bèn thành trọng tội. Lại nữa, hết thảy các pháp môn đều do đức đại bi Thế
Tôn trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp tích tập, vì muốn lợi ích trọn khắp hết thảy
các chúng sanh nên diễn nói, giống như đối với các tự luân chẳng thể vứt bỏ một
tự luân nào. Như người thuộc Thanh Văn thừa, hễ bỏ một chuyện, thì do vậy,
nghĩa “hòa hợp” bị đoạn mất, đã đánh mất luật nghi, huống hồ
Ma Ha Diễn ư?
Giới
thứ hai là “chớ nên lìa bỏ Bồ Đề tâm”. Trong vạn hạnh của Bồ
Tát, Bồ Đề tâm này ví như cờ soái của bậc đại tướng. Nếu lúc vị đại tướng đánh
mất cờ soái, tức là ba quân thất bại, bị kẻ khác chiến thắng. Vì thế, phạm Ba
La Di. Có người tuy yêu mến sâu đậm pháp tạng tam thừa, tâm chẳng vứt bỏ, nhưng
nghĩ như thế này: “Vô thượng Đại Thừa có đủ loại khổ hạnh khó hành, ta chẳng
thể kham nổi! Hãy nên giữ lấy sự diệt độ trong Tiểu Thừa”. Hoặc nói: “Ta sẽ
rộng gieo thiện căn cúng dường Tam Bảo, lãnh nhận phước báo nhân thiên lâu dài.
Vô thượng Bồ Đề là hành xứ của các bậc đại nhân như Phổ Hiền, Văn Thù v.v… Nay
ta há có thể đạt được ư?” Các thứ nhân duyên thoái thất Bồ Đề nguyện như thế
chính là tự đoạn mạng căn, phạm tội Ba La Di. Lại nữa, Bồ Đề tâm rốt ráo chẳng
có ý nghĩa thoái thất. Vì thế, chẳng giống như trong pháp Thanh Văn, thậm chí
buông bỏ Tam Quy, lui về làm bạch y ngoại đạo, Phật vẫn từ bi, yêu mến, xót
thương, chấp thuận lời dối trá ấy.
Giới
thứ ba là “trong hết thảy các pháp, chớ nên keo tiếc”. Có
người tuy chẳng xả chánh pháp, chẳng lìa Bồ Đề tâm, nhưng keo tiếc chánh pháp,
không chịu xem xét căn cơ để bố thí rộng rãi, thì cũng phạm tội Ba La Di. Vì lẽ
nào vậy? Do Như Lai xuất thế rồi mới có chánh pháp, thậm chí một câu, một kệ,
không gì chẳng phải là do đức Thế Tôn đã táng thân xả mạng làm đầy tớ rồi mới
đạt được. Đấy là tài sản do cha mẹ để lại của hết thảy chúng sanh, chẳng phải
của riêng một chúng sanh nào! Mà nay trộm lấy làm của chính mình; vì vậy, trong
tạng bí mật, [hành vi ấy] giống như trộm vật của Tam Bảo vậy!
Nói
đại lược, pháp có bốn loại, tức là tam thừa và bí mật thừa. Tuy chẳng nên keo
tiếc, nhưng phải quán sát chúng sanh, lượng định căn khí của họ rồi sau đó mới
truyền trao. Nếu bộp chộp nói ngay các chuyện sâu xa, bí mật, khiến cho [người
nghe] sanh lòng nghi báng, đoạn thiện căn của họ, tức là [người cẩu thả nói
pháp] đã phạm tội Ba La Di trong giới thứ tư! Còn cái tội keo kiệt tài vật,
không chịu bố thí rộng rãi, sẽ phạm lỗi trong mười loại phương tiện giới, sẽ
được nói trong phẩm sau.
Giới
thứ tư là “chớ nên chẳng tạo hạnh lợi ích cho hết thảy chúng sanh”. Đây
là pháp trái nghịch Tứ Nhiếp. Tứ Nhiếp là Tứ Y trong giới cụ túc của bậc Bồ
Tát. Khi mới thọ giới, trước hết hãy nên khai thị giá nạn[19] của giới này, người nếu có thể
phụng hành thì mới thọ. Chẳng thể phụng hành thì chẳng phải là Ma Ha Tát Đỏa,
chớ nên thọ! Vì sao vậy? Bồ Tát phát tâm Nhất Thiết Trí, vốn vì nhiếp thọ trọn
khắp hết thảy chúng sanh để tạo nhân duyên nhập đạo cho tam thừa, mà nay ngược
ngạo hành pháp trái nghịch Tứ Nhiếp, khởi lên nhân duyên chướng đạo cho chúng
sanh. Hết thảy chúng sanh cũng có cùng một cái Thể của tự luân, chẳng thể rời
lìa. Hễ tổn hại thiện căn của mỗi một chúng sanh, hoặc bỏ hạnh tạo lợi ích cho
họ, sẽ đều cùng phạm tội Ba La Di. Chẳng hạn như trong pháp Thanh Văn, hễ xả
một người trong thất chúng, thì chính là nghĩa “chẳng hòa hợp”, đoạn
mất Cụ Túc Luật Nghi. Chỉ thuận theo cái tâm phiền não, tạo dâm, trộm, giết,
dối v.v… nhưng chưa tổn hại thiện duyên của tam thừa, giống như tội Thâu Lan
Giá[20] trong pháp
Thanh Văn, sẽ thuộc vào phương tiện học xứ.
Kế
đó là lời răn dạy của A-xà-lê. Tam-muội-da do đức Phật đã nói, trong bản tiếng
Phạn có ghi kèm thêm chữ Thử (này), hàm ý: Mười phương ba đời chư Phật cùng nói
tam-muội-da này, cùng hành một đạo như thật, chẳng hề khác đường! Nay hết thảy
nhóm họp trong Mạn-đồ-la để hiện thân chứng nghiệm. Tiếng Phạn là Tô Một La Đa
(Suvrata), dịch thành Thiện Trụ Giới Giả (người khéo trụ trong giới), do người
ấy khéo trụ trong tam-muội-da. Thiện Trụ Giới Giả cũng chính là tên gọi khác
của Phật Tử. Như thủ hộ tấm thân do cha mẹ sanh ra của ngươi, nay cũng nên yêu
mến Pháp Thân huệ mạng này giống như vậy! Ngươi nay đã thọ giới Cụ Túc, hãy nên
chí thành làm lễ chư tôn rồi lui ra. Từ nay trở đi, hễ có làm điều gì, hãy nên
hoàn toàn dựa theo pháp giáo chân ngôn để hành đúng như lời dạy. Những người
cùng mới thọ giới giống như kẻ đó, đối với hết thảy sự nghiệp, đều nên hỏi
thầy, chớ nên bộp chộp tự tiện làm, khiến nghi hối ác tà nẩy sanh! Lại nữa,
A-xà-lê nói hai bộ giới bổn trong Trì Minh Tạng, mỗi mỗi đều là chân ngôn, có thể
thực hiện hoàn tất các việc, Như Lai dùng đó để gia trì các đệ tử. Các bài kệ ở
đây cũng thế, khi tác pháp hãy nên tụng Phạn bổn, kiêm thêm dùng tự môn để rộng
giải thích.
(Kinh)
Nhĩ thời, Kim Cang Thủ bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Nhược hữu chư thiện nam tử,
thiện nữ nhân nhập thử Đại Bi Tạng Sanh đại Mạn-đồ-la vương tam-muội-da giả, bỉ
hoạch kỷ sở phước đức tụ?
(經)爾時金剛手白佛言:世尊!若有諸善男子善女人入此大悲藏生大漫荼羅王三昧耶者,彼獲幾所福德聚?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Nếu có
các thiện nam tử, thiện nữ nhân nhập Đại Bi Tạng Sanh đại Mạn-đồ-la vương
tam-muội-da này, người ấy sẽ được bao nhiêu khối phước đức?)
Do
[học nhân] đã thọ [quán đảnh] đầy đủ xong, [đức Phật] bèn nói vô tác công đức
trong Chân Ngôn môn. Như trong pháp Thanh Văn, nếu đã thọ Cụ Túc Giới, đối với
mỗi học xứ trong các học xứ “dâm, trộm, giết, dối” v.v… đều có
[tác dụng khiến cho] mỗi một chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều
đạt được vô tác công đức, sông phước tuôn chảy cho đến khi mạng chung. Thậm chí
do giới “không uống rượu”, trong cổ họng của mỗi chúng sanh đều sanh ra vô tác
công đức. Do giới “chẳng tổn hoại sanh mạng, đào cuốc đất”, khiến cho hết thảy
cây cỏ cho đến tận kim cang tế, mỗi mỗi vi trần đều sanh ra vô tác công đức. Do
nhân duyên này, tuy là phàm phu trọn đủ kết sử mà được cùng bậc thánh nhân vô
học dự vào hàng Ứng Cúng, cùng nắm giữ thánh sự. Nay trong tạng bí mật này, do
giới đầu tiên mà trong mười phương ba đời, hết thảy các chánh pháp tạng đều
sanh ra vô tác công đức. Do giới thứ hai, trong hạnh của mười phương ba đời hết
thảy Bồ Tát, đều sanh ra pháp vô tác công đức. Do giới thứ ba mà trong mười
phương ba đời, hết thảy các môn “độ người” đều sanh ra vô tác
công đức. Do giới thứ tư, trong mười phương ba đời, hết thảy chúng sanh và
trong Tứ Nhiếp Sự, đều sanh ra vô tác công đức. Chẳng phải chỉ dùng một kỳ làm
hạn lượng, mà lấy tam thiên làm cảnh giới vậy.
Lại
nữa, trong hết thảy luật nghi Thanh Văn, do nhân duyên tạo tác rốt cuộc là Vô
Dư Niết Bàn, đều quy vào “hôi đoạn” (nát thân diệt trí như lửa
tắt, tro lạnh). Nay trong luật nghi của Bồ Tát, vốn sanh từ Nhất Thiết Trí, rốt
cuộc tiến nhập biển Tát Bà Nhã, từ đầu đến cuối rốt ráo đều như kim cang. Lại
như trong pháp Thanh Văn, tuy có trọn đủ các giai tầng phiền não, học, vô học
v.v… bất đồng, nhưng phát khởi vô tác luật nghi sẽ chẳng có hơn kém sai khác.
Nay luật nghi này của Bồ Tát cũng giống như thế. Tuy là ban sơ phát tâm cho tới
bốn mươi hai địa vị, giai tầng bất đồng, nhưng cùng lúc phổ biến pháp giới,
phát khởi vô tác thiện căn, cùng Như Lai trọn chẳng có tăng giảm sai khác. Lại
nữa, như lúc phát tâm ban đầu, hết thảy công đức liền bằng với Như Lai. Từ đấy
trở đi, trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, trong mỗi niệm luôn tiến lên thù
thắng, chuyển thành sâu rộng chẳng thể nghĩ bàn! Do bởi nghĩa này, nên gọi
là “vô tác công đức trong tạng bí mật”. Vì vậy, kinh nói ngài
Kim Cang Thủ hỏi “thiện nam tử, thiện nữ nhân do nhập Đại Bi Tạng
Mạn-đồ-la này, sẽ đạt được bao nhiêu khối phước đức?”
(Kinh)
Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Kim Cang Thủ ngôn: “Bí Mật Chủ! Tùng sơ phát tâm,
nãi chí thành Như Lai, sở hữu phước đức tụ, thị thiện nam tử, thiện nữ nhân
phước đức tụ dữ bỉ chánh đẳng. Bí Mật Chủ! Dĩ thử pháp môn, đương như thị tri:
Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân tùng Như Lai khẩu sanh, Phật tâm chi tử. Nhược
thị thiện nam tử, thiện nữ nhân sở tại phương sở, tức vi hữu Phật thi tác Phật
sự. Thị cố Bí Mật Chủ! Nhược nhạo dục cúng dường Phật giả, đương cúng dường thử
thiện nam tử, thiện nữ nhân. Nhược nhạo dục kiến Phật, tức đương quán bỉ”. Thời
Kim Cang Thủ đẳng thượng thủ Chấp Kim Cang, cập Phổ Hiền đẳng thượng thủ chư Bồ
Tát, đồng thanh thuyết ngôn: “Thế Tôn! Ngã đẳng tùng kim dĩ hậu, ưng đương cung
kính cúng dường thị thiện nam tử, thiện nữ nhân. Hà dĩ cố? Thế Tôn! Bỉ thiện
nam tử, thiện nữ nhân đồng kiến Phật Thế Tôn cố!”
(經)如是說已,佛告金剛手言:祕密主!從初發心乃至成如來所有福德聚,是善男子善女人福德聚與彼正等。祕密主!以此法門當如是知,彼善男子善女人從如來口生、佛心之子,若是善男子善女人所在方所,即為有佛施作佛事。是故祕密主!若樂欲供養佛者,當供養此善男子善女人;若樂欲見佛,即當觀彼。時金剛手等上首執金剛及普賢等上首諸菩薩同聲說言:世尊!我等從今以後,應當恭敬供養是善男子善女人。何以故?世尊!彼善男子善女人同見佛世尊故。
(Kinh:
Nói như thế xong, đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ rằng: “Bí Mật Chủ! So với tất
cả khối phước đức từ sơ phát tâm cho đến khi thành Như Lai, thì khối phước đức
của thiện nam tử, thiện nữ nhân bằng đúng với khối phước đức ấy. Này Bí Mật
Chủ! Hãy nên biết pháp môn này như sau: Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy sanh từ
miệng Phật, là con trong tâm Phật. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy ở chỗ
nào, nơi đó có Phật thực hiện Phật sự. Vì thế Bí Mật Chủ! Nếu ưa thích muốn
cúng dường Phật, hãy nên cúng dường thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy. Nếu ưa
thích muốn thấy Phật, hãy nên thấy những người ấy”. Khi đó, các vị thượng thủ
Chấp Kim Cang như Kim Cang Thủ v.v… và các thượng thủ đại Bồ Tát như Phổ Hiền v.v…
đồng thanh nói rằng: - Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay trở đi, sẽ đều nên cung
kính, cúng dường thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy. Vì sao vậy? Do thấy thiện nam
tử, thiện nữ nhân ấy giống như thấy Phật Thế Tôn).
Đức
Phật nói: Khối phước đức của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy bằng với khối phước
đức từ sơ phát tâm cho đến khi thành Như Lai. Phước ấy hết thảy chúng sanh suy
lường, phân biệt chẳng thể biết được, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết. Nay
chỉ nêu bày chỗ tiến nhập, ngõ hầu [thính chúng] lãnh hội ý viên mãn, nên
nói: “Hãy nên biết pháp môn này như thế”. Ví như thái tử của
Luân Vương vừa mới ở trong thai tạng, đã có thể trì tứ thiên hạ, khiến cho
phước đức chẳng giảm, các thần thuộc tám bộ [trời, rồng...] đều tôn kính. Huống
hồ lợi ích gây tạo khi người ấy đã kế tục địa vị quán đảnh! Do vậy, đức Phật
nói: Do tất cả khối phước đức của người ấy bằng với Như Lai, hãy nên biết người
ấy chính là sanh từ miệng Phật, là con trong tâm Phật. Nơi người ấy ở chính là
chỗ có Phật thực hiện Phật sự. Giống như trong kinh Thanh Văn, đức Phật
nói “hễ Xá Lợi Phất du hành đến nơi đâu thì ở nơi đó, ta vô sự!” Sở
dĩ hết thảy chúng sanh cúng dường, thân cận Như Lai là do có thể xuất sanh
phước huệ vô tận; nhưng nay tất cả khối phước đức của thiện nam tử, thiện nữ
nhân ấy bằng với Như Lai. Vì vậy, đức Thế Tôn do lòng đại bi mà căn dặn hết
thảy chúng sanh: “Nếu thích cúng dường Phật, hãy nên cúng dường thiện
nam tử, thiện nữ ấy. Nếu muốn thấy Phật, hãy nên quán người ấy”.
Lúc
mới vào Thế Đế Mạn-đồ-la thì tất cả khối phước đức đều bằng với Như Lai. Lúc
mới vào Du Già thâm bí mật Mạn-đồ-la thì tất cả khối phước đức lại bằng với Như
Lai. Cho đến nói rộng, hễ lúc nhập Mạn-đồ-la thuộc mỗi mỗi địa vị, sẽ sanh ra
khối phước đức đều bằng với Như Lai. Trong ấy, cũng có sai biệt và vô sai biệt.
Do thấy Kim Cang Giới như thế, nên gọi là Kim Cang Thủ. Do thấy pháp giới như
thế, nên gọi là Phổ Hiền. Do vậy, các bậc tôn thánh thượng thủ và hết thảy Kim
Cang, Bồ Tát đều đồng thanh nói: “Chúng con từ nay về sau sẽ đều nên
cung kính cúng dường thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy. Vì lẽ nào vậy? Do giống
như thấy Phật Thế Tôn”. Giống như phụ tá của Luân Vương, vì biết rõ
chủng tánh của Luân Vương, thấy vua xuất hiện trong thế gian, sẽ tạo nhiều
nghĩa lợi, muốn cho bảy báu thường chẳng ẩn mất, đều dùng lòng chí thành kính
lễ và thủ hộ thái tử ở trong thai, chẳng phải là lời lẽ bịa đặt vậy!
Kinh
Cù Hê dạy: “A-xà-lê như thượng sở thuyết tác hộ-ma dĩ, dụng tịnh thủy
sái chư đệ tử đảnh thượng, quảng thị Mạn-đồ-la vị, giáo bỉ đại ấn, cập minh
vương chân ngôn, linh tọa nhất xứ trì tụng chi. Thứ giáo dĩ hương, hoa cúng
dường Bổn Tôn, cập dư chư tôn cánh, thứ đệ nhi tọa. Sư tự tụng Bát Nhã Kinh,
linh bỉ thính chi. Thứ vị đô thuyết tam-muội-da giới: - Nhữ đẳng tùng kim nhật,
thường ư Tam Bảo, cập chư Bồ Tát, chư chân ngôn tôn, cung kính cúng dường, ư Ma
Ha Diễn kinh, hằng sanh tín giải. Phàm kiến nhất thiết thọ tam-muội-da giả,
đương sanh ái nhạo. Ư tôn giả sở, hằng khởi cung kính, bất ưng ư chư tôn sở
hoài hiềm hận tâm, cập dữ tín học ngoại đạo kinh thư. Phàm lai cầu giả, tùy lực
thí dữ. Ư chư hữu tình, hằng khởi từ bi. Ư chư công đức, cần tâm tu tập, thường
nhạo Đại Thừa. Ư Chân Ngôn hạnh, vật đắc giải phế. Sở hữu bí mật chi pháp, vô
tam-muội-da giả, bất ưng vị thuyết” (A-xà-lê làm hộ-ma như đã nói
trong phần trên xong, dùng nước sạch rảy lên đỉnh đầu các đệ tử, chỉ bày cặn kẽ
các vị trí trong Mạn-đồ-la, dạy họ đại ấn và minh vương chân ngôn, bảo họ ngồi
ở một chỗ trì tụng. Kế đó, dạy họ dùng hương, hoa cúng dường Bổn Tôn và các vị tôn
thánh khác xong, theo thứ tự mà ngồi. Thầy tự tụng kinh Bát Nhã cho họ nghe. Kế
đó, vì họ nói trọn tam-muội-da giới: - Các ngươi từ nay trở đi, thường nên cung
kính cúng dường Tam Bảo và các Bồ Tát, các vị tôn thánh trong chân ngôn, luôn
sanh tín giải đối với kinh Đại Thừa. Hễ thấy hết thảy những người thọ
tam-muội-da, đều nên sanh lòng yêu thích. Đối với các tôn giả, luôn dấy tâm
cung kính. Chớ nên ôm lòng hiềm hận các vị tôn giả, và đừng tin tưởng, học theo
kinh sách của ngoại đạo. Phàm có người đến cầu, đều tùy sức mà thí cho. Luôn
khởi lòng từ bi đối với các hữu tình, tâm siêng năng tu tập các công đức,
thường ưa chuộng Đại Thừa. Đừng lười nhác, đừng buông bỏ hạnh Chân Ngôn. Tất cả
pháp bí mật, chớ nên nói với kẻ chẳng có tam-muội-da).
Đại
lược là như thế, những điều khác như đã nói cặn kẽ trong phẩm thứ nhất thuộc
Pháp Cúng Dường. Truyền dạy như thế xong, mỗi mỗi chỉ bày chân ngôn, ấn và bộ
sở thuộc của Bổn Tôn (tức là vị Bổn Tôn ấy thuộc Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, hay Kim
Cang Bộ), và giải nói Mạn-đồ-la của vị ấy. Sau đấy mới làm hộ-ma lần cuối cùng.
Hộ-ma xong, lại đúng như pháp hộ thân, thí thực cho các phương. Thí xong, rửa
tay, sái tịnh, trao cho các đệ tử hương, hoa v.v... [để họ] theo thứ tự cúng
dường hết thảy chư tôn, thành tâm đảnh lễ, và xin [các Ngài] hoan hỷ. Lại cầm
Át-già, mỗi mỗi đều dùng chân ngôn của mỗi vị [tôn thánh] mà đúng như pháp tống
tiễn, hoặc dùng chân ngôn của vị chủ Mạn-đồ-la để cùng lúc tống tiễn, giống như
cách thức phụng thỉnh vậy. Đem các thức ăn đã cúng dường thí cho người nghèo,
chớ nên để cho chó, quạ v.v… ăn nuốt. Tất cả tài vật, A-xà-lê đáng nên nhận lấy
thì tùy ý thọ dụng. Nếu chẳng thể thì đem cúng thí Tam Bảo. Các vật như lọng,
phất trần v.v… dâng cúng cho Phật. Hương bôi, hương đốt v.v… dâng cúng cho Pháp.
Y, bình, đồ đựng v.v… thì cúng thí Phật và tứ phương Tăng. Nếu không có Tăng,
hãy nên thí cho thất chúng. Các đệ tử ấy dù chút phần cũng không được dùng. Nếu
dùng, sẽ phạm tam-muội-da, như trong kinh ấy (kinh Cù Hê) đã rộng nói.
(Kinh)
Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn phục quán nhất thiết chúng hội, cáo Chấp Kim
Cang Bí Mật Chủ đẳng chư Trì Kim Cang giả, cập đại chúng ngôn: “Thiện nam tử!
Hữu Như Lai xuất thế, vô lượng quảng trường ngữ luân tướng, như xảo sắc
Ma-ni năng mãn nhất thiết nguyện, tích tập vô lượng phước đức, trụ bất khả hại
hạnh, tam thế vô tỷ lực chân ngôn cú”. Như thị ngôn dĩ, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ
đẳng chư Chấp Kim Cang cập đại hội chúng, đồng thanh thuyết ngôn: “Thế Tôn! Kim
chánh thị thời, Thiện Thệ! Kim chánh thị thời”.
(經)爾時毘盧遮那世尊復觀一切眾會,告執金剛祕密主等諸持金剛者及大眾言:善男子!有如來出世,無量廣長語輪相,如巧色摩尼能滿一切願、積集無量福德、住不可害行,三世無比力真言句。如是言已,金剛手祕密主等諸執金剛及大會眾同聲說言:世尊!今正是時。善逝!今正是時。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn lại quán sát hết thảy chúng hội, bảo các
vị Trì Kim Cang như Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ v.v… và đại chúng rằng: “Thiện nam
tử! Có Như Lai xuất thế, vô lượng tướng ngữ luân rộng dài như Ma-ni màu hay
khéo, có thể thỏa mãn hết thảy các nguyện, tích tập vô lượng phước đức, trụ
trong hạnh chẳng thể hại, là câu chân ngôn có sức ba đời khôn sánh”. Nói lời ấy
xong, các vị Chấp Kim Cang như Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ v.v… và đại chúng trong
hội đồng thanh nói rằng: “Bạch Thế Tôn1 Nay chính là đúng lúc. Bạch đấng Thiện
Thệ! Nay chính là đúng lúc”).
Từ
đây trở đi là chi phần nói về các chân ngôn cần thiết khi làm pháp sự
Mạn-đồ-la, A-xà-lê phải nên hiểu rõ. Vì thế, kế đó nói ra. Do sắp phơi bày ngữ
mật tạng của Như Lai, [đức Phật] lại quán sát trọn khắp đại chúng để gia trì.
Như sanh thân Phật khi sắp thốt lời thành thật, sẽ hiện tướng lưỡi rộng dài,
che kín cả mặt, bảo người đáng được độ rằng: “Từ trong kinh sách, ông có thấy
người có tướng như thế này mà thốt lời hư vọng hay chăng?” Nếu là trong Ma Ha
Diễn (Đại Thừa), thì hiện tướng lưỡi che phủ tam thiên đại thiên thế giới. Nay
đức Thế Tôn sắp nói lời bình đẳng của Như Lai, nhằm chỉ rõ ngữ luân ấy theo
chiều ngang lẫn chiều dọc đều trọn khắp hết thảy các pháp giới, nên nói
là “quảng trường ngữ luân tướng”. Chữ Tướng ở đây, trong bản
tiếng Phạn thì ghi là Mạn-đồ-la. Trước đó, đã khai thị Phổ Môn Mạn-đồ-la, nay
lại phô bày Phổ Môn Ngữ Mạn-đồ-la, như Như Ý Châu vắng lặng vô tâm, cũng chẳng
có tướng nhất định, mà có thể ứng hiện trọn khắp hết thảy, khiến cho [mọi chúng
sanh] đều vui sướng, thỏa lòng. Vì thế gọi là “xảo sắc Ma-ni”.
Lại
từ bản thân của xảo sắc Ma-ni phát ra xảo sắc Ma-ni ngữ, chỉ bày xảo sắc Ma-ni
tâm, mưa trọn khắp pháp tài hòng thỏa mãn các thứ mong ước của chúng sanh trong
pháp giới. Dấu tích ứng hợp chúng sanh như thế thường trọn khắp mười phương ba
đời, dùng vô lượng môn gieo các cội đức. Trong vô cùng tận thời, trụ nơi hạnh
chẳng thể hại, tức là có ý nghĩa “trong hết thảy các sự nghiệp, thảy
đều chẳng thể gây tai nạn, chẳng thể phá hoại”. Vì thế gọi là “tam
thế vô tỷ lực chân ngôn cú” (câu chân ngôn có sức mạnh ba đời khôn
sánh). Đó là nói chung chỗ xuất sanh của các chân ngôn. Còn như phần kinh văn
sau đó nói về đại lực, đại hộ v.v… chính là từ Như Ý Châu Luân xuất sanh tác
dụng tương xứng căn cơ. Lúc bấy giờ, hết thảy đại chúng tự biết cái tâm và căn khí
thuần tịnh, lại được Như Lai gia trì chẳng thể nghĩ bàn, nên kham nhận đại
pháp, lập tức dùng vô lượng môn, ai nấy cùng nhau đồng thanh thỉnh đức Phật
rằng: “Thế Tôn! Kim chánh thị thời. Thiện Thệ! Kim chánh thị thời” (Bạch
Thế Tôn! Nay đúng là phải lúc. Thiện Thệ! Nay đúng là phải lúc). Theo Phạn
bổn, “tiền thời” là Ca La, tức là thời hạn lâu dài, như một
năm được chia thành ba phần chẳng hạn. “Hậu thời” gọi là Tam
Ma Da, như tiểu thời (giờ) trong các thời, giống như trong ngày đêm sáu thời
cũng được chia thành nhỏ hơn. Như có người nói: “Nay đúng là lúc canh
tác, gặp được mưa dầm, hãy nên kịp thời gieo cấy, đừng bỏ lỡ dịp”. Do
vậy, họ nói lặp lại như thế.
(Kinh)
Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn trụ ư mãn nhất thiết nguyện, xuất quảng
trường thiệt tướng, biến phú nhất thiết Phật sát, thanh tịnh pháp tràng cao
phong quán tam-muội. Thời Phật tùng Định khởi, nhĩ thời, phát biến nhất thiết
Như Lai pháp giới ai mẫn vô dư chúng sanh giới thanh, thuyết thử đại lực đại hộ
minh phi viết:
(經)爾時毘盧遮那世尊住於滿一切願出廣長舌相遍覆一切佛剎清淨法幢高峯觀三昧。時佛從定起,爾時發遍一切如來法界哀愍無餘眾生界聲,說此大力大護明妃曰:
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn trụ trong tam-muội “pháp tràng như từ
trên đỉnh núi cao quán sát thanh tịnh, hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp hết
thảy các cõi Phật”. Khi đó, đức Phật từ Định khởi, lúc ấy, Ngài phát tiếng
thương xót chẳng sót chúng sanh trong hết thảy các pháp giới của chư Như Lai,
nói đại lực đại hộ minh phi rằng).
Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn đã tiếp nhận lời thỉnh cầu, sắp nói đại lực đại hộ minh
phi. Do vậy, Ngài trụ trong tam-muội pháp tràng như từ trên đỉnh núi cao quán
sát thanh tịnh, hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp hết thảy các cõi Phật. Ở đây
nói là “phát ra”, nhưng theo nguyên văn tiếng Phạn, nếu dịch
sát nghĩa, phải nên là “phát sanh”, hoặc dịch theo lối cũ là “phấn
tấn”[21]. Hiện
tướng lưỡi rộng dài ấy chính là Như Lai phấn tấn thị hiện sức đại thần thông
được nói theo kiểu hội ý vậy. Môn tam-muội này có tác dụng thượng thủ bậc nhất
trong tác dụng phổ môn to lớn xảo sắc Ma-ni nơi tướng lưỡi của Như Lai rộng dài
che khắp hết thảy các cõi Phật, giống như cái tràng của vị đại tướng, nên nói
là “thanh tịnh pháp tràng”.
Chữ
Đà Phạ Nhã (Dhvaja) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Tràng. Chữ Kế Đô
(Ketu) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Kỳ (旗, cờ). Hình tướng của chúng hơi khác: Tràng
chỉ dùng đủ loại biểu hiện [bằng vải, lụa, gấm vóc] nhiều màu để trang nghiêm,
còn Kế Đô thì đại để tương đồng, nhưng có thêm mật hiệu của các loại cờ quạt,
giống như binh gia vẽ các loại hình ảnh như rồng, rùa, chim, thú v.v… để làm cờ
hiệu điều khiển ba quân. Có chỗ cũng dịch Kế Đô là Tràng, cho nên nói gộp
chung. Nếu nói đầy đủ theo bản tiếng Phạn, phải nên nói là “thanh tịnh
pháp tràng kỳ”. Như ở chỗ cao ngất phía trên vị đại tướng, sẽ kiến lập
tràng kỳ, thấy trọn địa thế núi sông cao thấp, tình huống của địch nhân, chỉ
huy trăm vạn người, chuyển động, ngừng lại, phân ra, gộp vào tùy tâm, hễ chiến
đấu ắt thắng, hễ công kích ắt giành được. Nếu là vị tướng vụng về, mù mờ sự
thế, lại đánh mất tác dụng của tràng kỳ, ai nấy đều có tâm khác lạ, sẽ chẳng
tránh khỏi đại bại! Bồ Đề tâm thanh tịnh như thế là tràng kỳ của vạn hạnh, cũng
giống như thế. Trụ an ổn, vững vàng bất động trên núi Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa
Đế, dùng Kiện Hành tam-muội (Thủ Lăng Nghiêm tam-muội) quán trọn khắp mười
phương, đều thấy sự hơn kém giữa tài, tánh, và chỗ đáng nên sử dụng của vô
lượng độ môn, cùng với nhân duyên chánh đạo thông tắc giữa các địa vị. Vì thế,
có thể nhiếp trì vô lượng công đức, thủ hộ trọn khắp hết thảy chúng sanh; hễ có
làm điều gì, đều chẳng bị ngăn trở, phá hoại.
Khi
đó, đức Thế Tôn nghĩ như thế này: “Ta từ sơ phát ý tới nay, thường dùng Bồ Đề
tâm dũng kiện này để hộ trì chánh pháp và chúng sanh, trong đủ loại chuyện khổ
hạnh khó hành, giống như kim cang chẳng thoái chuyển, chính là vì thành tựu
tam-muội như thế, hộ trì trọn khắp mười phương các cõi Phật. Nay sở nguyện của
ta đều đã được trọn vẹn, nay đúng là lúc làm chuyện đáng nên làm”. Ngài lập tức
phát ra âm thanh thương xót chẳng còn thừa sót chúng sanh trong hết thảy các
pháp giới của Như Lai, nói câu trì minh pháp này: “Nếu lời ta nói thành
thật, chẳng dối, hễ có ai trì tụng, tu tập [minh chú này], sẽ khiến cho thế lực
của người ấy chẳng khác ta”. Do vậy, gọi là “đại lực, đại hộ” (sức
mạnh to lớn, thủ hộ to lớn).
[Thiện
Vô Úy] A-xà-lê nói: “Minh có nghĩa là quang minh đại huệ. Phi trong
tiếng Phạn là La Thệ (Rājñī), tức là danh
từ giống cái của chữ Vương (La Xà, Rāja). Vì thế, người truyền độ xét theo ý
nghĩa mà nói là Phi. Phi có nghĩa là tam-muội, tức là Đại Bi Thai Tạng
tam-muội. Tam-muội ấy chính là mẹ của hết thảy Phật tử. Phật tử chính là thanh
tịnh pháp tràng Bồ Đề tâm. Như thai tạng thoạt đầu là chứa đựng, che chở Ca La
La (Kalala, phôi thai), khiến cho nó chẳng bị các duyên gây thương tổn. Lần
lượt tăng trưởng cho đến khi sanh nở. Sau đó, do tâm siêng năng, kiên cố mà che
chở, nuôi nấng. Vì thế nói mẹ có ân sâu nhất, khó thể báo đáp ân đức”. Từ
tam-muội này mà phát khởi, lúc trụ hay xuất, đều là pháp giới chẳng thể nghĩ
bàn, chẳng phải như Thiền Định thế gian, động và tịch trở ngại lẫn nhau, [môn
tam-muội này] chẳng có chút nào gián đoạn, thoái thất.
(Kinh)
Nam ma tát bà thản tha nghiệt đế tế. Tát bà bội dã vi nghiệt đế tế. Vi thấp phạ
mục khế tệ. Tát bà tha hám. Khiếm ra cật sa ma ha mạt lệ. Tát bà đát tha nghiệt
đa. Bôn nật dã nễ xà đế. Hồng hồng đát ra trách, đát ra trách, a bát ra để ha đế,
sa ha.
(經)南麼薩婆坦他蘖帝𡃇。薩婆佩野微蘖帝𡃇。微濕嚩目契弊。薩婆他唅。欠囉吃沙摩訶沫麗。薩婆怛他蘖多。奔昵也儞闍帝。。吽吽怛囉磔。怛囉磔。阿鉢囉底訶帝。莎訶。
(Kinh:
Nam ma tát bà thản tha nghiệt đế tế. Tát bà bội dã vi nghiệt đế tế. Vi thấp phạ
mục khế tệ. Tát bà tha hám. Khiếm ra cật sa ma ha mạt lệ. Tát bà đát tha nghiệt
đa. Bôn nật dã nễ xà đế. Hồng hồng đát ra trách, đát ra trách, a bát ra để ha
đế, sa ha).
Câu
đầu tiên là quy mạng hết thảy các đức Như Lai. Câu kế tiếp là “có thể trừ hết
thảy các chướng và sợ hãi v.v…” nhằm tán thán hết thảy phẩm đức đại lực đại hộ
của Như Lai. Lại nữa, câu kế tiếp tán thán vô lượng pháp môn. Vi Thấp Phạ
(Viśva) cũng có nghĩa là Xảo; đó gọi là “vô lượng xảo độ môn”, tức
nghiệp dụng phổ môn của Pháp Tràng Cao Phong Quán tam-muội. Nay muốn nói minh
phi này, cho nên trước hết quy kính công đức như thế của hết thảy Như Lai.
Kế đó nói “tát bà tha” (sarvathā) nhằm nói chung công đức như
thế của chư Phật, muốn khiến cho [người nghe] cùng nhập một tự môn. Kế đó, có
hai chữ Hám (हं)
và Khiếm, đấy chính là cái Thể của chân ngôn, cũng gọi là Chủng Tử. Các câu kế
đó nhằm lần lượt giải thích hai tự môn ấy. Chữ Ha (ह) có nghĩa là “cái
nhân”, tức là “cái nhân của Đại Thừa chính là Bồ Đề tâm”. Do
hết thảy các nhân vốn bất sanh, cho đến do lìa nhân duyên, mà gọi là “Bồ
Đề tâm thanh tịnh”. Đó là cái nhân thành Phật chân thật, là chủng tử
của tràng kỳ chánh pháp. Trên [chữ Ha] đó, lại thêm một chấm Không, chính là ý
nghĩa “nhập chứng”, cho nên chuyển âm đọc thành Hám (हं,
Haṁ). Khư (ख)
là Đại Không, thêm một chấm bèn chuyển âm thành Khiếm (खं, Khaṁ), tức là chứng Đại
Không ấy, gọi là Bát Nhã Phật Mẫu, chính là ý nghĩa của minh phi: Trong hư
không tạng ấy, chứa đựng, nuôi dưỡng chủng tử của cái nhân chân thật. Đấy chính
là ý nghĩa “đại hộ”.
Lại
nữa, trong môn chữ Khư, giống như hư không rốt ráo thanh tịnh, vô sở hữu, tức
là cảnh giới thấy biết được khi nhìn từ đỉnh núi cao. Chữ Ha là Bồ Đề tràng, mà
cũng là sức tự tại. Do hai chữ ấy tương ứng, giống như đại tướng có thể phá tan
oán địch. Lại nữa, môn chữ Ha là báu Bồ Đề tâm, hòa hợp với hư không tạng trong
môn chữ Khư, thành xảo sắc Ma-ni, có thể thỏa mãn hết thảy ước nguyện. Nay
trong chân ngôn này thiếu chữ Khiếm, phần sau thì có.
Câu
kế đó nói Ra Khất Xoa (Rakṣa, tức “ra
cật sa” trong lời chú), tức là ý nghĩa “ủng hộ”. Như
người mắc nạn sợ hãi, nếu nương cậy người có thế lực lớn, hoặc có thành cao,
hào sâu kiên cố, sẽ thanh thản, không lo lắng. Lũ oán địch tuy dùng đủ loại
phương tiện, chẳng làm được gì! Hành nhân cũng thế, nương dựa Bồ Đề tâm vương,
dùng Thai Tạng Bát Nhã làm thành quách, giống như hư không chẳng thể phá hoại;
đấy chính là giải thích ý nghĩa trước đó. Câu kế đó là Ma Ha Mạt Lệ (Mahābale),
dịch nghĩa là “đại lực”. Chữ Ha [hàm nghĩa] trong Bồ Đề tâm
trọn đủ hết thảy các Như Lai lực, nay kết hợp với chữ Khư, [có nghĩa là] lìa
các trói buộc, chẳng còn vướng mắc, như gió trên hư không tự tại xoay chuyển.
Do vậy gọi là Đại Lực. Lại nữa, do sức tự tại nơi chữ Ha và vô lượng xảo độ môn
của chữ Khư hòa hợp, giống như lực sĩ trọn đủ ngàn loại kỹ năng. Do vậy, mọi
người không ai có thể thắng được, nên gọi là Đại Lực. Câu thứ bảy nhằm giải
thích nguyên do của đại lực. Do vậy nói: “Hết thảy sanh từ công đức của
Như Lai”, [hàm ý]: Sức đại kiên cố ấy vốn giống như sanh từ chủng tánh
Kim Cang của chư Phật. Lại còn từ vô lượng kiếp đến nay, thường dùng chân ngôn
chữ Ha này làm cái nhân chân thật để tu trọn vạn đức nơi pháp tự, mỗi mỗi đều
như kim cang chẳng thể phá hoại. Nay các đức đã mãn, các sức đều đủ, lại sẽ
dùng Pháp Tràng Cao Phong Quán tam-muội ấy để mạnh mẽ đập tan oán địch của pháp
giới, thủ hộ trọn khắp chúng sanh.
Kế
đó chính là thốt ra lời thành thật, tức là chữ Hồng Hồng. Hồng (हूं, Hūṃ) là
âm thanh khủng bố, cho nên nhắc lại hòng: Một là đập tan ngoại chướng, hai là
đập tan nội chướng. Lại nữa, ngoài là Phiền Não Chướng, trong là Trí Chướng.
Nếu giải thích theo tự môn, Như Lai dùng pháp gì để đe dọa các chướng? Tức là
dùng môn chữ Ha này. Dưới chữ này có vạch tam-muội (ू, ū) chính là tu trọn vạn hạnh, trên có cái chấm
Đại Không (ं, ṃ) tức là đã thành tựu vạn đức. Chữ Ha[22] chính là Pháp Tràng Kỳ
tam-muội, do Không điểm (cái chấm Đại Không) kết hợp nên chính là Cao Phong
Quán tam-muội. Chữ Ha là chủng tử của hết thảy các đức Như Lai, cái chấm trên
chữ đó là mẹ minh phi, nét vạch ở dưới là thai phần ngày một tăng trưởng. Do ý
nghĩa như thế, vừa phát ra âm thanh, ma quân tan hoại.
Kế
đó nói Thản Ra Trá (Trāṭ, phần chú ngữ phiên âm là “đát ra trách”)
có nghĩa là “quát mắng nhiếp phục”. Như lúc sư tử cáu giận, rống to, các loài
thú không gì chẳng bị nhiếp phục. Đấy cũng là nhắc lại, tức là đối trị căn bản
phiền não, tùy phiền não, cho đến đối trị hết thảy phiền não, giới nội phiền
não, giới ngoại phiền não. Câu cuối cùng là A Bát Ra Để Ha Đế (Apratihate) tức
là nghĩa “sức chẳng thể đối địch, chẳng thể sánh bằng” nhằm kết lại các câu
trên. Do nhân duyên ấy, gọi là Đại Lực Đại Hộ minh phi. Sa Ha (Svāhā) là nhắc
nhở chư Phật chứng minh, cũng là ý nghĩa “ức niệm, thọ trì” như
trong phần trước đã giải thích.
(Kinh)
Thời nhất thiết Như Lai cập Phật tử chúng thuyết thử minh dĩ, tức thời, phổ
biến Phật sát lục chủng chấn động.
(經)時一切如來及佛子眾說此明已,即時普遍佛剎六種震動。
(Kinh:
Khi đó, hết thảy Như Lai nói với các Phật tử minh chú ấy xong, ngay lập tức
trọn khắp cõi Phật sáu loại chấn động).
Khi
Đại Nhật Như Lai phát ra tiếng trọn khắp pháp giới ấy, hết thảy chư Phật, Bồ
Tát do cảnh giới vô nhị, thảy đều đồng thanh mà cùng nói. Nay câu gia trì này
oai thế trọn đủ, lại dùng lời chân thành của Như Lai, tức thời mười phương cõi
Phật chấn động sáu cách, nhằm nêu tỏ đại thệ của Phật chân thật, chẳng dối. Đối
với ý nghĩa của sáu loại chấn động, các kinh khác đã nói đầy đủ các tướng ấy.
Nay theo cách giải thích bí mật trong tông này, “sáu loại” chính
là sáu loại căn bản phiền não: Tham, sân, si, kiến, mạn, nghi. Tâm địa của hết
thảy chúng sanh thường bị các thứ cấu nặng nề ấy nắm giữ, chẳng thể tự khởi,
nay do được đức Thế Tôn chí thành cảm động, thảy đều nứt vỏ, Phật chủng nẩy
mầm. Vì thế nói là “lục chủng chấn động”.
(Kinh)
Nhất thiết Bồ Tát đắc vị tằng hữu khai phu nhãn, ư chư Phật tiền, dĩ duyệt ý
ngôn âm, nhi thuyết kệ ngôn:
(經)一切菩薩得未曾有開敷眼,於諸佛前。以悅意言音而說偈言:
(Kinh:
Hết thảy các Bồ Tát do được mở mắt chưa từng có, ở trước chư Phật, dùng tiếng
nói đẹp ý mà nói kệ rằng).
Lúc
bấy giờ, hết thảy các vị Bồ Tát thấy hai loại nhân duyên đất chấn động nông cạn
và sâu xa, bí mật ấy, không ai tâm chẳng tự bừng nở, đạt được điều chưa từng
có, dùng lời kệ vi diệu ca ngợi Đại Nhật Thế Tôn. Kinh nói “ư Phật
tiền” (ở trước Phật) tức là khi đức Phật (Đại Nhật Như Lai) nói minh
chú ấy, các vị Bồ Tát trong mười phương thế giới cũng đều thấy Phật trong cõi
mình đối trước họ mà nói. Vì thế, cùng một âm thanh, cùng lúc lãnh ngộ, tín
giải, liền nhờ vào phần kinh văn này để chứng thành oai lực đại hộ.
(Kinh)
Chư Phật thậm kỳ đặc, thuyết thử đại lực hộ, nhất thiết Phật hộ trì, thành trì
giai cố mật. Do bỉ hộ tâm trụ, sở hữu vi chướng giả, Tỳ Na Dạ Ca đẳng, ác hình
chư La Sát, nhất thiết giai thoái tán, niệm chân ngôn lực cố. (經)諸佛甚奇特,說此大力護,一切佛護持,城池皆固密。由彼護心住,所有為障者,毘那夜迦等,惡形諸羅剎,一切皆退散,念真言力故。
(Kinh:
Chư Phật rất đặc biệt, nói đại lực hộ này, hết thảy Phật hộ trì, thành trì đều
kín chắc. Do thủ hộ tâm trụ, tất cả kẻ gây chướng, Tỳ Na Dạ Ca thảy, La Sát
dáng hung ác, hết thảy đều tan lui, do sức niệm chân ngôn).
Trong
phần kệ lãnh ngộ, câu “chư Phật thậm kỳ đặc” (chư Phật rất đặc
biệt, lạ lùng), nói đủ theo bản tiếng Phạn phải là “lạ thay! Hết thảy chư
Phật”. “Thuyết thử đại lực hộ” (nói đại lực đại hộ này) tức là
các vị Bồ Tát trong hết thảy các thế giới thảy đều đồng thời lãnh ngộ chân ngôn
do mười phương hết thảy chư Phật đã nói. Do mười phương chư Phật cùng hộ trì, giống
như tường thành kim cang kiên cố, cao vút chẳng thể bay qua, lại còn do hào
mương sâu thẳm chẳng thể vượt được! Do vậy, hết thảy các kẻ gây chướng chẳng
thể xâm lăng! “Do bỉ hộ tâm trụ” (do chân ngôn ấy thủ hộ cái
tâm mà trụ) tức là các hành nhân có thể dùng chân ngôn và mật ấn này để thủ hộ
thân tâm mà trụ. Do vậy, tất cả kẻ gây chướng, các Tỳ Na Dạ Ca, bọn La Sát hình
dáng hung ác v.v… đều tự nhiên lui tan. Lại nữa, chữ Trụ này nếu xét theo âm
tiếng Phạn thì cũng là Tại, tức là “trấn trong cái tâm này”. Nếu
giải thích theo ý nghĩa sâu xa thì là nói người có cái tâm Bồ Đề thanh tịnh do
dùng thật nghĩa của minh phi này để hộ tâm mà trụ. Vì thế, ba loại trọng
chướng, các ác La Sát v.v… thảy đều tan chạy, chẳng thể tổn thương thiện căn;
thậm chí khi sanh tâm nghĩ nhớ thì cũng có thế lực như vậy. Do đó, câu cuối
cùng chính là lời kết luận vậy.
(Kinh)
Thời Bạc Già Phạm quảng đại pháp giới gia trì, tức ư thị thời, trụ Pháp Giới
Thai Tạng tam-muội. Tùng thử Định khởi, thuyết Nhập Phật Tam-muội-da Trì Minh
viết:
(經)時薄伽梵廣大法界加持,即於是時住法界胎藏三昧。從此定起,說入佛三昧耶持明曰。
(Kinh: Khi
đó, đức Bạc Già Phạm gia trì pháp giới rộng lớn, liền lập tức trụ trong Pháp
Giới Thai Tạng tam-muội. Từ môn Định ấy khởi, nói Nhập Phật Tam-muội-da Trì
Minh rằng:).
Chữ
Tỳ Phú La (Vipula)[23] trong tiếng Phạn có
nghĩa là “rộng lớn”, tức là sâu rộng không ngằn mé, chẳng thể dò lường! Tự
thể của các pháp như thế thì gọi là Tỳ Phú La pháp giới. Thật Tướng của chư
Phật, Thật Tướng của chân ngôn, Thật Tướng của chúng sanh đều là Tỳ Phú La pháp
giới. Do dùng những điều này cùng gia trì, nên gọi là “pháp giới gia
trì”. Lại nữa, như do nhân duyên nam nữ giao hội, chủng tử gá vào thai
tạng, chẳng bị mất đi, hư hoại, tức là ý nghĩa gia trì lẫn nhau. Cũng như thế,
chư Phật là quốc vương và minh phi hòa hợp, cùng sanh chủng tử Tỳ Phú La, được
Đại Bi Thai Tạng duy trì chẳng bị mất đi, hư hoại. Vì thế gọi là “pháp
giới gia trì”. Đức Thế Tôn gia trì trọn khắp hết thảy chúng sanh, đều tạo
chủng tử bình đẳng xong, tức thời nhập trọn khắp Pháp Giới Thai Tạng tam-muội,
quán mỗi mỗi chủng tử ấy đều là quyến thuộc phổ môn vô tận trang nghiêm của đức
Tỳ Lô Giá Na trên đài hoa sen, cũng bình đẳng chẳng khác Đại Bi Mạn-đồ-la.
Nhưng các chúng sanh chẳng thể tự chứng biết; do vậy gọi là “ở trong
thánh thai câu xá”. Nếu lúc ra khỏi thai tạng, tức là sự giải thoát
của Như Lai. Đức Thế Tôn thị hiện quán sát như thế xong, lập tức xuất tam-muội,
nói tam-muội-da trì minh.
Tam-muội-da
(Samaya) có nghĩa là bình đẳng, có nghĩa là bổn thệ, nghĩa là trừ chướng, có
nghĩa là cảnh giác. Nói “bình đẳng” tức là khi Như Lai hiện
chứng tam-muội này, thấy các loại thân, ngữ, ý của hết thảy chúng sanh thảy đều
bình đẳng với Như Lai, Thiền Định, trí huệ và thân Thật Tướng rốt ráo bình
đẳng. Vì thế, thốt lời chân thành bảo ban chúng sanh: “Nếu lời ta nói
nhất định chẳng dối, sẽ khiến cho hết thảy chúng sanh khi nói ra lời thành thật
này, cũng được Tam Mật gia trì, vô tận trang nghiêm bằng với Như Lai”. Do
nhân duyên ấy, có thể làm sự nghiệp kim cang, nên gọi là tam-muội-da.
Nói “bổn
thệ” tức là khi Như Lai thấy, chứng tam-muội này, thấy hết thảy chúng
sanh đều có nghĩa lý “thành Phật”, ngay lập tức lập đại thệ nguyện rằng: “Nay
ta sẽ từ Phổ Môn dùng vô lượng phương tiện khiến cho hết thảy chúng sanh đều
đạt tới Vô Thượng Bồ Đề. Do chúng sanh chẳng cùng tận, sự nghiệp của ta trọn
chẳng ngưng nghỉ. Nếu khi có chúng sanh thuận theo bổn thệ của ta mà thốt ra lời
thành thật này, cũng sẽ khiến cho sự nghiệp do người ấy thực hiện đều thành kim
cang tánh”. Vì thế gọi là tam-muội-da. Nói “trừ chướng” là
do Như Lai thấy “hết thảy chúng sanh đều có Pháp Thân của Như Lai, chỉ vì một
niệm vô minh nên thường đối trước mắt mà chẳng hay biết”. Do vậy, thốt lời
thành thật rằng: “Ta nay phải nên lập đủ loại phương tiện, vì khắp hết
thảy chúng sanh nạo bỏ màng mộng che mắt. Nếu thệ nguyện của ta ắt sẽ thành
tựu, sẽ khiến cho các chúng sanh khi thuận theo phương tiện của ta mà nói lời
thành thật này, thậm chí ngay trong một đời, sẽ đạt được vô cấu nhãn, cái
chướng đều hết sạch”. Vì thế, gọi là tam-muội-da.
Nói “cảnh
giác” nghĩa là Như Lai do hết thảy chúng sanh đều đang chìm trong giấc
ngủ vô minh, đối với công đức như thế, chẳng tự hay biết, cho nên Ngài dùng lời
chân thành để cảm động, khiến họ được tỉnh ngộ. Cũng dùng điều này để cảnh
tỉnh, giác ngộ các vị Bồ Tát, khiến cho họ vùng dậy khỏi hang Thiền Định sâu
thẳm, học theo sư tử vươn mình. Nếu có hành nhân Chân Ngôn nói tam-muội-da này,
chư Phật chúng ta cũng sẽ nhớ nghĩ, gìn giữ bổn thệ, chẳng thể trái vượt, giống
như quốc vương đã tự chế pháp tắc xong, lại tự mình kính thuận hành theo, nên
gọi là tam-muội-da. “Trì minh” trong tiếng Phạn là Đà La Ni, ý
nói: “Tổng trì hết thảy minh môn, minh hạnh, cho tới trọn hết
tam-muội-da thệ nguyện này, trọn chẳng rò rỉ, mất mát”. Vì thế, gọi là Nhập
Phật Tam-muội-da Trì Minh.
(Kinh)
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A tam mê. Đát rị tam mê. Tam ma duệ. Sa ha.
(經)南麼三曼多勃馱喃。阿三迷。呾唎三迷。三麼曳。莎訶。
(Kinh:
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A tam mê. Đát rị tam mê. Tam ma duệ. Sa ha).
Câu
đầu tiên là tự quy mạng hết thảy chư Phật như trong phần trước đã giải thích.
Câu kế đó nói vô đẳng, câu kế đó là ba thứ bình đẳng. Liên kết các câu ấy lại,
sẽ là Vô Đẳng Tam Bình Đẳng tam-muội-da. Lại nữa, A nghĩa là “các pháp vốn bất
sanh”, tức là thể tánh của pháp giới. Sa có nghĩa là “chắc thật”. Mê có nghĩa
là tam-muội. Ma là tự chứng Đại Không, cũng có nghĩa là Ngã. Khi đức Thế Tôn
chứng tam-muội này, đế quán “tâm lực phổ môn mạn-đồ-la của mỗi chúng sanh đều
bằng với ta”. Vì thế, chẳng có đối đãi, chẳng thể sánh ví, gọi là “vô
đẳng”. “Tam đẳng” tức là ba đời bình đẳng, ba nhân bình đẳng, ba
nghiệp đạo bình đẳng, ba thừa bình đẳng, tức là để giải thích cho câu trước đó,
nên có ý nghĩa là “vô đẳng”. Đát Rị (Tri) có nghĩa là “tâm
như Thật Tướng”. Hết thảy trần cấu vốn bất sanh, các loại phương tiện
của tam thế Như Lai thảy đều vì một đại sự nhân duyên, tức là ý nghĩa “trừ
chướng”. [Minh chú được] kết lại bằng “tam-muội-da”, tức
là nhất định sẽ sư tử hống để nói ý nghĩa “các pháp bình đẳng”, lập
đại thệ nguyện “sẽ khiến cho hết thảy đều được như ta, muốn cho trọn
khắp chúng sanh khai tri kiến thanh tịnh”, dùng điều này để cảnh giác
chúng sanh và chư Phật. Do vậy, tam-muội-da này có tên là Nhất Thiết Như Lai
Kim Cang Thệ Thành. Nếu chẳng niệm trì trước, sẽ chẳng thể làm hết thảy các
pháp sự chân ngôn.
(Kinh) Tức
ư nhĩ thời, ư nhất thiết Phật sát, nhất thiết Bồ Tát chúng hội
chi trung, thuyết thử nhập tam-muội-da minh dĩ, chư Phật tử đẳng đồng văn
thị giả, ư nhất thiết pháp bất vi việt.
(經)即於爾時,於一切佛剎一切菩薩眾會之中說此入三昧耶明已,諸佛子等同聞是者,於一切法而不違越。
(Kinh: Ngay
khi đó, trong hết thảy cõi Phật, trong hết thảy chúng hội của các Bồ Tát, [đức
Thế Tôn] nói nhập tam-muội-da minh này xong, các Phật tử đều cùng nghe [minh
chú] này, chẳng trái vượt hết thảy các pháp).
Đức
Thế Tôn dùng thân ngữ tâm luân trọn khắp hết thảy các cõi Phật để nói
tam-muội-da này xong, hết thảy các vị Phật tử không ai chẳng được nghe. Đã nghe
như thế xong, chẳng dám trái vượt hết thảy các pháp chân ngôn. Vì lẽ nào vậy?
Nếu Bồ Tát trong các pháp của chúng sanh mà khởi lên đủ loại kiến chấp bất bình
đẳng, tức là trái vượt pháp tam-muội-da. Nếu trong bình đẳng thệ này mà khởi đủ
loại tâm hạn lượng, thì cũng là vượt pháp tam-muội. Các việc làm đều tùy thuận
danh lợi thế gian, chẳng vì đại sự nhân duyên, thì cũng là vượt pháp
tam-muội-da. Buông lung, lười nhác, chẳng thể cảnh tỉnh, giác ngộ cái tâm này,
cũng là vượt khỏi pháp tam-muội-da. Do vượt tam-muội-da, sẽ có đủ loại chướng
sanh khởi, tự tổn, tổn người, chẳng có nghĩa lợi. Vì thế, các hàng Bồ Tát phụng
trì tam-muội-da này như thủ hộ thân mạng, chẳng dám trái vượt!
(Kinh)
Thời Bạc Già Phạm phục thuyết Pháp Giới Sanh chân ngôn.
(經)時薄伽梵復說法界生真言。
(Kinh:
Khi đó, Bạc Già Phạm lại nói Pháp Giới Sanh chân ngôn).
Trrong
phần trước, khi đức Thế Tôn nhập Pháp Giới Thai Tạng tam-muội, thấy hết thảy
chúng sanh đều có chủng tử Bồ Đề bằng với chư Phật, cho nên nói Nhập Phật
Tam-muội-da Trì Minh. Do trì minh ấy, [chúng sanh] được nhập vào các giới bình
đẳng của Phật, tức là ý nghĩa “nương gá thánh thai”. Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn lại dùng Phổ Nhãn để quán chắc thật hết thảy chúng sanh, [thấy
họ] thảy đều là thánh thai trọn đủ, sanh trong nhà Phật. Lúc đó, vô tận trang
nghiêm cũng lại bằng với Như Lai. Đã từ tam-muội ấy khởi, bèn nói Pháp Giới
Sanh chân ngôn. Lại dùng Phổ Nhãn để quán chắc thật, thấy mỗi chúng sanh ấy đều
thành tựu trọn đủ kim cang sự nghiệp. Lúc bấy giờ, vô tận trang nghiêm cũng lại
bằng với Như Lai. Từ tam-muội ấy khởi, liền nói Kim Cang Tát Đỏa chân ngôn. Do
vậy, ba thứ ấy đều được gọi là tam-muội-da. Lại nữa, do Nhập Phật Tam-muội-da,
khiến cho chẳng chết yểu trong thai tạng. Do sanh từ pháp giới, lúc mới ra khỏi
thai, lìa các chướng ngại. Do Kim Cang Tát Đỏa có thể chuyển biến gia nghiệp,
trọn đủ các nghề khéo. Lại do Nhập Phật Tam-muội-da gia trì bí mật Trung Thai
Tạng, dùng Pháp Giới Sanh gia trì hai tầng quyến thuộc của Kim Cang và Bồ Tát.
Dùng Kim Cang Tát Đỏa gia trì đủ loại hình sắc theo từng loài, Nhập Phật
Tam-muội-da như liên hoa tạng, Pháp Giới Sanh như hoa sen nở, Kim Cang Tát Đỏa
như hoa sen thành tựu, lại trở thành chủng tử. Vì vậy, ba thứ ấy đều gọi là
tam-muội-da.
(Kinh)
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma đà đổ, tát phạ bà phạ cú ngân.
(經)南麼三漫多勃陀喃。達摩馱賭。薩嚩婆嚩句痕。
(Kinh:
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma đà đổ, tát phạ bà phạ cú ngân.
Đạt
Ma Đà Đổ (Dharmadhātu) nghĩa là “pháp giới”. Tát Phạ Bà Phạ
(Svabhāva) là tự tánh, cũng gọi là bản tánh. Cú Ngân (Ko’haṃ) nghĩa là
Ngã. Câu này có nghĩa “Ngã là tự tánh của pháp giới”. Dùng
nhất định sư tử hống để nói “ta và hết thảy chúng sanh đều là pháp giới
tự tánh”, có nghĩa là bình đẳng. Ta sẽ lập đủ loại phương tiện, khiến
cho hết thảy chúng sanh thảy đều chứng biết; đó là ý nghĩa “bổn thệ”. Do
biết ta chính là pháp giới tự tánh, sẽ có thể trừ hết thảy phân biệt, mở mang
tri kiến thanh tịnh. Đó là ý nghĩa “trừ chướng”. Chư Phật chỉ
nguyện nghĩ nhớ bổn nguyện, nên khiến cho thân này của ta liền giống như pháp
giới tự tánh của đức Tỳ Lô Giá Na. Đấy chính là ý nghĩa “cảnh giác”.
Hãy nên dùng tự môn để giải thích rộng rãi!
(Kinh)
Kim Cang Tát Đỏa gia trì chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn,
phạt chiết ra đát ma cú ngân.
(經)金剛薩埵加持真言曰:南麼三漫多伐折囉𧹞。伐折囉呾麼句痕。
(Kinh:
Kim Cang Tát Đỏa gia trì chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn,
phạt chiết ra đát ma cú ngân).
Trong
câu đầu tiên, do sắp nói về chân ngôn của ngài Kim Cang Tát Đỏa, cho nên quy
mạng hết thảy Kim Cang (Namaḥ samantavajrāṇāṃ,
nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn). Tức là từ vô lượng môn, trì Kim Cang Trí
của Như Lai đều khiến cho nghĩ nhớ, chấp trì, hộ niệm. Câu kế đó, nói “phạt
chiết ra đát ma câu ngân” (Vajrātmako ’ham) chính là “thân ta giống như kim
cang”. Kim cang chính là pháp giới tự tánh, do thành tựu sức đại kiên
cố chẳng thể phá hoại, các môn khác bèn nói [pháp giới tự tánh] là “kim
cang”. Như Lai dùng Phổ Nhãn của Như Lai để quán trí thể kim cang của
hết thảy chúng sanh chẳng khác ta; đó là nghĩa “bình đẳng”. Do
chúng sanh chẳng tự hay biết, [Như Lai bèn] từ vô lượng kim cang trí môn, thực
hiện đủ loại kim cang sự nghiệp, muốn dẹp tan đại chướng như thế, hòng [chúng
sanh] đạt tới Thật Tế. Đó là ý nghĩa “bổn thệ”. Thật Tế như
thế gọi là vô cấu nhãn, hoặc kim cang nhãn, tức là ý nghĩa “trừ
chướng”. Dùng âm thanh sư tử hống ấy chấn động mười phương cõi Phật,
tức là ý nghĩa “cảnh giác”. Vì thế, gọi là tam-muội-da.
Lại
nữa, hành giả Chân Ngôn do môn tam-muội-da đầu tiên mà đạt được thân “thân,
khẩu, ý bí mật” bình đẳng với Như Lai. Do môn tam-muội-da thứ hai, đạt
được thân tôn đặc ngự trong pháp giới cung do Như Lai gia trì. Do môn
tam-muội-da thứ ba, khiến cho thân và cõi nước đều như kim cang, và vô lượng
các vị Trì Kim Cang tự vây quanh. Đức Phật nói môn tam-muội-da đầu tiên là để
tự thọ dụng, môn tam-muội-da thứ hai nhằm thành tựu các vị Bồ Tát pháp tánh
thân. Môn tam-muội thứ ba là vì chiết phục, nhiếp thọ các chúng sanh theo từng
loài. Đức Phật nói môn tam-muội-da đầu tiên nhằm kiến lập Đại Bi Thai Tạng
Mạn-đồ-la, môn tam-muội-da thứ hai nhằm thực hiện sự nghiệp A-xà-lê của đức Tỳ
Lô Giá Na, môn tam-muội-da thứ ba vì sự nghiệp đệ tử của Chấp Kim Cang. Môn
tam-muội-da đầu tiên nhằm gia trì quyến thuộc của Như Lai. Môn tam-muội-da thứ
hai nhằm gia trì quyến thuộc Liên Hoa. Môn tam-muội-da thứ ba nhằm gia trì
quyến thuộc Kim Cang. Do vậy, đức Phật nói ba môn tam-muội-da.
Kế
đó, nói Kim Cang Khải chân ngôn để trang nghiêm thân Kim Cang Tát Đỏa. Hành
nhân đã phát kim cang thệ nguyện, muốn vì hết thảy chúng sanh diệt tan các
chướng, do kiên cường tinh tấn, bèn mặc kim cang giáp trụ. Lại như Lục Ba La
Mật, mỗi môn đều như Thật Tướng, đều như kim cang chẳng thể phá hoại. Lại còn
trong mỗi Độ, đều trọn đủ năm Độ kia. Vì thế, khắp thân dày đặc kín kẽ, chẳng
có kẽ hở. Giống như Lục Độ, ba mươi bảy phẩm, mười tám Không, một trăm lẻ tám
tam-muội, năm trăm đà la ni v.v… đều sẽ rộng nói. Do mặc kim cang giáp của Như
Lai, xoay vần xuất sanh nhập tử trong lục đạo, nhưng hết thảy phiền não nghiệp
khổ chẳng thể thương tổn. Nếu giải thích nông cạn, sơ lược thì là hành nhân do
dùng chân ngôn này để tự gia trì, sẽ được hết thảy các trời, rồng v.v… thấy
người ấy giống như thân Kim Cang Tát Đỏa, khắp thân đều khoác kim cang giáp trụ
cứng dày không ngằn mé như lửa cháy rực. Do vậy, hết thảy kẻ gây chướng chẳng
thể thương tổn được!
(Kinh)
Kim Cang Khải chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, phạt chiết
ra ca phạ giá hồng.
(經)金剛鎧真言曰:南麼三漫多伐折囉𧹞。伐折囉迦嚩遮吽。
(Kinh:
Chân ngôn áo giáp Kim Cang là: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, phạt
chiết ra ca phạ giá hồng).
Phạt
Chiết Ra (Vajra) là kim cang, Ca Phạ Giá (Kavaca) là giáp. Như Lai dùng kim
cang nhãn quán khắp chúng sanh, không ai chẳng mặc giáp trụ kim cang này. Do
vậy, dùng lời thành thật để diễn nói. Dùng chữ Phạ (व, Va) tối sơ làm cái Thể
của chân ngôn, Phạ nghĩa là “các pháp lìa ngôn thuyết”. Nếu là
hành xứ của ngôn thuyết hý luận, sẽ đều có thể phá cái có thể chuyển, chẳng có
kiên cố. Do vậy, lấy chữ Phạ làm Thể. Các chữ kế đó đều nhằm lần lượt giải
thích. Vì sao các pháp lìa ngôn thuyết? Do sanh bất khả đắc. Cớ sao sanh bất
khả đắc? Do tự tánh thanh tịnh. Tự tánh thanh tịnh chính là thân Kim Cang Tát
Đỏa. Kế đó, nói về ý nghĩa của Giáp. Nếu pháp do tạo tác mà thành, hãy nên biết
nó chỉ có giả danh, biến thiên theo duyên, còn chẳng thể kiên cố tánh của nó, huống
hồ có thể ngăn chặn mũi tên nhọn của sáu trần ư? Nay quán kim cang thể vô tận
trang nghiêm, thảy đều lìa khỏi các tạo tác. Do vậy, kiên cố, bất hoại, bách
phi chẳng thể liên can. Do vậy gọi là kim cang giáp trụ. Chữ Hồng cuối cùng
chính là tiếng vô sở úy, cũng có nghĩa là “sức tự tại”. Khi
dùng Định Huệ trọn đủ để chứng môn chữ Ha này, tự biết ắt sẽ có thể dẹp tan các
chướng, thủ hộ trọn khắp chúng sanh. Do vậy, đại hoan hỷ!
Kế
đó nói Như Lai Nhãn chân ngôn, như kim xí điểu vương oai lực trọn đủ, lông vũ
hoàn bị, cứng cáp, lại có con mắt tột bậc sáng suốt, nhạy bén, ở trong hư không
ngó nhìn biển cả như nhìn vào hình bóng trong gương, có thể tùy ý tự tại bắt
lấy các rồng. Hãy nên biết hành nhân Chân Ngôn cũng lại giống như thế, do được
tịnh nhãn của Như Lai tự gia trì, Mạn-đồ-la hải hội hiện ra trước mắt, thấy
trọn hết thảy căn duyên và pháp chướng đạo, do sự nghiệp kim cang này mà tùy ý
đều thành. Vì thế, kế tiếp bèn nói [chân ngôn ấy].
(Kinh)
Như Lai nhãn hựu quán chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha
yết đa chước cật sô, vĩ dã phạ lộ ca dã, sa ha.
(經)如來眼又觀真言曰:南麼三漫多勃陀喃。怛他揭多斫吃蒭。尾也嚩路迦也。莎訶。
(Kinh:
Như Lai nhãn lại quán chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha
yết đa chước cật sô, vĩ dã phạ lộ ca dã, sa ha).
Trong
cú nghĩa trên đây, Đá Tha Yết Đa Chước Cật Sô (Tathāgatacakṣu) là mắt của Như
Lai. Kế đó nói Vĩ Dã Lộ Ca Dã (Vyāvalokaya) có nghĩa là Quán. Ý nói “dùng
mắt Như Lai để quán”. Dùng chữ Đa tối sơ để làm Thể, Đa nghĩa là “các
pháp Như Như”. Do hết thảy các pháp vốn bất sanh, tức là cái Như Như
ấy cũng chẳng thể được. Do vậy, Như Lai quán hết thảy các pháp rốt ráo chẳng
Như, chẳng khác; tuy chẳng thể thấy mà cũng thấy rõ. Như chư Phật, mắt của các
chúng sanh cũng thế. Nếu lúc hành giả nói lời chân thật này, sẽ được mắt Phật
chẳng thể nghĩ bàn gia trì, sẽ dần dần đạt được mắt thanh tịnh.
Kế
đó, có sáu loại chân ngôn như Đồ Hương v.v… đều là chân ngôn cần thiết khi vào
Mạn-đồ-la tu cúng dường, cho nên được nói trong phẩm này.
(Kinh)
Đồ hương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vi thâu đà kiện đỗ nạp
bà phạ, sa ha.
(經)塗香真言曰:南麼三漫多勃陀喃。微輸馱健杜納婆嚩。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn hương bôi là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vi thâu đà kiện đỗ nạp
bà phạ, sa ha).
Trong
cú nghĩa trên đây, Vi-thâu-đà (Viśuddha) nghĩa là tịnh, kiện-đỗ (gandha) là
hương, nạp-bà-phạ (odbhava) nghĩa là phát sanh, tức là nói “phát
sanh hương thanh tịnh”. Do câu chú này dùmg chữ Vi đầu tiên làm Thể, trên
chữ Phạ (व,
Va) lại thêm vạch chữ Y (ि), nên chuyển thanh thành Vi (वि).
Chữ Phạ nghĩa là Kim Cang, là ý nghĩa “lìa ngôn thuyết”. Tam-muội[24] nghĩa là trụ. Định và Huệ cân
bằng như thế, tức là trí giới Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang tam thế vô chướng
ngại. Giới hương như thế tánh vốn tịch tĩnh, chẳng đến, chẳng đi, mà thường
trọn khắp pháp giới, nên gọi là “hương bôi thanh tịnh”. Hết
thảy chúng sanh tuy bình đẳng cùng có, nhưng do chưa phát tâm, hương ấy chưa
phát. Ta nay dùng giới hương này để bôi khắp Pháp Thân, cho nên có thể xông
hương thanh tịnh trọn khắp hết thảy!
Kế
đó là Hoa chân ngôn.
(Kinh)
Hoa chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma ha muội đát rị dã tỳ dữu
nghiệt đế, sa ha.
(經)華真言曰:南麼三曼多勃馱喃摩訶。妹呾唎也。毘庾蘖帝。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn về hoa là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma ha muội đát rị dã tỳ
dữu nghiệt đế, sa ha).
Trong
cú nghĩa trên đây, Ma Ha Muội Đát Rị (Mahāmaitriya) có nghĩa là Đại Từ. Tỳ Dữu
Nghiệt Đế (bhyudgate) có nghĩa là Sanh, tức là ý nghĩa “do đại từ sanh
ra”. Do lấy chữ Muội (मै, Mai) làm cái Thể của chân ngôn, tức là
chữ Mãng (म,
ma) thêm nét tam-muội. Vì thế, chuyển âm để đọc. Mãng có nghĩa là tâm, là tôi,
cũng là Đại Không. Ý nói tâm liên hoa này bị vọng ngã buộc ràng, chẳng thể tăng
trưởng, nay do tự chứng biết Thật Tướng của tâm, từ tám cánh sen và tua nhụy
trong từ bi tạng theo thứ tự nở xòe, nên nói là “sanh bởi đại từ”. Lại
nữa, chủng tử thụ vương thuộc Bồ Đề tâm thanh tịnh từ đất từ bi mà tăng trưởng
sum suê, nở xòe hoa vạn đức, do phương tiện nên kết trái, nên nói là “sanh
từ đại bi”. Hãy nên dùng tự môn để giải thích rộng rãi. Kế đó là chân
ngôn về hương đốt.
(Kinh)
Thiêu hương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma đà đổ nỗ
nghiệt đế, sa ha.
(經)燒香真言曰:南麼三漫多勃陀喃。達摩馱賭弩蘗帝。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn về hương đốt là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma đà đổ nỗ
nghiệt đế, sa ha).
Trong
cú nghĩa trên đây, Đạ Ma Đà Đổ (Dharmadhātu) nghĩa là pháp giới, Nỗ Nghiệt Đế
(Anugate) là “tùy chí” (theo đến), cũng có nghĩa là “biến
chí” (tới trọn khắp), cũng có nghĩa Thệ (逝, đi qua), là tiến lên chẳng ngừng, dịch
thành Biến Chí Pháp Giới (tới trọn khắp pháp giới). Do câu đầu dùng chữ Đạt (ध,
Dha) làm Thể, do chúng sanh giới vốn chẳng sanh, cho tới tướng nhất định của
pháp giới cũng chẳng thể được. Pháp giới như thế sâu rộng chẳng có ngằn mé,
chẳng thể đo lường, mà hành nhân Du Già luôn tiến lên thù thắng chẳng ngưng
nghỉ, thân ngữ tâm nghiệp đều trọn khắp pháp giới như thế. Cho tới lúc dùng một
đóa hoa cúng dường Phật thì cũng trọn khắp pháp giới như thế, tức là ý
nghĩa “thiêu hương” vậy! Kế đó là ẩm thực chân ngôn.
(Kinh)
Ẩm thực chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ra la, ca
la la, mạt lân nại na mị, mạt lân nại nê, ma ha mạt lý, sa ha.
(經)飲食真言曰:南麼三漫多勃陀喃。阿囉羅。迦羅羅。沫隣捺娜弭。沫隣捺泥。摩訶沫履。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn về thức ăn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ra la, ca
la la, mạt lân nại na mị, mạt lân nại nê, ma ha mạt lý, sa ha).
Trên
đây, trước hết nói A Ra La (Arara) có nghĩa là “tiếng không ưa nghe, tiếng
không tốt”. Như người lớn tiếng quát tháo, khiến cho người nghe tâm không tịch
tĩnh. Kế đó nói Ca La La (Karara) nhằm ngăn dứt âm thanh ầm ĩ, không tốt đẹp
trên đây, mang ý nghĩa “điềm tĩnh, tịch tĩnh”. Ở đây chính là dùng pháp hỷ
Thiền Duyệt làm ý nghĩa của thức ăn; do vậy, mượn các từ ngữ ấy [để biểu đạt].
Nếu xét theo tướng tự luân thì A có nghĩa là “bổn sơ”. Do có
cái bổn sơ ấy mà có hai loại trần cấu, tức là phiền não và sở tri chướng. Do
hai loại trần cấu ấy, bèn có tiếng hý luận, quát tháo. Nay dùng “các
pháp vốn bất sanh”, hai loại trần cấu cũng vốn là bất sanh, tức là
khai cam lộ môn, thành cơm Niết Bàn, nên nói là A Ra La. Lại nữa, nếu có ai
siêng tu vạn hạnh, mong đạt được pháp vị như thế, do tạo tác nên hai chướng vẫn
sanh khởi, vẫn chẳng phải là thường mạng sắc lực, [chẳng phải là] vị cam lộ
thật sự. Nay do các pháp chẳng tạo tác, vị “nội chứng” chẳng từ cái gì khác mà
đạt được, giống như đã ăn cháo sữa, chẳng cần gì nữa. Vì thế nói là “chấm
dứt âm thanh không tốt trước đó”.
Mạt
Lân Nại Na Mị (Baliṃ dadāmi): Phàm người ở phương Tây lúc cúng tế,
trên là hiến cúng chư Phật, dưới là thần quỷ, đều gọi là Mạt Lê (Bale). Câu này
có nghĩa là “tôi đã hiến dâng thức ăn”. Kế đó nói Mạt Lân Nại Nê (Baliṃ dade),
hàm ý: Đã tiếp nhận thức ăn do tôi dâng cúng, hãy nên hoàn lại diệu thực cho
tôi. Như người thế gian dùng món ngon lành để cúng thí phước điền, hòng khiến
cho đời này và đời sau thức ăn chẳng thiếu hụt. Nay dùng vô tận pháp thực gia
trì vật cúng dường trong thế gian, phụng thí chư tôn, để mong thỏa sở nguyện,
khiến cho thường sung túc vị “bất tử, bất sanh”. Kế đó nói Ma Ha
Mạt Lý (Mahābali), tức là khiến cho các thức ăn rộng lớn, dồi dào, ngon lành
gấp đôi. Dùng điều này để liệu giản câu trước, ý nói: “Tôi nay dâng
hiến và cầu nguyện đều là vị khôn sánh tột bậc, không chi hơn được, chẳng cầu
thức ăn có hạn lượng!” Kế đó là Đăng Minh chân ngôn:
(Kinh)
Đăng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha yết đa lạt chỉ,
tát phả ra nĩnh a phạ bà sa na, già già nhu đà rị da, sa ha.
(經)燈真言曰:南麼三漫多勃陀喃。怛他揭多喇旨。薩叵囉儜阿嚩婆娑那。伽伽猱陀哩耶。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn về đèn như sau: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha yết đa lạt
chỉ, tát phả ra nĩnh a phạ bà sa na, già già nhu đà rị da, sa ha).
Trong
cú nghĩa trên đây, Đát Tha Yết Đa (Tathāgata) là Như Lai, Lạt Chỉ (Arci) là
chói sáng. Kế đó nói Tát Phả Ra Nĩnh (Spharaṇa) là phổ biến, A Phạ Bà Sa Na
(Vabhāsana) là các tối tăm. Già Già Nhu Đà Rị Da (Gaganaudārya) là “vô
hạn lượng như hư không”. Ý nói: Quang minh chói rực của Như Lai chiếu
trọn khắp các tối tăm, giống như hư không chẳng có hạn lượng. Chân ngôn này lấy
chữ Đa trong câu đầu tiên làm Thể, như Thật Tướng của cái tâm, tức là ánh sáng
trí huệ của đức Tỳ Lô Giá Na chiếu khắp thế gian, không đâu chẳng trọn khắp.
Nói “các tối tăm” chính là vô minh; do vô minh vốn bất sanh,
nên Thể của nó chính là minh. Vì thế, quang minh của Như Lai chiếu trọn khắp
các tối tăm. Nói “bằng với hư không” là do vô minh vô lượng
như hư không, trí quang của Như Lai cũng vô lượng như hư không. Cho đến già,
chết cũng vô lượng như hư không, trí quang của Như Lai cũng vô lượng như hư
không. Như mười hai nhân duyên, hết thảy các pháp cũng nói như thế. Do nghĩa
quyết định như thế, gọi là Đăng Minh chân ngôn. Dùng chân ngôn này để gia trì
đèn sáng hòng cúng dường Phật, tức là sự cúng dường tối thắng trong các thứ
cúng dường. Kế đó, là Át-già chân ngôn.
(Kinh)
Át-già chân ngôn viết: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na, sa ma, a sa
ma, sa ha.
(經)閼伽真言曰:南麼三曼多勃陀喃。伽伽那。娑摩阿娑摩。娑訶。
(Kinh:
Chân ngôn về Át-già như sau: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na, sa ma,
a sa ma, sa ha).
Trong
cú nghĩa trên đây, Già Già Na (Gagana) nghĩa là hư không. Sa Ma (Sama) nghĩa là
Đẳng, A Sa Ma (Asama) là Vô Đẳng, đó gọi là Đẳng Hư Không Vô Đẳng. Do Pháp Thân
của Như Lai bổn tánh là tịnh, vô phân biệt, chẳng có ngằn mé, giống như hư
không, nhưng lại có vô lượng vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn, hư không
chẳng thể sánh ví được! Vì thế nói là Vô Đẳng. Lại nói A Sa Ma nghĩa là “chẳng
bình đẳng”. Chẳng bình đẳng chính là Nhị Thừa. Nay đã bằng với hư không, cái
“bằng” ấy lại chẳng bằng, nên nói là Đẳng Hư Không Vô Đẳng. Chân ngôn này dùng
chữ Già đầu tiên làm Thể. Trong chúng sanh giới, đến đi cũng chẳng thể được.
Trong pháp giới, tướng đến đi cũng chẳng thể được. Do Như Lai Như Khứ cũng
chẳng thể được, nên gọi là Đại Không. Do tánh của nước Đại Không là thanh tịnh,
dùng nó để tắm cái thân vô cấu. Đó là ý nghĩa chân thật của Át-già. Kế đó, có
bốn chân ngôn, cũng là tướng trang nghiêm Mạn-đồ-la của A-xà-lê. Do vậy, chúng
được nói trong phẩm này. Trước hết là Như Lai đảnh tướng chân ngôn.
(Kinh)
Như Lai đảnh tướng chân ngôn: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Già già na, a nan
đa tát phát ra nĩnh tỳ thâu đà đạt ma nễ xà đa, sa ha.
(經)如來頂相真言:南麼三漫多勃陀喃。伽伽那阿難多。薩發囉儜。毘輸馱達摩儞闍多。娑訶。
(Kinh:
Chân ngôn tướng đỉnh đầu Như Lai: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Già già na, a
nan đa tát phát ra nĩnh tỳ thâu đà đạt ma nễ xà đa, sa ha).
Trong
cú nghĩa trên đây, Già Già Na A Nan Đa (Gaganānanta)
là “hư không vô lượng”. Tát Phát Ra Nĩnh (Spharaṇa) là “phổ biến”. Tỳ Thâu Đà
(Viśudha) là “thanh tịnh”. Đạt
Ma Nễ Xà Đa (Dharmanirjāta) nghĩa
là “sanh ra pháp giới”. Ý nói: Tướng đỉnh đầu của Như Lai
giống như hư không, vượt ngoài số lượng, thanh tịnh trọn khắp. Hãy nên biết
đảnh tướng như thế sanh từ pháp giới thai tạng, chẳng phải sanh từ thai tạng
của cha mẹ trong thế gian. Chân ngôn này cũng lấy chữ Già làm Thể. Ý nói: Tướng
búi tóc của Như Lai chẳng có tướng đến đi giống như Đại Không, nhưng hết thảy
chúng sanh dùng tướng đến đi để quán. Vì thế, trọn khắp mười phương, chẳng thể
thấy được ngằn mé ấy. Nếu hành giả dùng cái tâm nhất định, tự biết đảnh tướng
của chính mình cũng giống như thế, thì gọi là Phật Đảnh Chân Ngôn. Khi A-xà-lê
tự quán chính mình là Tỳ Lô Giá Na, xõa búi tóc rồi búi lại. Nếu là người xuất
gia, nên dùng tay phải nắm thành quyền, đặt trên đỉnh đầu. Sau đó, nói chân
ngôn này để gia trì, hết thảy thiên thần v.v… sẽ chẳng thể thấy tướng đỉnh đầu
của vị ấy. Kế đó là Như Lai Giáp chân ngôn.
(Kinh)
Như Lai giáp chân ngôn viết: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạt chiết ra nhập
phạ la, vi tát phổ ra, hồng.
(經)如來甲真言曰:南麼三曼多勃陀喃。伐折囉入嚩羅。微薩普囉。吽。
(Kinh:
Chân ngôn áo giáp của Như Lai là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạt chiết la
nhập phạ la, vi tát phổ la, hồng.
Trong
cú nghĩa trên đây, Phạt Chiết Ra Nhập Phạ La (Vajrajvāla) là “kim cang quang”. Vi Tát Phổ Ra
(Visphura) nghĩa là “phổ biến”. Ý nói: Kim cang trí quang ấy
trọn khắp hết thảy, có thể trừ sanh tử ám chướng, cũng có thể chói ngời. Đó là
ý nghĩa của Như Lai giáp. Chân ngôn này lấy chữ Hồng (हूं, Hūṃ) cuối cùng làm Thể, trọn đủ ba môn giải
thoát, tức là phía trên [chữ Ha] có chấm Không (ं) của chữ Nẵng, tức là
Không giải thoát môn. Bản thể [của chữ Hồng] là chữ Ha (ह), do lìa nhân duyên, tức
là vô tướng giải thoát môn. Phía dưới là nét vạch tam-muội (ू)
của chữ Ổ (ऊ, Ū), do vốn bất sanh, tức là vô tác giải thoát
môn. Ba môn như thế, hết thảy các chướng chẳng thể nhập. Dùng huệ quang ấy để
trang nghiêm trọn khắp cái thân, nên gọi là Như Lai Giáp. Kiểm mật ấn thì dường
như bản tiếng Phạn tàn khuyết, nghi rằng đây chính là Kim Cang Tát Đỏa viên
quang chân ngôn, phải nên tìm trong các bản tiếng Phạn khác nữa [để kiểm
chứng]! Kế đó là Như Lai viên quang chân ngôn.
(Kinh)
Như Lai viên quang chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhập phạ la
ma lý nễ, đát tha nghiệt đa lật chỉ, sa ha.
(經)如來圓光真言曰:南麼三曼多勃陀喃。入嚩羅摩履儞。怛他蘗多栗旨。䓾訶。
(Kinh: Như
Lai viên quang chân ngôn như sau: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhập phạ la ma
lý nễ, đát tha nghiệt đa lật chỉ, sa ha).
Trong
cú nghĩa trên đây, Nhập Phạ La (Jvāla)
nghĩa là “quang minh chói rực”, Ma Lý Nễ (Mālini)
nghĩa là “tràng hoa”, tức là dùng ngọn lửa làm tràng bao quanh
không gián đoạn. Do vậy gọi là Như Lai Viên Quang. Câu kế đó nói Đát Tha Nghiệt
Đa Lật Chỉ (Tathāgatārci) nghĩa là “quang minh của Như Lai”; đấy
là quang minh trong sáng. Âm tiếng Phạn và quang minh do vòng lửa vây quanh
khác nhau, dùng chữ Lật Chỉ (Rci, र्चि) làm cái Thể của chân ngôn. [Trong chữ Lật
Chỉ], phía trên có âm thanh Ra (tức âm R) nghĩa là “trần cấu”. Dưới
là chữ Giá (च,
Ca) có nghĩa là “biến đổi”. Do nhập vào môn chữ A, tức là vốn
chẳng có trần cấu, mà cũng chẳng biến đổi, tức là quang minh thường tịch của
Như Lai. Lại kèm thêm âm tam-muội của chữ Y (ि), ý nói ánh sáng thường
tịch ấy trọn đủ Định Huệ. Do vậy, tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch.
A-xà-lê dùng điều này để gia trì cái thân, hết thảy các hàng thiên thần được
Như Lai Diễm Man phủ trọn khắp thân, oai mãnh khó nhìn như vầng mặt trời. Do
vậy, những kẻ gây chướng chẳng có dịp hãm hại!
(Kinh)
Như Lai thiệt tướng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma ha a ma
ha, đát tha nghiệt đa nhĩ ha phạ, tát để dã đạt ma bát ra, để sắt sỉ đa, sa ha.
(經)如來舌相真言曰:南麼三曼多勃陀喃。摩訶阿摩訶。怛他蘗多爾訶嚩。薩底也達摩鉢囉。底瑟恥多。䓾訶。
(Kinh:
Chân ngôn tướng lưỡi của Như Lai rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma ha a
ma ha, đát tha nghiệt đa nhĩ ha phạ, tát để dã đạt ma bát ra, để sắt sỉ đa, sa
ha).
Trong
cú nghĩa trên đây, Ma Ha A Ma Ha (Mahāmahā) nghĩa là “đại, vô
đại”, Đát Tha Nghiệt Đa Nhĩ Ha Phạ (Tathāgatajihva) nghĩa là “cái
lưỡi của Như Lai”. Tướng lưỡi ấy rộng dài, che khắp hết thảy các cõi
Phật, nên gọi là Đại. Cái “đại” ấy không có gì hơn được, không
thể đối đãi, tướng Đại cũng là Không, nên nói là Vô Đại. Kế đó, nói Tát Để Dã
(Satya) là Đế (chân thật, chắc thật), Đạt Ma (Dharma) là pháp, Bát Ra Để Sắt Sỉ
Đa (Pratiṣṭhita) là “thành tựu”, dịch
nghĩa là “thành tựu pháp Thật Đế”. Như Lai từ vô lượng kiếp
đến nay do thường tu chân thật đế ngữ, đạt được bình đẳng ngữ luân ấy. Thành
tựu pháp Thật Đế, phát ra lời lẽ chân thành, nhất định chẳng sai khác. Vì thế,
dùng chữ Đa cuối cùng làm Thể của chân ngôn, nêu rõ tất cả ngôn ngữ của Như Lai
thường như Thật Tướng, chẳng hề dối gạt, không khác lạ. A-xà-lê dùng chân ngôn
này để gia trì bản thân, sẽ chuyển thuyết pháp giáo đều như kim cang. Thậm chí
có thể do một âm mà trọn khắp các cõi Phật. Phàm đối với các chân ngôn này, hãy
đều nên dùng tự môn để giải thích rộng rãi!
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần năm hết
[1] Ca
La Xa (Kalaśa) chính là bình cát
tường, còn phiên âm là Yết La Xá, Yết Ra Xa, dịch nghĩa là Bảo Bình, Hiền Bình.
Trong ấy, chứa đầy nước thơm, năm thứ báu, năm thứ hương, năm thứ thuốc, năm
thứ hạt lương thực… Loại bình này đôi khi còn gọi là Purna-Kalaśa (Mãn Hiền Bình), Soma-Kalaśa (Nguyệt Hiền
Bình)... Truyền thống Ấn Giáo cũng dùng loại bình bằng sành, miệng thắt, thân
bình vẽ các biểu hiện cát tường, hoặc chân ngôn, hay hình các vị thần của Ấn
giáo, chứa đầy nước, cắm lá xoài, để một quả dừa để nút kín miệng bình, cài
tràng hoa, hay cắm hoa xen kẽ với lá. Họ đặt cái bình ấy trong nhà với dụng ý
đem lại may mắn, thịnh vượng, xua đuổi quỷ mị... Loại bình Bumpa của Phật giáo
Tây Tạng cũng phát xuất từ loại hiền bình này. Bình Bumpa thường làm bằng đồng
hay bạc, cổ bình thắt lại, miệng bình có thành nhô ra hơi quặp xuống. Quanh
thân bình chạm trổ các hoa văn, các biểu tượng cát tường, hình Phật, hoặc Bồ
Tát. Từ miệng bình, dùng đồng hoặc bạc làm thành hình bốn dải lụa rũ xuống chạm
thành bình. Bumpa được chia thành hai loại: Tsobum thường đặt trên bàn thờ, hay
trong Mạn-đồ-la, có nút đậy trang trí bằng hình Phật, Bồ Tát ngồi trên tòa sen,
thân có viên quang. Loại thứ hai gọi là Le Bum, đặt trên bàn của vị lạt-ma chủ
pháp, cắm chuôi gỗ, buộc lông công, có thêm vòi để rót nước. Vị chủ pháp sẽ
dùng bình này để rảy nước sái tịnh hay rót ra một chút nước cho người thọ pháp
uống khi làm lễ quán đảnh.
[2] Tứ
đại hộ chính là bốn vị Kim Cang thần thủ hộ bốn cửa của Mạn-đồ-la, bao gồm:
- Vô Úy Kết Hộ, thủ hộ cửa Đông, thân màu
vàng ròng, mặc áo trắng, mặt hiện dáng vẻ sân hận, tay cầm gậy. Ấn là bổng ấn
(hình gậy đặt trên hoa sen), chủng tử là chữ Phạ.
- Hoại Chư Bố Kết Hộ, thủ hộ cửa Bắc, thân
màu trắng, mặc áo trắng, tay cầm đao có vòng lửa bao quanh, đao ấn, chủng tử là
chữ Truyền.
- Nan Hàng Phục Kết Hộ, thủ hộ cửa Tây,
thân có màu hoa Vô Ưu (tím đậm), mặc áo đỏ, vẻ mặt mỉm cười, thân có viên
quang, hiện dáng vẻ như đang quan sát đại hội, đao ấn, chủng tử là chữ Sách.
- Kim Cang Vô Thắng Kết Hộ, thủ hộ cửa Nam,
thân màu đen, hiện tướng phẫn nộ, mặc áo đen, tay cầm gậy, thân phóng ra quang
minh như ngọn lửa, bổng ấn, chủng tử là chữ Sám.
Mỗi vị lại sứ giả chầu hầu, ngồi trên hoa
sen trắng.
[3] Tức chân ngôn Đại Lực Đại Hộ
Minh Phi sẽ được nói trong phần sau. Trong phần sau, sớ có giải thích: “Chân
ngôn này oai quang dữ dội, ví như mắt trẻ nhỏ chẳng thể kham nhìn tia nắng mặt
trời chói rực, nên gọi là Vô Kham Nhẫn”.
[4] Theo
Phật Học Đại Từ Điển, đây chính là Tháp Ấn (còn gọi là Tốt Đổ Ba ấn, hoặc còn
gọi là Bảo Bình Ấn). Tức là hai tay chắp lại sao cho lòng bàn tay đừng chạm sát
nhau (tức là có khoảng trống giữa hai lòng bàn tay, thường gọi là Hư Tâm Hiệp
Chưởng), hai ngón trỏ và ngón cái giáp nhau thành hình khuyên, các ngón còn lại
gác chéo đầu vào nhau, sao cho ngón phải đè lên ngón trái.
[5] Tỳ Xá Giá, còn phiên âm là Tất
Xá Giá, Tỳ Xá Giá, Tịch Xá Chá, Tý Xa Chá v.v… là một loại ác quỷ chuyên ăn
nuốt tinh khí khiến cho người bị điên cuồng, có thuyết nói là loài quỷ này
chuyên ăn xác chết, có thể biến hình và ẩn thân.
[6] Đây
là một loại quỷ Dạ Xoa. Theo Huệ Uyển Âm Nghĩa, quyển hạ: “Bộ Đa được
phương này dịch là Tự Sanh, ý nói hễ từ cha mẹ sanh ra thì gọi là Dạ Xoa, loại
hóa sanh được gọi là Bộ Đa”.
[7] Tức
là câu đầu tiên trong các bài chú “nam-ma tam mạn đa bột đà nẫm” (Namaḥ
samanta-Buddhānāṃ).
[8] Ngũ
luân ở đây phải hiểu theo nghĩa ngũ thể, tức là năm chỗ trên thân người gồm
đầu, hai vai và hai đầu gối.
[9] Ngưu tất (Achyranthes
bidentata, cỏ xước hai răng) là một loài thực vật thân thảo (tức thân mềm,
không có gỗ cứng), có thể mọc cao đến một mét. Thân có bốn cạnh, phình lên
thành các đốt, thuộc họ Dền (Amarathaceae). Hạt của nó có thể ăn được. Loại cỏ
này được dùng trong Đông Y với tên gọi là Hoài Ngưu Tất.
[10] Mười
hai tác dụng của lửa ở đây được biểu hiện thành mười hai vị Hỏa Thiên, biểu thị
ý nghĩa chân thật của pháp hộ-ma trong Đại Thừa Mật giáo (quyển hai mươi của bộ
sớ này sẽ nói cặn kẽ hơn):
- Trí Hỏa, tức nội chứng của Đế Thích, biểu
thị huệ quang Bồ Đề đốt sạch vô minh, tương ứng với pháp Tức Tai. Do Đế Thích
là vua của chư thiên, nên vị hỏa thiên này biểu thị trí quang của Đại Nhật Như
Lai. Vị này có thân màu vàng, quanh thân có vòng quang minh như ngọn lửa bao
bọc, đàn pháp có hình vuông.
- Hạnh Mãn, biểu thị đại bi hạnh, tương ứng
pháp Tức Tai. Vị này như trăng thu, thân mặc áo trắng tinh, tay phải cầm tràng
hạt, tay trái cầm bình Quân Trì.
- Ma Rô Đa (Phong Tháo), như gió có thể
thổi tan mây, biểu thị ý nghĩa phá hoại các chướng, tương ứng pháp Điều Phục.
Vị này ngồi trên bán nguyệt màu đen, tay cầm khăn.
- Rô Hê Đa (Xích Sắc), biểu thị trí huệ
nhạy bén. Vị này ngồi trên đàn tam giác, tay phải cầm đao, vẻ mặt hơi phẫn nộ.
- Một Lật Noa, biểu thị từ bi và trí huệ
hòa hợp. Thân hình vị này nửa bên trái có màu đỏ, hình tướng phẫn nộ, nửa phải
có màu sắc, vẻ mặt nhu hòa mỉm cười. Tay trái cầm đao, tay phải cầm chày kim
cang.
- Phẫn Nộ bao gồm Nhiếp Phục lẫn Tức Tai,
thân có màu khói hơi ngả đen, nhắm một mắt như Bất Động Minh Vương, tóc bốc
lửa, miệng há to như đang rống, lộ bốn răng nanh.
- Xà Trá La (Ôn Phúc), thân đủ năm màu,
hình dạng tột bậc phẫn nộ.
- Ngật Sái Da (Phí Hao), biểu thị ý nghĩa
dẹp trừ nghiệp chướng. Vị này có hình tướng nhiều tia chớp tụ lại, chẳng
thể nhìn ngắm được.
- Ý Sanh, biểu thị trí huệ tự tại, khắp
trong pháp giới, dùng thân ngữ ý thiện xảo để ứng với chúng sanh, tùy ý thành
tựu Phật sự.
- Yết Khẩu Vi (Thọ Thực Hỏa) biểu thị đạt
được cái quả tam thân, hình tướng vị này được miêu tả là tay cầm chữ Án (Aum).
- Vị thứ mười một khuyết tên.
- Mô Hạ Na (Tất Thành), biểu thị hàng phục
các ma, việc làm đã xong!
[11] A là tâm chân ngôn của Phật
Bộ, Sa là tâm chân ngôn của Liên Hoa Bộ, và Phạ là tâm chân ngôn của Kim Cang
Bộ.
[12] Theo
kinh Tăng Nhất A Hàm, thế giới được kiến lập dựa trên hư không, trong hư không
có một tầng phong luân, trên phong luân là thủy luân, trên thủy luân là địa
luân. Nền tảng của địa luân được gọi là kim cang tế (đôi khi còn gọi là kim
cang sát).
[13] Phụng
giáo giả (người tuân phụng giáo pháp) có thể hiểu vị này là thị giả hoặc sứ giả
của một vị tôn thánh.
[14] Cách
ngồi Cát Tường tức là ngồi bán già (còn gọi là “đơn bàn”),
chân nọ chồng lên chân kia, không phải là kiểu ngồi hai chân xếp chéo vào nhau,
lật ngửa bàn chân lên (ngồi kiểu này được gọi là “kết già phu tọa”, thường gọi tắt là “ngồi kết già”,
hay “song bàn”, “song
phu”, hay “toàn phu”).
Khi ngồi bán già, nếu chân trái chồng lên chân phải thì gọi là Cát Tường Tọa.
Chân phải chồng trên chân trái thì gọi là Hàng Ma Tọa. Trong cách ngồi kết già
(thường bị đọc trại thành “kiết già”), nếu chân phải ở trên chân trái thì gọi
là Liên Hoa Tọa, ngược lại thì gọi là Kim Cang Tọa.
[15] Do
các đoạn kệ phiên âm tiếng Phạn này và lời dịch tiếng Hán do ngài Nhất Hạnh
trích từ kinh Kim Cang Khởi ghép vào đây, không thuộc phần chánh kinh của kinh
Đại Nhật, chúng tôi tạm ghi là Sớ để phân biệt với phần chánh kinh của kinh Đại
Nhật.
[16] Đây
là một điển tích lấy từ câu chuyện Từ Vô Quỷ trong sách Trang Tử. Theo đó, tại
Dĩnh Quận của nước Sở, có một người thợ khéo sử dụng búa. Nếu dùng phấn trắng
bôi lên mũi người khác một đốm chừng bằng cánh con ruồi, người thợ ấy vung búa,
gạt phăng chấm phấn ấy, mũi người đó chẳng bị tổn thương mảy may! Vì thế,
chữ “Dĩnh tượng” (người thợ đất Dĩnh) được dùng để chỉ người
có tài văn học lỗi lạc hoặc nghề khéo tài ba.
[17] Ba
La Di (Pārājika) dịch nghĩa là Tha Thắng
(bị những điều khác khống chế), Cực Ác, Trọng Cấm, Đọa, Đọa Bất Như, Đoạn Đầu,
Vô Dư, Khí, đều có nghĩa là đã phạm các giới này, chính là phạm tội cực nặng,
đoạn dứt thiện căn, sẽ đọa lạc không còn thuộc chủng tánh thánh hạnh, đáng phải
loại bỏ khỏi Tăng đoàn.
[18] Thông
thường, “chúng số” tức là các pháp thuộc sanh tử luân hồi. Do
còn phải luân chuyển sanh tử luân hồi thì sẽ có Ngũ Ấm, Thập Nhị Nhập, Thập Bát
Giới v.v… tức là rơi vào các hữu pháp, nên gọi là “đọa ư chúng
số”. Theo mạch văn ở đây, dường như phải hiểu “tuy đối với Cụ Túc Tỳ
Ni, chẳng đọa vào các số” có nghĩa là chẳng phạm tội nào trong Cụ Túc Giới.
Theo ngu ý, đoạn này phải hiểu là: Nếu có ý nghĩ hay thốt ra lời nói “phải bỏ
một pháp nào đó trong Phật pháp”, xét theo Cụ Túc Tỳ Ni của Hiển Giáo thì không
thành tội phạm giới vì giới luật không kết tội chuyện này, nhưng trong Mật
Giáo, không được phép chối bỏ
bất cứ một pháp nào [do Phật đã dạy], cho nên nếu có ý niệm hoặc thốt ra lời
khuyên người khác bỏ một pháp nào đó thì sẽ là phạm tội Ba La Di trong Mật
Giáo.
[19] Giá nạn là nói gộp chung của
Thập Lục Giá (mười sáu điều ngăn che) và Thập Tam Nạn (mười ba nạn), tức là
những quy định nhằm xem xét một người muốn thọ giới có đủ tư cách, phẩm chất để
thọ Cụ Túc Giới hay không. “Giá” tức là những điều ngăn cấm đối với các điều ác
chẳng thuộc về tự tánh, còn Nạn là ngăn cấm các điều ác thuộc về tự tánh. Do sợ
rườm rà, chỉ xin trích dẫn một đôi điều. Chẳng hạn kẻ muốn thọ giới mà trước đó
đã phạm Tứ Ba La Di thì gọi là Biên Tội trong Thập Tam Nạn. Hoặc trước khi thọ
giới, đã lén nghe giới luật rồi dối trá xưng mình là tỳ-kheo. Đó là Tặc Tâm Thọ
Giới trong mười ba nạn. Còn “Giá” là nếu người muốn thọ giới bị bệnh ngặt như
cùi, ung thư, điên cuồng v.v… hoặc đang thiếu nợ, là nô tỳ trốn chủ, là người
đang làm quan mà chưa từ chức, cha mẹ không cho phép mà cứ lén xuất gia v.v…
Nếu phạm phải những điều ấy, đều không được phép thọ giới xuất gia, và vị thầy
nếu biết mà vẫn cứ truyền giới thì cũng phạm tội.
[20] Thâu
Lan Giá (Sthūlātyaya) dịch nghĩa là Đại
Tội, Trọng Tội, Thô Tội, Thô Ác, Thô Quá, Đại Chướng Thiện Đạo, bao gồm các tội
không thuộc loại Ba La Di, Tăng Tàn và Đột Cát La. Do những điều này thuộc về tỳ-kheo đại giới,
chỉ nói sơ lược như thế, không tiện ghi ra chi tiết được!
[21] Chữ
Phấn Tấn (奮迅) theo nghĩa gốc là
chim hay thú có thế lực mạnh mẽ, hào hứng bay nhảy. Chữ này về sau được hiểu
theo nghĩa tinh thần phấn chấn, hăng hái, dũng mãnh.
[22] Chữ
Hồng (हूं) gồm ba bộ phận ghép lại,
tức chữ Ha (ह), vạch tam-muội tức nguyên
âm ū (ू) và chấm Đại Không (ं) hình dung âm ṃ.
[23] Tỳ
Phú La (Vipula) còn phiên âm là Tỳ Bố La, Tỳ Phù La, Bệ Phù La, dịch nghĩa là
Quảng Bác Hiếp Sơn, Quảng Phổ Sơn, Phương Sơn, hoặc Đại Sơn, là một trong năm
quả núi to tại thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà. Quả núi này thường được dùng để
sánh ví sự to lớn.
[24] Tam-muội
được nói ở đây chính là nguyên âm đi kèm với phụ âm trong chữ Phạn. Trong đoạn
này, “tam-muội” chính là âm Y được thêm vào chữ Va.
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần sáu
大毘盧遮那成佛經疏
Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê ký
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và
Huệ Trang
3.
Phẩm thứ ba: Dứt Trừ Chướng (Tức Chướng phẩm đệ tam, 息障品第三)
(Kinh)
Nhĩ thời, Kim Cang Thủ hựu phục thỉnh vấn Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, nhi thuyết kệ
ngôn: - Vân hà đạo tràng thời, tịnh trừ chư chướng giả? Tu Chân Ngôn hành nhân,
vô năng vi não hại? Vân hà trì chân ngôn? Vân hà bỉ thành quả?
(經)爾時金剛手又復請問毘盧遮那世尊,而說偈言:云何道場時,淨除諸障者?修真言行人,無能為惱害?云何持真言?云何彼成果?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ lại thưa hỏi đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, mà nói kệ
rằng: - Lúc đạo tràng thế nào, trừ sạch các chướng ngại? Hành nhân tu Chân
Ngôn, sẽ chẳng bị não hại? Trì chân ngôn thế nào? Thành tựu quả ra sao?)
Lúc
đó, ngài Kim Cang Thủ lại bạch hỏi đức Phật Tỳ Lô Giá Na: Khi vẽ Mạn-đồ-la, [hãy nên] trừ dứt kẻ gây chướng nạn
như thế nào để người trì tụng các chân ngôn chẳng bị não hại? Thế nào là cái
quả do trì tụng chân ngôn? Đó là do được Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia trì, ngài Kim
Cang Thủ nương vào sức oai thần của Phật, nhằm đoạn nghi cho đại chúng và chúng
sanh trong đời vị lai mà nêu ra các câu hỏi ấy.
(Kinh)
Như thị phát vấn dĩ, Đại Nhật Tôn thán ngôn: - Thiện tai Ma Ha Tát, khoái
thuyết như thị ngữ, tùy nhữ tâm sở vấn, kim đương tất khai thị. Chướng giả tự
tâm sanh, tùy thuận tích xan lận. Vị trừ bỉ nhân cố, niệm thử Bồ Đề tâm, thiện
trừ vọng phân biệt, tùng tâm tư sở sanh. Ức niệm Bồ Đề tâm, hành giả ly chư
quá, thường đương ý tư duy, Bất Động Ma Ha Tát, nhi kết bỉ mật ấn.
(經)如是發問已,大日尊歎言:善哉摩訶薩,快說如是語,隨汝心所問,今當悉開示。障者自心生,隨順昔慳悋,為除彼因故,念此菩提心。善除妄分別,從心思所生,憶念菩提心,行者離諸過。常當意思惟,不動摩訶薩,而結彼密印。
(Kinh:
Thưa hỏi như thế rồi, đức Đại Nhật khen rằng: - Lành thay Ma Ha Tát! Vui thích
nói như vậy. Thuận theo tâm ông hỏi, nay sẽ đều khai thị. Chướng sanh từ tự
tâm, do xưa kia keo kiệt. Để trừ cái nhân ấy, nghĩ tâm Bồ Đề này. Khéo trừ vọng
phân biệt, sanh từ trong tâm tư. Nghĩ nhớ tâm Bồ Đề, hành giả lìa các lỗi,
thường dốc ý suy tưởng, Bất Động Ma Ha Tát, kết mật ấn của Ngài).
Đại
Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn nói: “Lành thay! Lành thay! Này Đại Chúng Sanh! Ông có thể thốt ra lời ấy
nhằm tạo lợi ích to tát cho các chúng sanh. Ta nay sẽ vì ông khai thị, hết thảy
đều thuận theo lời ông hỏi”. Đức Phật bảo: Chướng sanh từ tự tâm, thuận theo lòng keo
tiếc xưa kia. Để trừ cái nhân ấy, hãy nghĩ nhớ Bồ Đề tâm. Nếu trừ bỏ sự phân
biệt trong tâm tư, nghĩ nhớ Bồ Đề tâm, người trì tụng sẽ lìa các lỗi. Đức Phật
dạy hết thảy các pháp gây chướng tuy vô lượng, nhưng nói tóm lại, “chỉ từ tâm sanh!” Lại do hành giả trong đời quá khứ đã
tùy thuận pháp keo tham, đời này sẽ có nhiều chướng ngại. Hãy nên biết: Đấy cũng là sanh từ nhân duyên nơi tâm. Hãy
nên biết keo tham v.v… chính là cái nhân của các chướng. Nếu trừ bỏ cái nhân
đó, các chướng tự dứt. Cái để đối trị ở đây chính là Bồ Đề tâm. Nếu nghĩ tới Bồ
Đề tâm, sẽ có thể trừ khử cái nhân của các chướng. Hết thảy các pháp gây chướng
lại sanh từ phân biệt. Sự phân biệt ấy do tâm tư hư vọng mà có; Tư chính là chướng, tức là phiền não,
tùy phiền não v.v… trong tâm. Chữ Có ở đây, nếu nói theo [ý nghĩa trong] tiếng
Phạn thì phải
là Sanh. Có tâm tư, mà nếu có thể lìa các phân biệt, sẽ chính là Bồ Đề tâm
thanh tịnh. Do hành giả ức niệm cái tâm [Bồ Đề thanh tịnh] ấy, sẽ có thể lìa
hết thảy lầm lỗi.
Ý
thường tư duy Bất Động Đại Hữu Tình (Bất Động Ma Ha Tát), sẽ có thể trừ hết thảy các thứ gây chướng.
Người ấy hãy nên kết mật ấn, tức là [ấn của] Bất Động Minh Vương đã nói trước
đó. Đấy là do Như Lai Pháp Thân vận dụng đại nguyện, trong vô tướng mà hiện
tướng này, thủ hộ hết thảy các hành giả Chân Ngôn. Nếu hành giả thường có thể
ức niệm, sẽ có thể lìa hết thảy các chướng. Nói Bất Động chính là cái tâm Bồ Đề
chân tịnh. Do biểu thị ý nghĩa này, bèn do sự mà đặt tên. Vị Minh Vương này
nhắm một mắt là có thâm ý: Do mắt Phật thấy
rõ “chỉ có một mà thôi, chẳng có hai, chẳng có ba”. Ấn ấy sẽ
được nói trong phần sau.
(Kinh)
Bí Mật Chủ phục thính, hệ trừ tán loạn phong, A tự vi ngã thể, tâm trì Ha tự
môn. Kiện-đà dĩ đồ địa, nhi tác Đại Không điểm, y ư Phạ Dữu phương, hạp dĩ Xả
Ra Phạm, tư niệm ư bỉ khí, đại tâm Di Lô sơn, thời thời tại kỳ thượng. A tự Đại
Không điểm, tiên Phật sở tuyên thuyết, năng phược ư đại phong. (經)祕密主復聽,繫除散亂風,阿字為我體,心持訶字門,健陀以塗地,而作大空點,依於嚩庾方,闔以捨囉梵,思念於彼器,大心彌盧山,時時在其上。阿字大空點,先佛所宣說,能縛於大風。
(Kinh:
Bí Mật Chủ lại nghe, buộc trừ gió tán loạn, chữ A là ngã thể. Tâm trì môn chữ
Ha. Dùng hương để bôi đất, để vẽ chấm Đại Không, ở nơi phương Phạ Dữu, đậy bằng
Xả Ra Phạm[1]. Nghĩ nhớ
món đồ ấy, núi đại tâm Tu Di, luôn luôn ở trên đó. Chữ A, chấm Đại Không, cổ
Phật đã tuyên nói, trói được trận gió lớn).
[Đức
Phật nói]: “Bí Mật Chủ! Để trị nạn gió, nên tụng chữ A”, cũng
có nghĩa là: Lấy ngay chữ A làm thân, dùng tự môn “vốn là Không” ấy để làm cái thân của ta. Tâm vô ngã tụng
niệm chữ Ha. Dùng hương bôi chấm xuống đất bảy chấm. Trước hết, hãy nên tưởng
trong trận gió ấy, có chữ Ha, sau khi thêm bảy chấm, nó sẽ bị khống chế. Sau
đó, ở nơi phương Phạ Dữu (Vāyu: Phương của thần
gió trong Mạn-đồ-la, tức là phương Tây Bắc), dùng cái chén bằng gốm
đè lên. Đại chúng nghĩ tưởng cái chén gốm ấy như núi Tu Di, luôn luôn tưởng chữ
A ở trên đó và điểm thêm chấm, trận gió ấy sẽ bị trói chặt. [Có nghĩa là]: Theo
lời dạy của chư Phật thuở trước, khi tạo lập đàn, nếu có gió lớn gây chướng
ngại, hãy ở nơi đất trống, thực hiện cách này thì gió sẽ dứt. Hãy nên tưởng chữ
A ấy trọn khắp trong thân phần. Chữ ấy có màu Kim Cang bất động, tức là màu
vàng ròng. Tưởng như thế xong, trong tâm tụng chữ Ha (ह) ở phương Phong (phương
Tây Bắc), dùng hương bôi vẽ trên đất bảy chấm tròn nhỏ. Mỗi chấm to bằng chừng
một viên bi. Vẽ như thế xong, dùng đồ gốm đậy lên. Tâm tưởng trên món đồ bằng
gốm ấy có chữ A, coi chữ A ấy như núi kim cang đè xuống. Các núi Tu Di trong
tam thiên đại thiên thế giới kết hợp thành một Thể, đè lên đó. Khi đó, lại luôn
tưởng chữ ấy ở trên món đồ đó. Chữ A ấy có nghĩa là “kim cang bất
động”. Thêm một chấm là trọn hết thảy các chỗ, khiến cho kim cang bất
động ấy trọn khắp hết thảy mọi nơi, tức là có ý nghĩa “tăng rộng hơn”.
(Kinh)
Đại Hữu Tình đế thính! Hành giả phòng sử vũ, tư duy Ra tự môn, đại lực hỏa
quang sắc, oai mãnh xí diễm man, phẫn nộ trì Át Già, tùy sở khởi phương phần,
trị địa hưng ấm vân, đoạn dĩ huệ đao ấn. Hôn tế tầm tiêu tán. Hành giả vô úy
tâm, hoặc tác Kỵ La kiếm, dĩ thị kim cang quyết, nhất thiết đồng kim
cang.
(經)大有情諦聽,行者防駛雨,思惟囉字門,大力火光色,威猛熾焰鬘,忿怒持遏伽,隨所起方分,治地興蔭雲,斷以慧刀印,昏蔽尋消散。行者無畏心,或作葪羅劍,以是金剛橛,一切同金剛。
(Kinh:
Đại Hữu Tình lắng nghe! Hành giả phòng mưa giông, tư duy môn chữ Ra, đại lực,
màu lửa sáng. Vòng lửa rực oai mãnh, phẫn nộ cầm Át-già (Khaḍga: Kiếm hay đao
bén). Theo phương hướng chướng khởi, trị địa, nổi mây che, huệ đao ấn cắt đứt.
Tối tăm tiêu tan ngay. Hành giả tâm vô úy, hoặc làm Kỵ La Kiếm (Kīlakaṃ: cọc
kim cang). Dùng
cọc kim cang ấy, như hết thảy Kim Cang).
Cách
để trị chướng ngại do nước gây ra [như sau]: Hãy nên suy tưởng chữ Ra (र)
trọn khắp trong thân, có màu đỏ của ngọn lửa cháy hừng hực, tức là vòng lửa
cháy rực từ trong thân túa ra, bao khắp quanh thân như tràng hoa, làm ra vẻ dữ dằn đáng sợ, sức
lực to lớn, tay cầm đại đao ấn. Hiện hình dáng giận dữ xong, vẽ hình mây xuống
đất, hoặc vẽ hình rồng, rắn. Dùng Đao Ấn để chém đứt hình ấy, mây liền tan
diệt. Do mây là cái nhân để các loại nước nương vào. Tùy theo phương hướng nơi
chướng nạn dấy lên mà tác pháp, như mưa từ phương Đông bèn tác pháp ở phương
Đông.
Hoặc
làm kim cang quyết (cọc kim cang) để dứt mưa gió. Cọc ấy dùng gỗ Khư Đà La
(Khadira)[2] làm thành
chày kim cang một nhánh. Dùng Kim Cang chân ngôn để gia trì. Tưởng [chính
mình] giống như hết thảy các vị Kim Cang [cầm chày ấy] để đánh. Cũng tùy theo
nơi chốn [khởi chướng để tác pháp]. Pháp này phải nên [quán tưởng tự thân]
giống hệt hết thảy các vị Kim Cang rồi mới thực hiện. Làm cái cọc ấy thành hình
chày kim cang một nhánh, tức là chày ba nhánh loại trừ hai nhánh phụ[3]. Chày nhỏ sẽ gọi là kim cang châm
(vajrasuci).
(Kinh)
Phục thứ, kim đương thuyết, tức nhất thiết chư chướng. Niệm chân ngôn đại mãnh,
Bất Động đại lực giả, trụ bổn Mạn-đồ-la. Hành giả hoặc cư trung, nhi quán bỉ
hình tượng, đảnh đới tam-muội túc, bỉ chướng đương tịnh trừ, tức diệt nhi bất
sanh. Hoặc dĩ La Nhĩ Ca, vi diệu cộng hòa hợp. Hành giả tạo hình tượng, nhi dĩ
đồ kỳ thân. Bỉ chư chấp trước giả, do tư đối trị cố. Bỉ chư căn xí nhiên. Vật
sanh nghi hoặc tâm! Nãi chí Thích, Phạm tôn, bất thuận ngã giáo cố, thượng
đương vi sở phần, huống phục dư chúng sanh!
(經)復次今當說,息一切諸障,念真言大猛,不動大力者,住本漫荼羅,行者或居中,而觀彼形像,頂戴三昧足,彼障當淨除,息滅而不生。或以羅邇迦,微妙共和合,行者造形像,而以塗其身,彼諸執著者,由斯對治故,彼諸根熾然,勿生疑惑心,乃至釋梵尊,不順我教故,尚當為所焚,況復餘眾生。
(Kinh:
Lại nữa, nay sẽ nói, dứt hết thảy các chướng. Niệm chân ngôn đại mãnh, đấng đại
lực Bất Động, trụ bổn Mạn-đồ-la. Hoặc hành giả trong đó, chiêm ngưỡng hình
tượng Ngài, đầu đội chân tam-muội, chướng ấy sẽ trừ sạch, dứt mất chẳng còn
sanh. Hoặc dùng La Nhĩ Ca[4], vi diệu cùng hòa hợp. Hành giả
tạo hình tượng, rồi bôi lên thân tượng. Những kẻ chấp trước kia, do bị đối trị
vậy, các căn đều cháy bừng. Đừng sanh tâm nghi hoặc! Thậm chí Thích, Phạm tôn,
chẳng thuận giáo của ta, còn bị đốt cháy rụi, huống hồ chúng sanh khác).
Để
dứt hết thảy các chướng, lại dạy niệm chân ngôn Đại Ác Bất Động Đại Lực, trụ trong Mạn-đồ-la của Ngài. Người
trì tụng tạo Mạn-đồ-la, trong ấy vẽ hình tượng [của Bất Động Minh Vương], chân
trái của Ngài đạp lên đỉnh đầu của người ấy (người gây chướng ngại). [Làm như thế] sẽ dứt trừ chướng ngại,
chẳng nghi hoặc. Lại nói phương tiện lạ, tức là phương tiện để trừ hết thảy các
chướng, chính là [pháp trừ chướng của] Bất Động Minh Vương vừa nói trên đây.
Mạn-đồ-la của Bất Động Minh Vương chính là Mạn-đồ-la hình tam giác, màu đen.
Người trì tụng tưởng bản thân thành hình tượng Bất Động Minh Vương. Trong sự
tác pháp này, lại có hai ý nghĩa:
-
Một là tưởng ngài Bất Động trong Mạn-đồ-la đạp lên đỉnh đầu kẻ đó (kẻ gây
chướng).
-
Hai là tưởng thân mình chính là ngài Bất Động, tức là dùng chân ngôn và ấn của
Ngài gia trì rồi đạp lên [hình tượng của kẻ gây chướng]. Tức là trong hình tam
giác, vẽ hình kẻ gây chướng. Sau đấy mới vào đó, dùng chân trái đạp lên đỉnh
đầu của kẻ đó. Dùng hình tướng Đại Phẫn Nộ để gia trì, kẻ đó sẽ ngay lập tức
lui tan. Nếu kẻ đó chống trái, chẳng vâng lệnh rời đi, thậm chí ắt sẽ tự đoạn
mạng căn. Khi đó, người trì tụng nên sanh tâm Từ, niệm rằng: “Đừng đoạn mạng
hắn!” Nhưng mật ý ở đây là: Cái gọi là kẻ “gây chướng” chính
là các pháp keo tham v.v… nẩy sanh từ trong tâm, có thể gây nên hết thảy chuyện
chướng ngại cho hành nhân. Bất Động Minh Vương ở đây chính là trí Nhất Thiết
Trí đại Bồ Đề tâm. Hãy nên biết cái tâm này chính là đại lực oai mãnh, có thể
vĩnh viễn trừ diệt hết thảy các thứ lướt qua mắt, mũi v.v… khiến cho chúng vĩnh
viễn đoạn trừ. Đó chính là nghĩa Chết.
Như
Du Già có nói: Khi đức Phật mới thành Chánh Giác, nhóm họp to lớn hết thảy các
đại chúng trong tam giới thuộc vào hết thảy Mạn-đồ-la. Có Ma Hê Thủ La (Maheśvara, Tự Tại Thiên) là người đứng đầu tam
thiên thế giới, trụ trong cõi tam thiên. Do tâm ông ta kiêu mạn, nên chẳng chịu
vâng theo mạng lệnh triệu tập, nghĩ như thế này: “Ta là chúa tam giới, còn ai
tôn quý hơn ta mà triệu vời ta?” Lại nghĩ như thế này: “Người trì chú sợ hết
thảy vật ô uế, nay ta hóa ra hết thảy vật ô uế vây quanh bốn phía rồi trụ trong
đó, chú thuật do kẻ
đó thực hiện sẽ có
thể làm gì được?” Khi ấy, Bất Động Minh Vương vâng theo giáo mạng của đức Phật
triệu vời ông ta, thấy ông ta làm như thế, liền hóa ra Thọ Xúc Kim Cang (tức là
Bất Tịnh Kim Cang, Ucchusma, Uế Tích Kim Cang, Ô Sô Sa Ma Kim Cang), sai vị ấy
bắt lấy [Ma Hê Thủ La]. Lúc bấy giờ, Bất Tịnh Kim Cang trong khoảnh khắc đều
nuốt sạch tất cả các ô uế chẳng còn thừa sót, bắt lấy ông ta, đưa đến chỗ Phật.
Ông ta lại nói: “Các ngươi là loài Dạ Xoa, ta là chúa tể chư thiên, há có thể
vâng theo mạng lệnh của bọn ngươi ư?” Lập tức trốn về, bảy lượt như thế. Lúc
bấy giờ, Bất Động Minh Vương bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Cớ sao hữu tình này
phạm pháp tam-muội-da của tam thế chư Phật, hãy nên dùng chuyện gì để trị?” Đức
Phật bảo: “Lập tức đoạn trừ ông ta”. Khi đó, Bất Động Minh Vương liền nắm lấy
Ma Hê Thủ La, dùng chân trái đạp lên vầng bán nguyệt trên đỉnh đầu hắn, chân
phải đạp trên hình bán nguyệt trên đỉnh đầu vợ hắn. Lúc đó, Đại Tự Tại Thiên
ngay lập tức mạng chung. Lập tức trong khi đang chết ngất, ông ta chứng vô
lượng pháp, được thọ ký sẽ thành Phật trong thế giới Hôi Dục, hiệu là Nguyệt
Thắng Như Lai.
Đấy
đều là lời bí mật. “Ăn hết thảy các thứ ô uế” chính là ăn nuốt
các pháp cấu uế, cặn bẩn như ác nghiệp phiền não v.v… Nói “mạng chung” tức
là hết thảy tâm pháp (các tâm sở) vĩnh viễn đoạn trừ, nhập Vô Sanh pháp tánh.
Vì thế, từ đó được hết thảy chư Phật thọ ký, chẳng phải là bị giết chết. Lúc
bấy giờ, các chư thiên thấy chúa cõi trời trong tam thiên thế giới do chẳng
thuận theo tam-muội-da mà tự bị mạng chung, hết thảy kính sợ, tự bảo nhau rằng:
“Chúa trời còn như thế, sao ta chẳng đến [chỗ Phật]?” Liền cùng nhau đến chỗ
đức Phật, đạt được pháp lợi trong Đại Mạn-đồ-la. Khi ấy, Bất Động Minh Vương
bạch cùng đức Phật rằng: “Đại Tự Thiên này nên làm như thế nào?” Đức Phật bảo:
“Ông hãy nên khiến cho hắn sống lại”. Bất Động Minh Vương liền nói Pháp Giới
Sanh chân ngôn. Lúc bấy giờ, Đại Tự Tại liền tỉnh lại, sanh lòng đại hoan hỷ,
bạch rằng: “Rất hy hữu! Thoạt đầu con bị triệu tới, hỏi Phật: ‘Gã Dạ Xoa này
thuộc loài nào?’ Con chẳng hiểu. Đức Phật bảo: ‘Là chúa của chư Phật’. Con nghĩ
thế này: ‘Chư Phật tôn quý nhất trong hết thảy, sao lại coi gã này là chúa vậy
kìa?’ Đấy là con chẳng hiểu, nay mới biết. Do sức của vị đại vương này, khiến cho con hiện tiền
được thọ ký thành Phật. Hãy nên biết Ngài thật sự là tôn quý trong chư Phật’.
Vì lẽ nào vậy? Đại Tự Tại Thiên là chúa tể của tam thiên thế giới, chính là tự
tâm của chúng sanh, được gọi là “vô thỉ vô minh trụ địa”, được tự tại trong các Hoặc. Chỉ trừ
đại Bồ Đề tâm ra, không ai có thể khuất phục. “Đoạn mạng rồi” tức
tác chứng trong tịch nhiên giới. Nói “sanh” tức là khởi huệ
môn của Phật. Vì thế, hành giả Chân Ngôn phải nên tư duy mỗi lời mật ngữ của
chư Phật!
Lại
có pháp là dùng hai thứ hạt cải và các thứ độc dược trộn chung. Tạo hình tượng
của kẻ gây chướng, dùng [hạt cải và thuốc độc] bôi lên, khiến cho thân kẻ đó như bị lửa thiêu, mau chóng bị
thương. Vì thế nói là “mau bị”. [Kinh nói] đại lược đến
chỗ “Đại Phạm v.v… gây chướng còn bị [chế phục], huống hồ những kẻ khác
ư?” Pháp này lại còn do trì tụng đã lâu mà được thành tựu, người hiểu
pháp tắc rồi mới có
thể thực hiện. Nếu chỉ nghe pháp rồi lập tức mong đạt được tác dụng như thế,
chẳng có lẽ ấy! Đối với cọc bằng gỗ Khư Đà ở đây, nếu không có loại gỗ ấy, dùng
gỗ khổ luyện[5], cho đến dùng tân thiết[6] cũng được. “Chân” [trong
câu “chân trái đạp lên đỉnh đầu”] chính là “trí túc” (chân trí huệ).
(Kinh)
Nhĩ thời, Kim Cang Thủ bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Như ngã giải Phật sở thuyết
nghĩa, ngã diệc như thị tri chư thánh tôn trụ bổn Mạn-đồ-la vị, linh hữu oai
thần. Do bỉ như thị trụ cố, Như Lai giáo sắc vô năng ẩn tế. Hà dĩ cố? Thế Tôn
tức nhất thiết chư chân ngôn tam-muội-da, sở vị trụ ư tự chủng tánh cố. Thị cố,
Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát, diệc đương trụ ư bổn vị, tác chư sự
nghiệp.
(經)爾時金剛手白佛言:世尊!如我解佛所說義,我亦如是知諸聖尊住本漫荼羅位令有威神,由彼如是住故。如來教勅無能隱蔽。何以故?世尊即一切諸真言三昧耶,所謂住於自種性故。是故真言門修菩薩行諸菩薩,亦當住於本位作諸事業。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Như con hiểu
nghĩa do đức Phật nói, con cũng biết như thế này: Các vị tôn thánh trụ nơi tọa
vị trong Mạn-đồ-la của họ, khiến cho có oai thần như thế. Do họ
trụ như thế, giáo sắc của Như Lai chẳng thể ẩn tàng. Vì cớ sao? Đức Thế Tôn
chính là hết thảy các chân ngôn tam-muội-da, tức là trụ trong chủng tánh của
chính mình. Vì thế, các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn cũng nên trụ
nơi bổn vị, thực hiện các sự nghiệp).
Ngài
Kim Cang Thủ bạch cùng đức Phật rằng: “Vị Đại Lực Bất Động Minh Vương
(tức là tôn chủ) này có thể làm chuyện oai mãnh như thế, có thể điều phục, có
thể truyền giáo lệnh
bí mật của Như Lai, khiến cho [giáo lệnh ấy được] thực hiện”. Nếu
như Bổn Tôn là Phật Bộ, tức là [vị Bổn Tôn ấy sẽ] ngồi trên kim luân. Nếu làm
như thế, ắt sẽ có linh nghiệm. Sự “hiển hiện oai thần” ở đây
chính là nói về sự hiệu nghiệm. “Khiến cho làm” tức là nói “nếu nay làm như thế, ắt sẽ có công hiệu”. Ở trong các đường sanh tử, [chân ngôn
này] được nghe biết trọn khắp, không ai dám ẩn giấu chân ngôn này. Vì thế, Trì
Kim Cang là bậc đại lực oai mãnh, chẳng dám ẩn giấu, tức là do vị tôn thánh này
có linh nghiệm, thực hiện các thiện sự đều thành tựu, các kẻ gây chướng sẽ
chẳng dám ẩn giấu giáo sắc của Như Lai. “Chuyện đáng nên làm” thì
cũng chính là tam-muội-da của mười phương ba đời chư Phật. Hết thảy các Chấp
Kim Cang chúng con cũng phải nên thực hiện chuyện đáng nên làm, thuận theo
tam-muội này, chẳng dám bỏ lỡ. Vì lẽ nào vậy? Đấy chính là tánh của các Kim
Cang; vì thế, phải thường trụ trong pháp ấy.
Mỗi
tánh trong tứ tánh (bốn chủng tánh trong xã hội Cổ Ấn Độ) đều có gia pháp; nếu
đánh mất gia pháp, sẽ chẳng thể gọi là “kính thuận lời dạy của cha ông”, người
đời sẽ gọi kẻ đó là “đứa con xấu ác”. Nay đấng đại hùng mãnh, điều phục kẻ khó
điều phục, tuyên bố giáo pháp khó tin; đấy chính là gia pháp của chủng tánh Kim
Cang chúng con. Đó chính là gia pháp thuộc chủng tánh Như Lai. [Nhắc tới] các
vị Bồ Tát trong Chân Ngôn môn, các vị Bồ Tát tu hành ấy trụ trong bổn vị để làm
hết thảy các sự; đó chính là ý nghĩa ngài Kim Cang Thủ dùng bản thân để khuyên
lơn, khích lệ các hành nhân: Đối với chuyện mà chúng tôi đáng nên làm, nếu quý
vị là người tu hành trì chân ngôn, thì
cũng nên trụ trong ấy; đó chính là gia pháp của Như Lai. Đáng nên dùng vô lượng
môn để hàng phục các chướng, khiến cho [những kẻ gây chướng ngại] chẳng dám ẩn
giấu pháp của Như Lai. Các hành nhân ấy cũng nên phỏng theo chư tôn, nếu muốn
làm pháp hàng phục, cần phải tưởng tự thân là ngài Bất Động, trụ trong hỏa luân
v.v… Đức Phật nói: “Như thị Bí Mật Chủ! Như thị như thuyết” (Đúng
như thế, Bí Mật Chủ! Đúng như lời ông đã nói) chính là lời ấn khả: “Quả đúng như những điều ông đã nói!”
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Nhược thuyết chư sắc, bỉ chư thánh tôn Mạn-đồ-la vị, chư tôn hình
tướng, đương tri diệc nhĩ, thị tắc tiên Phật sở thuyết.
(經)祕密主!若說諸色彼諸聖尊漫荼羅位、諸尊形相,當知亦爾,是則先佛所說。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Nếu nói về các màu [nơi thân tướng của chư vị tôn thánh, tùy theo
từng màu mà mỗi vị sẽ ngồi trên các luân khác nhau], đối với vị trí của các vị
tôn thánh trong Mạn-đồ-la, và hình tướng của chư tôn, cũng nên biết [họ sẽ ngồi
trên luân hay đàn khác nhau] như thế. Đó là lời dạy của cổ Phật).
Mỗi
vị Bổn Tôn đều có hình sắc
riêng, trong phần sau sẽ nói. Như trong phần trên đã nói, [mỗi vị tôn thánh]
đều tùy theo vị trí của chính mình [trong Thai Tạng Mạn-đồ-la] mà thực hiện sự
nghiệp, nay lại nói đến màu sắc. Tức là đối với tất cả các vị tôn thánh trong
hội, nếu thấy có màu vàng, [vị ấy] sẽ đáng nên ngồi trên kim luân, màu trắng
thì ngồi trên thủy luân, màu đỏ như lửa thì ngồi trên hắc phong luân. Kế đó, từng
chữ Phạm âm (chủng tử tự của từng vị tôn thánh) có màu sắc khác biệt; đó
là “hình tướng” [được nói trong chánh kinh]. Như thấy [một vị tôn thánh có] dáng
vẻ tịch nhiên, cần phải [vẽ vị tôn thánh ấy] ngồi trên đàn tròn v.v… Tùy theo
từng loại mà nói như thế. Hãy nên mỗi mỗi vâng theo lời dạy mà vẽ. Đó là lời
dạy của cổ Phật, đạo u huyền tương đồng, chẳng riêng do ta (Thích Ca Mâu Ni
Phật) cố ý nói. [Đức
Phật khẳng định như thế] vì muốn cho chúng sanh dấy lên lòng tin quyết định.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Ư vị lai thế, liệt huệ, vô tín chúng sanh, văn như thị thuyết, bất
năng tín thọ, dĩ vô huệ cố, nhi tăng nghi hoặc, bỉ duy như văn kiên trụ, nhi
bất tu hành, tự tổn, tổn tha, tác như thị ngôn: “Bỉ chư ngoại đạo hữu như thị
pháp, phi Phật sở thuyết”. Bỉ vô trí nhân đương tác như thị tín giải.
(經)祕密主!於未來世劣慧無信眾生,聞如是說,不能信受,以無慧故而增疑惑。彼唯如聞堅住而不修行,自損損他作如是言:彼諸外道有如是法,非佛所說。彼無智人當作如是信解。
(Kinh:
Này Bí Mật Chủ! Trong đời vị lai, chúng sanh huệ kém, chẳng tin. Do không có
trí huệ, tăng thêm nghi hoặc. Bọn họ chỉ bám chắc vào các điều đã được nghe,
chẳng tu hành, tự tổn, tổn hại người khác, nói như thế này: “Lũ ngoại đạo đó có
pháp như thế, chẳng phải là do đức Phật nói”. Kẻ vô trí ấy sẽ tin hiểu như
thế).
Kẻ
không có trí huệ, tăng thêm nghi hoặc, do các chúng sanh ấy căn độn, ít trí,
lòng tin chẳng đủ, cho nên nghe chuyện rất sâu này, sẽ chẳng thể hiểu rõ, càng
tăng thêm lưới nghi. Đấy chính là nguyên do gây chướng. Vẽ [các hình tượng Bổn
Tôn và chủng tử của] chân ngôn, trì tụng v.v… mỗi mỗi đều có thâm ý, đều là
chuyện chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Như người có được món thuốc như thế,
liền có thể bay lên không trung, hoặc vào trong lửa v.v… Điều ấy chỉ do các
duyên hòa hợp, cho nên
chắc chắn chẳng hư dối,
chẳng phải hư huyễn, chẳng phải là điều để mọi người suy lường mà hòng nêu ra
nguyên do được! Vẽ các màu sắc như thế ấy, nếu vâng theo pháp chẳng nghi, sẽ có
thể thâm nhập cảnh pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Điều này chỉ có người tin mới
được vào, nếu muốn dùng tâm số (các tâm sở, các vọng niệm phân biệt) để suy
đoán, dò lường, sao có thể biết nguyên do để rồi chẳng nghi ư? Như người đời do sức thuốc mà
bay lên không trung, chuyện ấy các vị còn chưa thể hiểu trọn vẹn được! Thế mà
do cái tâm ngu độn, khinh miệt, hủy báng [pháp thâm mật này], bảo chẳng phải là
pháp chân không vô tướng của Như Lai, chỉ tự tổn hại: “Chỉ chấp chặt
vào những gì đã nghe biết, chẳng tu, kẻ đó tự tổn hại, tổn hại người khác, [cho
là] nói như thế thì chính là pháp của ngoại đạo v.v… Pháp như thế chẳng phải do
đức Phật nói”. Người ấy tuy nghe pháp này, chẳng thể có tín tâm quyết định,
tu hành đúng như pháp để cầu sự hiệu nghiệm trong hiện tại. Do chẳng thể, bèn
sanh lòng báng bổ rằng: “Sao lại do pháp chấp tướng như thế mà có thể
thành Bồ Đề được ư? Đấy ắt là do bọn ngoại đạo nói, chẳng phải là Phật pháp”. Như
người có được cam lộ cõi trời, chỉ cần quyết tâm sanh lòng tin mà uống vào, sẽ
tự thấy hiệu nghiệm trong hiện thời. Miệng chẳng uống vào mà cầu bay lên không
trung giữa ban ngày, do chẳng được thành tiên, bèn báng bổ thuốc ấy. Hãy nên
biết kẻ đó chẳng phải là người có trí. Do vậy, kẻ vô trí tin hiểu [sai lầm] như
thế đó.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: - Nhất Thiết Trí Thế Tôn, chư pháp đắc tự
tại, như kỳ sở thông đạt, phương tiện độ chúng sanh. Thị chư tiên Phật thuyết,
lợi ích cầu pháp giả. Bỉ ngu phu bất tri, chư Phật chi pháp tướng. Ngã thuyết
nhất thiết pháp, sở hữu tướng giai Không, thường đương trụ Chân Ngôn, thiện
quyết định tác nghiệp.
(經)爾時世尊而說偈言:一切智世尊,諸法得自在,如其所通達,方便度眾生。是諸先佛說,利益求法者,彼愚夫不知,諸佛之法相。我說一切法,所有相皆空,常當住真言,善決定作業。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng: - Nhất Thiết Trí Thế Tôn, tự tại
trong các pháp, như Ngài đã thông đạt, phương tiện độ chúng sanh. Đấy do cổ
Phật nói, lợi ích người cầu pháp. Kẻ ngu phu chẳng biết, pháp tướng của chư
Phật. Ta nói hết thảy pháp, tất cả tướng đều Không. Thường nên trụ Chân Ngôn,
khéo quyết định tác nghiệp).
Phật
là bậc Nhất Thiết Trí, trong hết thảy các pháp đã được tự tại, lợi lạc chúng
sanh. Chữ “dĩ” (đã) ở đây cũng có thể hiểu là “thông
đạt”; đó là ý nghĩa chánh yếu, tức là ý nghĩa “trọn đủ phương tiện,
không gì chẳng hiểu”. Do trước câu này, [chánh kinh] đã nói “nhất
thiết”, [phải nên áp dụng ý nghĩa ấy vào đây], do tiếng Phạn có cách
nói chiếu ứng ấy. Trong phần kinh văn trước đó đã nói đến chư Phật, nay từ câu
này trở đi mới nói “tiên Phật tác như thị thuyết” (cổ Phật đã
nói như thế). Hết thảy các điều được nói giữa đôi đằng đều nhằm nói về chuyện
lợi ích người cầu pháp. Do kẻ ngu phu chẳng biết “chư pháp tướng
Không”, đó là nói về tướng của hết thảy các pháp. “Thường
đương trụ Chân Ngôn, thiện quyết định tác nghiệp” (thường
nên trụ Chân Ngôn, khéo tạo tác các sự nghiệp, tức tu hành Mật pháp): Ý nói Như
Lai trọn đủ Nhất Thiết Trí, được tự tại trong các pháp. Do chúng sanh trí huệ
kém cỏi, Phật chưa thể kham nói ngay về lực dụng chẳng thể nghĩ bàn nơi tự thể
của Như Lai, bèn chỉ bày các phương tiện như vẽ vời, màu sắc v.v… khiến cho
chúng sanh làm theo, sẽ có thể thỏa mãn sở cầu, đạt được lợi ích. Vì lẽ nào vậy?
Do các chúng sanh chẳng hiểu tướng Không của các pháp. Do vậy, trong vô tướng, [đức Phật] bèn nói phương tiện
hữu tướng. Nếu ai thấu hiểu thâm ý của Phật, sẽ trụ trong hạnh “chân
thường trụ”, các việc đã làm đều nhập Lý Thể giống như tâm trí Nhất
Thiết Trí. Người chẳng có mối lo ngờ như thế, hết thảy các chướng
pháp sẽ chẳng thể thừa dịp [gây rối] được!
4. Phẩm thứ tư: Phổ Thông Chân Ngôn Tạng
(Phổ Thông Chân Ngôn Tạng phẩm đệ tứ, 普通真言藏品第四)
(Kinh)
Nhĩ thời, chư Chấp Kim Cang, Bí Mật Chủ vi thượng thủ, chư Bồ Tát chúng, Phổ Hiền vi thượng
thủ, khể thủ Tỳ Lô Giá Na Phật, các các ngôn âm thỉnh bạch: - Thế Tôn! Nhạo dục
ư thử Đại Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la vương, như sở thông đạt pháp giới thanh
tịnh môn, diễn thuyết chân ngôn pháp cú.
(經)爾時諸執金剛祕密主為上首,諸菩薩眾普賢為上首,稽首毘盧遮那佛,各各言音請白:世尊!樂欲於此大悲藏生大漫荼羅王,如所通達法界清淨門演說真言法句。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, các vị Chấp Kim Cang, ngài Bí Mật Chủ làm thượng thủ, trong các vị
Bồ Tát thì ngài Phổ Hiền làm thượng thủ, đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na Phật, ai nấy dùng
lời lẽ thỉnh bạch: - Bạch Thế Tôn! Chúng con ưa thích từ trong Đại Bi Tạng Sanh
Đại Mạn-đồ-la vương này, đúng theo từng môn thanh tịnh đã thông đạt đối với
pháp giới mà diễn nói pháp cú chân ngôn).
Các
vị Bồ Tát, Kim Cang ấy vì muốn thành tựu viên mãn pháp này, ai nấy đảnh lễ Đại
Nhật Như Lai xong, mỗi vị vui thích, muốn tự diễn nói pháp môn pháp giới thanh
tịnh mà tâm mình đã thông đạt. Vì lẽ nào vậy? Đối với cái Thể của pháp giới
thanh tịnh nơi Đại Mạn-đồ-la vương như thế, mỗi vị Bồ Tát do từ một môn mà đạt
được tự tại, tương xứng với sự hiểu biết của chính mình mà rộng nói. Nếu có
chúng sanh tiến nhập, hành theo một môn ấy, chẳng lâu sau, sẽ được giống như vị Bồ Tát đó. Các
vị Bồ Tát ấy đều là đức nội chứng của Đại Nhật Như Lai. Vì muốn rộng khai môn
tri kiến ấy, mỗi vị Bồ Tát đều diễn nói một môn.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn vô hoại pháp nhĩ gia trì, nhi cáo chư Chấp Kim Cang, cập Bồ Tát ngôn: -
Thiện nam tử! Đương thuyết như sở thông đạt pháp giới, tịnh trừ chúng sanh giới
chân thật ngữ cú.
(經)爾時世尊無壞法爾加持而告諸執金剛及菩薩言:善男子!當說如所通達法界,淨除眾生界真實語句。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn do pháp vốn sẵn bất hoại gia trì như thế, bảo các vị
Chấp Kim Cang và Bồ Tát rằng: - Thiện nam tử! Hãy nên nói câu chữ chân thật
tịnh trừ chúng sanh giới đúng như các ông đã thông đạt).
Khi
đó, đức Phật thuận theo lời thỉnh của họ, do pháp ấy là vô tận, hoặc có thể nói
là vô hại, hoặc có thể nói là bất động, hoặc có thể nói là bất hoại, các nghĩa
dưới đây chính là các ý nghĩa đó. Như người khăng khăng cam chịu thất bại, sẽ
chẳng thể cứu chữa được! Lại có kẻ khác có thể lìa các lỗi lầm ấy, kẻ đó sẽ
chẳng bị khuất phục. Ý nghĩa “bất hoại” là như thế đó. Sức tự
tại trang nghiêm vô tận, sức vô công dụng mà pháp vốn sẵn có, dùng đó để gia trì
trọn khắp các đại chúng ấy; sau đấy mới bảo rằng: “Thiện nam tử! Nay
các ông hãy nên nói. Như đối với mỗi môn do chính ông thông đạt pháp giới, vì
muốn trừ sạch các cấu uế hư vọng trong hết thảy chúng sanh giới, khiến cho đều
giống như chân pháp giới vô tận tạng, ai nấy hãy nên tự nói câu chân ngôn vậy”.
(Kinh)
Thời Phổ Hiền tức thời trụ ư Phật Cảnh Giới Trang Nghiêm tam-muội, thuyết Vô
Ngại Lực chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tam ma đa nô yết đa,
vi ra xà đạt ma nễ xà đa, ma ha ma ha, sa ha.
(經)時普賢菩薩即時住於佛境界莊嚴三昧,說無閡力真言曰:南麼三曼多勃馱喃。三麼多奴揭多。微囉闍達摩儞闍多。摩訶摩訶。莎訶。
(Kinh:
Khi đó, Phổ Hiền Bồ Tát lập tức trụ trong Phật Cảnh Giới Trang Nghiêm tam-muội,
nói chân ngôn Vô Ngại Lực rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tam ma đa nô
yết đa, vi ra xà đạt ma nễ xà đa, ma ha ma ha, sa ha).
Khi
đó, Phổ Hiền Bồ Tát trụ trong Phật Trang Nghiêm Cảnh Giới tam-muội để nói
chân ngôn Vô Ngại Lực. Ngài là thượng thủ trong các vị đại Bồ Tát, được tự tại
trong pháp môn Phật Trang Nghiêm Cảnh Giới, lập tức nhập tam-muội ấy. Phật
Cảnh Giới chính là cảnh giới chân thật do chư Phật tự chứng, hàng Thanh Văn
chẳng thể đạt được, như trong phẩm
Phương Tiện của kinh Pháp Hoa đã nói. “Trang nghiêm” chính là
cái Thể mà Như Lai tự chứng. Thể có vô lượng đức, mỗi đức có vô lượng tên, dùng
vô lượng trang nghiêm để tự trang nghiêm. Đấy chính là pháp lìa danh tự chẳng
thể nghĩ bàn. Cớ sao trong Định ấy mà có ngôn thuyết vậy? Tức là nói vị Bồ Tát
này do trụ trong môn tam-muội ấy, nên đạt được sức vô ngại. Từ trong tự tâm diện môn
mà phát ra đủ loại ánh sáng, trong quang minh ấy nói chân ngôn này.
Tam
Mạn Đa (Samanta) là Đẳng, Nô Yết Đa (Anugata) nghĩa là “tiến, đi, qua”. Vi Ra
Xà (Viraja): Vi là lìa, Ra
Xà (Raja) là trần cấu, [Vi Ra Xà] nghĩa là “trừ hết thảy các chướng”. Đạt Ma Nễ
Xà Đa (Dharmanirjāta), hai chữ đầu là
Pháp, ba chữ sau là Sanh. Sanh ra các pháp nào? Tức là từ thể tánh của các pháp
mà sanh. Ma Ha Ma Ha (Mahāmahā):
Ma là chữ thứ năm, trọn khắp hết thảy mọi nơi, tức là Đại Không. To lớn trong
các món Không, nên gọi là Đại Không. Vì thế, lặp lại. Lại còn là “chẳng thể
được, không gì sánh bằng”, nên gọi là Đại. Trong Trùng Không, lại càng là khôn
sánh!
Ý
nói: Đẳng chính là “các pháp rốt ráo bình đẳng”. “Tiến” có
nghĩa là “đi qua”, tức là Phật khéo vượt qua [sanh tử, phiền
não] mà thành Chánh Giác. Nhưng pháp giới bình đẳng chẳng đến, chẳng đi, sao
lại có đến, có đi ư? Kế đó, giải thích: Do có thể ly cấu, trừ hết thảy các
chướng; đó chính là ý nghĩa “tiến lên thù thắng”. Chẳng đi mà
tiến, đó chính là Thiện Thệ bậc nhất! Do tiến hành như thế, sẽ có thể sanh
thành các pháp, tức là từ pháp tánh bình đẳng mà sanh trong nhà Phật. Vì thế
nói là “đại trung chi đại” (lớn nhất trong các thứ to lớn),
tức là Đại Không do chứng vô ngại, không gì sánh bằng. Đại Không là cảnh giới
của Phật. Nhưng chân ngôn này dùng chữ Ha làm Thể, Ha là Hỷ. Đó gọi là tu hành
theo pháp tu của Bồ Tát. Nếu chúng sanh từ trong pháp môn này mà thọ trì, đọc,
tụng, hoặc quán chiếu, tức là có cùng pháp môn với đức Phổ Hiền, chẳng lâu sau
sẽ đạt được sức tự tại
nơi Phật Cảnh Giới Trang Nghiêm tam-muội.
(Kinh)
Thời, Di Lặc Bồ Tát trụ Phát Sanh Phổ Biến Đại Từ tam-muội, thuyết Tự Tâm chân ngôn viết: - Nam
ma tam mạn đa bột đà nẫm. A thệ đan xà da. Tát bà tát đỏa xa dã nô kiệt đa. Sa
ha.
(經)時彌勒菩薩住發生普遍大慈三昧,說自心真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿誓單闍耶。薩婆薩埵奢也奴竭多。莎訶。
(Kinh:
Khi đó, Di Lặc Bồ Tát trụ trong Phát Sanh Phổ Biến Đại Từ tam-muội, nói tự
tâm chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A thệ đan xà da, tát bà tát
đỏa xa dã nô kiệt đa. Sa ha).
Phổ
là bình đẳng, trọn khắp hết thảy các pháp giới. Tương xứng với pháp giới mà sanh
khởi lòng đại từ, có thể trao cho trọn khắp hết thảy chúng sanh niềm vui chánh
pháp. Đó là chỗ nhập môn của Ngài. Như tự mình tăng tấn, đạt được, nhập vào
tam-muội mà nói chân ngôn; do vậy nói là “tự tâm thuyết”. Chữ
Thuyết có ý nghĩa giống như trong phần trên. A Thệ Đan Xà Da (Ajitaṃjaya), có nghĩa là “vô năng thắng” (không
ai hơn được). Xà Da (Jaya) là thắng, A là không.
Tát Bà Tát Đỏa (Sarvasatva) là “hết thảy chúng sanh”. A Xa Dã (Āśaya) là tâm
tánh, tức các căn, tánh dục do đã hành, hoặc tu tập từ đời trước. Nô Kiệt Đa
(Anugata) là “biết”, tức là có thể biết rõ các căn và tánh
hạnh của chúng sanh.
Chân
ngôn này lấy chữ A làm Thể, tức là ý nghĩa “vốn bất sanh”. “Sanh” là
sanh, lão, bệnh, tử, hết thảy các pháp lưu chuyển. Thể của nó là “thường tự chẳng sanh”; đó là ý nghĩa của chữ A. Do biết tự tánh
của các pháp chẳng sanh, cho nên hết thảy chúng sanh chẳng có thượng, thắng
thượng, vô đẳng! Lại có thể biết do pháp thể là bất sanh, soi biết hết thảy tâm
tánh của các căn cơ, không gì chẳng hiểu rõ hiện giác, thuận theo người đáng
nên được [hóa độ] mà thành tựu [người ấy]. Đó là lòng Từ bậc thượng, thí trọn
khắp chúng sanh, chẳng có cùng tận. Do vậy, nếu có chúng sanh có thể thông đạt,
thọ trì, đọc, tụng pháp hạnh này, hành theo, chẳng lâu sau sẽ có cùng một hạnh
với đức Di Lặc.
(Kinh)
Nhĩ thời, Hư Không Tạng Bồ Tát nhập Thanh Tịnh Cảnh Giới tam-muội, thuyết tự
tâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ca xa tam ma đa nô kiệt
đa, phệ chất đát lãm phạ ra đà ra, sa ha.
(經)爾時虛空藏菩薩入清淨境界三昧,說自心真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿迦奢三麼多奴竭多。吠質怛纜嚩囉馱囉。莎訶。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Hư Không Tạng Bồ Tát nhập Thanh Tịnh Cảnh Giới tam-muội, tự nói
tâm chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ca xa tam ma đa nô kiệt đa, phệ
chất đát lãm, phạ ra đà ra, sa ha).
Hư
Không Tạng Bồ Tát nhập Thanh Tịnh Cảnh Giới tam-muội, nói tâm chú, tức là trụ
trong tam-muội ấy, có thể biết bản tánh của tự tâm là thanh tịnh, liễu đạt cảnh pháp giới thanh
tịnh như thế, tức là tạng bí mật Đại Không. Hư Không lại chính là Đại Bi Thai
Tạng, có thể trưởng dưỡng thành tựu cái tâm Bồ Đề. A Ca Xa (Ākāśa) nghĩa
là hư không, Tam Mạn Đa (Samata) là Đẳng, ý nói hết thảy các pháp như hư không.
Nô Kiệt Đa (Anugata) là biết rõ. Phệ Chất Đát-lãm (Vicitrāṃ) là “áo nhiều màu”,
nghĩa là các thứ hiển sắc kỳ diệu. Phạ-ra (Bara)
là áo, Đà (Dha) nghĩa là chấp trì, Ra là mặc, khoác. Đức ấy sanh ra tức là mặc
các loại áo vậy.
Chân
ngôn này lấy chữ A (âm dài, tức chữ Ā, आ) làm Thể. Chữ A là cái
Thể vốn chẳng sanh, nay chữ Ā này là âm thanh thứ hai, tức là nghĩa Không.
Do “vốn bất sanh” nên giống như hư không, cũng tức là hết thảy
các pháp đều giống như hư không, tự đạt được sự thấu hiểu như thế
đó. “Áo nhiều màu” chính là các thứ pháp môn vạn đức trang
nghiêm. Nếu ai có thể chứng môn Không tam-muội này, sẽ có thể dùng vạn đức để
trang nghiêm tấm thân, như do hư không thanh tịnh mà có thể thấy hiển sắc. Các
điều khác như đã nói trong phần trước.
(Kinh)
Nhĩ thời, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát nhập Bi Lực tam-muội, thuyết chân
ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát đỏa hệ đa, phiêu dữu kiệt đa, đát
lãm đát lãm lãm lãm, sa ha.
(經)爾時除一切蓋障菩薩入悲力三昧,說真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿薩埵係多驃庾竭多。怛纜怛纜纜纜。莎訶。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát nhập Bi Lực tam-muội, nói chân
ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát đỏa hệ đa, phiêu dữu kiệt đa,
đát lãm đát lãm lãm lãm, sa ha).
Lúc
bấy giờ, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát nhập Bi Lực tam-muội nói chân
ngôn; đó chính là lòng Bi nơi pháp tánh. Do sức tự tại có thể trừ hết thảy cái
chướng của chúng sanh, được tự tại trong các chướng ấy. Có thể ở ngay
trong chướng ấy mà lại có thể trừ khử thì chính là đại bi của Như Lai vậy!
A (Aḥ, आः)
có nghĩa là “hàng phục, nhiếp phục”. Đó là cái Thể của chân
ngôn. Chữ A vốn bất sanh, chữ thứ hai sau đó (tức hai chấm) tạo thành âm dài, chính là Kim Cang tam-muội, lại thêm
một điểm bất động thì chính là ý nghĩa “hàng phục”. Tát Đóa Hệ
Đa (Satvahīta) là lợi ích hữu tình. Phiêu
Dữu Kiệt Đa (Abhyugata) là khởi đầu, mà cũng là khởi sanh. Đát-lãm Đát-lãm
(Traṃ Traṃ, त्रंत्रं), Đát chính là chữ Đa (त, ta),
có nghĩa là Như Như, trong chữ Lãm (रं) có chữ La (र), có nghĩa là “vô
cấu”. Thêm một chấm tức là chữ Ma, thì là “nhập chứng Đại
Không”. Lãm Lãm (Raṃ Raṃ): Chữ La trong ấy có nghĩa là “không
có bụi bặm”, thêm một chấm tức là chứng Đại Không.
Chân
ngôn này có ý nghĩa: Cái Thể là Như Như, do sức tự tại này mà trừ hết thảy các
trần cấu che lấp, ngăn chướng, chứng Không. Cái Không nhất trong các cái Không,
chính là ý nghĩa của Đại Không. Tướng ấy vi tế, khó trừ, chốn chốn đều nói phá
vô minh tam-muội, trừ sạch Hoặc tướng nơi tự thể. Vì thế, lặp lại hai chữ Lãm
Lãm nhằm nhấn mạnh lần nữa. Lại giải thích theo tướng thì do trụ trong chữ Raṃ
(रं),
sẽ có thể tạo lợi ích rộng lớn cho hết thảy chúng sanh, phát sanh tánh này, trừ
khử các cấu. Nếu có chúng sanh nhập môn Chân Ngôn này, chẳng lâu sau, sẽ có
cùng đức với vị Bồ Tát ấy. Phàm khi quán chiếu, chỉ lấy một chữ bản thể làm
chủ, khi trì tụng thì nói đủ [các chữ trong chân ngôn]. Đấy là chữ chủng tử.
Lại giải thích theo thứ tự của các chữ, như trước hết có chữ Ác (Aḥ), dùng chữ
kế đó để giải thích. Chuẩn theo tự môn trước đó, nếu chẳng trọn khắp, sẽ chẳng gọi là Phổ được!
(Kinh)
Nhĩ thời, Quán Thế Tự Tại Bồ Tát nhập ư Phổ Quán tam-muội, thuyết tự tâm cập
quyến thuộc chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phạ đát tha
kiệt đa, phạ lộ cát đa, ca rô ni ma dã, ra ra ra, hồng nhã, sa ha.
(經)爾時觀世自在菩薩入於普觀三昧,說自心及眷屬真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩怛他竭多。嚩路吉多。迦嚧尼麼也。囉囉囉吽若。莎訶。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Quán Thế Tự Tại Bồ Tát nhập Phổ Quán tam-muội, nói chân ngôn của
tự tâm và quyến thuộc rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phạ đát tha
kiệt đa, phạ lộ cát đa, ca rô ni ma dã, ra ra ra, hồng nhã, sa ha).
Dùng
Phổ Nhãn để quán chúng sanh, nên gọi là đấng Quán Tự Tại. Đã nhập môn tam-muội
này, từ cái tâm này, tỏa ra đủ loại quang minh, trong quang minh hiện ra chân
ngôn của pháp môn. Tát Phạ Đát Tha Kiệt Đa (Sarvatathāgata) tức là hết thảy Như
Lai, ý nói mười phương ba đời chư Phật. Phạ Lộ Cát Đa (Avalokita) là Quán, giống hệt như điều đức Phật quán. Vì
thế gọi là “chư Như Lai quán”, tức là bình đẳng quán. Đó chính
là Phổ Nhãn Quán. Ca Rô Ni Ma Dã (Kāruṇamaya) là cái Thể. Đó chính là Đại Bi
làm Thể, giống như người bằng vàng, do tự thể thuần là vàng, nên gọi là “kim
nhân”. Vị Bồ Tát này cũng thế, thuần dùng Đại Bi làm Thể. Ra Ra Ra: Ra
có nghĩa là trần, nhập A tự môn thì là Vô Trần. Do vậy, nhắc lại ba lượt, ngụ ý
trừ trần chướng của phàm phu. Chữ Hồng (Hūṃ) nghĩa là “khủng bố”. Dùng sức tự
tại đại oai mãnh để đe dọa ba tầng trần chướng, khiến cho chúng bị trừ sạch,
giống như mắt Phật. Chữ Nhã (जाः,
Jaḥ) cuối cùng chính là chủng tử. Các chữ [khác trong bài chú này] đều nhằm
giải thích ý nghĩa của chữ [Nhã]
này, tức sanh và bất sanh là ý nghĩa của chữ Xà (ज, Ja). Hoặc coi chữ Tát (स,
Sa) đầu tiên là Thể, cũng có cùng công dụng, mang ý nghĩa “cảnh giác”. Trong
chữ Hồng (हूं)
có chữ Ha (ह)
nghĩa là hoan hỷ, trên đó có chấm Đại Không là tam-muội, phía dưới có nét vẽ
tam-muội (ू).
Trong đó, nét chữ vẽ ở dưới cũng là tam-muội, [tức là] hai tam-muội song hành.
Tam thế chư Phật đều cùng quán điều này. Vì thế gọi là Đẳng Quán.
(Kinh)
Đắc Đại Thế chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, nhiêm nhiêm sách,
sa ha.
(經)得大勢真言曰:南麼三曼多勃馱喃。髯髯索。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn Đắc Đại Thế rằng: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, nhiêm nhiêm sách,
sa ha).
Ngài
Đắc Đại Thế cũng nhập môn tam-muội này, giống như ngài Quán Âm, do là quyến
thuộc vậy. Nhiêm Nhiêm (Jaṃ Jaṃ, जांजां)
nghĩa là Sanh, nên có hai tầng: Trước là Phiền Não Chướng sanh, sau là Sở Tri
Chướng sanh. Nhập môn chữ A thì toàn thể của cả hai thứ sanh đều là bất sanh.
Trên đó có chấm Đại Không, tức là ý nghĩa Đại Không, ngụ ý: Trừ hai thứ chướng
thì Đại Không sanh khởi. Chữ Sách (Saḥ, सः) là chủng tử của chân
ngôn. “Sách” nghĩa là bất động. Pháp bất động mà trụ trong
Động tức là có sanh diệt. Phàm là vật có sanh diệt thì có tướng trụ trong Động.
Vì thế kinh nói: “Động, bất động pháp, giai thị bất an chi tướng” (Pháp
động và bất động đều là tướng chẳng yên). Bên cạnh [chữ Sa (स)]
có hai chấm giống như Niết Bàn, tức là ý nghĩa Kiên Trụ. Đã lìa hai chướng,
giống như Đại Không, trụ vững trong địa vị ấy, giống như chư Phật trụ, tức là
địa vị “đại thế” (thế lực, oai thế to lớn). Như
người đời có quan chức lớn, có lắm tài lực, oai thế, khiến cho nhiều người
khuất phục, bèn gọi là “người có oai thế”. Oai thế ấy chính là
địa vị. Ý nói: Vượt
thoát hai thứ sanh, sẽ giống như Phật sanh, tức là địa vị Như Lai. Đạt được địa vị to lớn ấy, có thế lực to
lớn ấy, nên gọi là Đắc Đại Thế.
(Kinh)
Đa La tôn chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, ca lô noa, ốt bà phí,
đa rị đa rị ni, sa ha.
(經)多羅尊真言曰:南麼三曼多勃馱喃。迦盧拏。嗢婆費。多唎多唎尼。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của ngài Đa La là: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, ca lô noa, ốt bà
phí, đa rị đa rị ni, sa ha).
Kế
đó, ngài Đa La (Tārā) cũng là quyến thuộc của ngài Quán Tự Tại, nhập tam-muội
cũng giống như phần trên đã nói. Ca Lô Noa (Kāruṇa) nghĩa là Bi. Ốt-bà Phí (Odbhave) là Sanh, ý nói sanh từ lòng Bi.
Đấng có lòng Bi tức là Quán Âm. Vị Bồ Tát này sanh từ mắt của vị tôn thánh
ấy (Quán Thế Âm Bồ Tát). Giống như thấy Thật Tướng của các pháp, bèn gọi là Phổ
Nhãn, tức là thấy cái Thể Như Như, sanh từ con mắt tam-muội ấy. Đa Rị Đa Rị Ni
(Tāre Tāriṇi): Đa Rị nghĩa là Độ. Nhưng chân ngôn này lấy chữ Đa đầu tiên làm
thể, tức là chữ Đa (ता, Tā) đầu tiên trong hai chữ Đa. Đa (त,
Ta) có nghĩa là Như Như, cái chấm bên cạnh (ा) chính là chữ A; đó gọi
là hạnh Như Như. Chữ Ra là trần. Sáu trần chính là biển cả sanh tử. Do quán lý
tánh Như Như này, hết thảy các trần lao liền giống như “vốn sẵn bất sanh”, tức là ý nghĩa
“vượt biển cả”. Có thể vượt thoát các biển cả sanh tử tức là “đắc độ trong các pháp”. Hơn nữa, Thích Phạm được nói là “cực
độ”, do đã tự đắc độ, lại còn phổ độ hết thảy chúng sanh, nên gọi là
Cực Độ. Nếu người chưa tự đắc độ mà độ người khác, sẽ chẳng thể như thế được.
Nếu là người đã tự độ, lại còn có thể độ người khác, sẽ có lẽ ấy! Chữ Đa kế
tiếp chính là cái Thể của Như Lai. Do quán Như Như mà vượt qua biển cả trần lao,
đạt thành tự thể của Như Lai. Như trong Đại Bổn nói có năm trăm vị Đa La, đều
sanh từ mắt của đức Quán Âm, đều là A Di Đà Tỷ Muội tam-muội vậy!
(Kinh)
Đại Tỳ Câu Chi chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà bồi dã,
đá la tát nễ, hồng, hồng, tát phả trá dã, sa ha.
(經)大毘俱胝真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩婆陪也。哆羅薩儞。吽。吽。薩頗吒也。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của ngài Đại Tỳ Câu Chi là: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà
bồi dã, đá la tát nễ, hồng, hồng, tát phả trá dã, sa ha).
Kế
đó, ngài Tỳ Câu Chi (Bhṛkuṭi) nhập tam-muội giống như trên. Tát Bà Bồi Dã
(Sarvabhaya) nghĩa là “hết thảy khủng bố”. Đá La Tát Nễ (Trāsani) cũng là Khủng
Bố. Hồng Hồng (Hūṃ Hūṃ) cũng có nghĩa là Khủng Bố. Tát Phả Trá Dã (Sphoṭaya) là “tàn hại, phá chướng”.
Sở dĩ lặp lại Khủng Bố là do trước bèn có sự sợ hãi, sau là vô úy. Hết thảy
chúng sanh đều có nỗi sợ hãi, do chưa đạt được Vô Úy Xứ. Nhưng do ở trong ấy mà sanh giải đãi, ngạo mạn, ngã
chấp, tự cao, cho nên [Bồ Tát] đe dọa họ, khiến cho họ lìa hữu úy, đạt được vô
úy. Do bị sợ hãi mà khiến cho họ được không sợ hãi. Vì thế nói lặp lại. “Tàn
hại” tức là phá hết thảy các chướng. Nhưng chân ngôn này lấy chữ Đá La
(त्रा, Trā) làm Thể. Các chữ khác nhằm giải
thích chữ này. Đa (त, Ta) là Như Như. La là trần. Một chấm bên
góc chữ Đa là A (ा),
A tức là “hạnh”. Thể của các trần lao giống như Như Như. Dùng hạnh Như Như này, sẽ có thể chiết phục, diệt tan hết
thảy các tràng cao “sanh tử kiến, mạn, ngã chấp”, tức là ý nghĩa “đại
tồi phục” đập tan, chế phục lớn lao).
Trong
đại hội của Phật, khi đó, các vị Kim Cang hiện dáng vẻ hàng phục hết sức đáng
sợ, ra vẻ như không ai có thể hàng phục họ. Khi đó, từ vết nhăn trên trán của
đức Quán Âm, hiện ra vị Bồ Tát
này. Phương Tây gọi vết nhăn trên trán là Tỳ Câu Chi. Như người hiện thời tức
giận, trên trán sẽ có vết nhăn. Vị Bồ Tát này hiện thân với hình dạng đại phẫn
nộ. Khi đó, các vị Kim Cang đều sanh lòng sợ hãi, nhập vào thân ngài Kim Cang
Tạng. Khi đó, ngài Tỳ Câu Chi đến trước ngài Kim Cang Tạng. Lúc ấy, ngài Kim
Cang Tạng cũng hết sức sợ hãi, lui tới dưới tòa của Như Lai, “nguyện Phật che
chở cho con”. Khi đó, đức Phật bảo ngài Tỳ Câu Chi: “Này chị!
Hãy dừng lại”. Lúc bấy giờ, ngài Tỳ Câu Chi liền đứng lại, bạch
Phật: “Vâng theo giáo sắc của Phật, con sẽ phụng hành”. Lúc
bấy giờ, nỗi sợ hãi của các vị Kim Cang cũng đều trừ, họ đều đại hoan hỷ mà nói thế
này: “Đấng đại bi này có thể hiện đại lực oai mãnh rất hy hữu. Phải nên
thưa hỏi ý bí mật trong ấy”.
(Kinh)
Bạch Xứ Tôn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha kiệt đa tỳ
xá dã, tam bà phệ, bát đầu ma ma lý nễ, sa ha.
(經)白處尊真言曰:南麼三曼多勃馱喃。怛他竭多毘舍也。三婆吠。鉢頭摩摩履儞。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Bạch Xứ
Tôn là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha kiệt đa tỳ xá dã, tam bà phệ,
bát đầu ma ma lý nễ, sa ha).
Kế
đến là ngài Bạch Trụ Xứ (Pāṇḍaravāsinī, Bạch Xứ)
Bồ Tát, hãy nên giữ nguyên âm tiếng Phạn. Đát Tha Kiệt Đa (Tathāgata) là Như
Lai, Tỳ Xá Dã (Viṣaya) là cảnh giới. Cảnh giới của Như Lai gọi là Như Như.
Tam Bà Phệ (Saṃbhave) là “sanh từ đó”. Bát Đầu-Ma (Padma) là “hoa trắng”, Ma Lý
Nễ (Mālini) tức là
dùng hoa Bát Đầu-Ma làm tràng hoa; do vậy đặt tên như thế. Lý Nễ ở đây có nghĩa
là “ở”, là “trụ”. Nhưng chân ngôn này lấy chữ Đát (Tat) đầu tiên làm Thể, tức
là Như Như. Như Như chính là cảnh giới của chư Phật. Ta nay từ đó mà
sanh! “Bạch” tức là tâm Bồ Đề. Trụ trong cái tâm Bồ Đề ấy
chính là chỗ tự trụ. Bồ Đề tâm ấy sanh từ cảnh giới của Phật. Thường trụ trong
ấy, có thể sanh ra chư Phật. Đây chính là Quán Âm Mẫu, tức Liên Hoa Bộ Chủ.
(Kinh)
Hà Da Yết Lật Phạ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng khư đà
bạn xà, tát phổ trá dã, sa ha.
(經)何耶揭㗚嚩真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吽佉陀畔闍。薩普吒也。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Hà Da Yết Lật Phạ là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng khư đà
bạn xà, tát phổ trá dã, sa ha).
Kế
đó là Mã Đầu Bồ Tát (Hayagrīva, Hà Da Yết Lật Phạ). Hồng nghĩa là “khủng
bố”, Khư Đà (खद, Khada) nghĩa là “ăn nuốt”,
tức là “ăn nuốt các chướng”, nhưng chân ngôn này lấy chữ Khư làm thể.
Chữ Khư (ख,
Kha) nghĩa là Không, cái chấm bên góc là “hành”. Đà (द, da) có nghĩa là “trao cho”. Nói
tới Không, đó chính là Thật Tướng của các pháp. Do hành chuyện này mà đạt được
cái quả Thật Tướng. Lại thường dùng điều này để trao cho người khác. Nay
nói “ăn nuốt” thì chính là dùng Không hạnh này để ăn nuốt các
thứ gây chướng ngại pháp Bồ Đề. Bạn Xà (Bhañja):
Bạn là Dục, Sắc, tam giới, Xà là sanh. Nói gộp chung hai chữ, chính là ý
nghĩa “thuận hoại”. Tát Phổ Trá Dã (Sphoṭaya) nghĩa là “phá nát
trọn khắp, khiến cho hết
sạch”, ý nói: Dùng Không hạnh ấy để phá hết thảy các pháp trọn khắp, chẳng
còn thừa sót. Ngoại trừ Thật Tướng của các pháp, các thứ khác đều là pháp gây
chướng Bồ Đề. Dùng “ăn nuốt” để phá nát cho đều hết sạch, đạt
thành đại thế lực oai mãnh. Vị Bồ Tát này là Liên Hoa Bộ Minh Vương.
(Kinh)
Thời Địa Tạng Bồ Tát trụ Kim Cang Bất Khả Hoại Hạnh Cảnh Giới tam-muội, thuyết
chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha ha, tô đa nô, sa ha.
(經)時地藏菩薩住金剛不可壞行境界三昧,說真言曰:南麼三曼多勃馱喃。訶訶訶。蘇多奴。莎訶。
(Kinh: Khi
đó, Địa Tạng Bồ Tát trụ trong Kim Cang Bất Khả Hoại Hạnh Cảnh Giới tam-muội,
nói chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha ha, tô đa nô, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của Địa Tạng Bồ Tát. Khi đó, vị Bồ Tát này nhập Kim Cang Bất
Khả Hoại Hạnh [Cảnh Giới] tam-muội. Kim Cang tức là tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề ấy
chẳng thể phá hoại; nương vào đó để hành Kim Cang hạnh. Ha Ha Ha: Chữ Ha đầu
tiên là cái Thể của chân ngôn. Ha có nghĩa là hành, cũng có nghĩa là cười, là
hoan hỷ. Nhập môn chữ A liền lìa hỷ, Hỷ chính là pháp sanh diệt. Sở dĩ có ba
[chữ Ha], do chính là hạnh tam thừa. Vị Bồ Tát này dùng đủ loại pháp môn để lợi
ích chúng sanh. Tô Đa Nô (Sutanu): Tô là thiện, Đa Nô là Tử, tức là Thiện Tử (đứa con tốt lành), cũng có nghĩa là Khinh
An. Ví như khéo có thể hành hạnh này để lợi ích hữu tình, thật sự là Phật tử,
từ thiện tánh mà sanh, nên gọi là Thiện Tử. Do từ Phật mà sanh, nên gọi là Phật
Tử. Vị Bồ Tát này liền có thể nói các loại hạnh môn trong tam thừa để lợi ích
chúng sanh như trong kinh Thập Luân đã rộng nói.
(Kinh)
Thời Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử trụ Phật Gia Trì Thần Lực tam-muội, tự thuyết tâm
chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hê hê câu ma ra ca, tỳ mục
cật-để bát tha tất-thể đa, sa-ma ra, sa-ma ra, bát-ra để nhã, sa ha.
(經)時文殊師利童子住佛加持神力三昧,說自心真言曰:南麼三曼多勃馱喃。醯醯俱摩囉迦。毘目吃底鉢他悉體多。娑麼囉娑麼囉。鉢囉底若。莎訶。
(Kinh:
Khi đó, Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử trụ trong Phật Gia Trì Thần Lực tam-muội, tự nói
tâm chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hê hê câu ma ra ca, tỳ mục
cật-để bát tha tất-thể đa, sa-ma ra, sa-ma ra, bát-ra để nhã, sa ha).
Kế
đó, ngài Văn Thù nhập Phật Gia Trì Thần Lực tam-muội. Gia Trì tam-muội này như
trong phần đầu kinh Tỳ Lô đã nói. Hê Hê nghĩa là triệu tập, Câu Ma Ra Ca
(Kumāraka) nghĩa là “đồng tử” (bé trai), tức là triệu tập
khiến cho nghĩ nhớ bổn nguyện. Lại còn có nghĩa “tồi phá” (dẹp
tan). Ma Ra (Mara) là quyến thuộc của Ma, đó chính là Tứ Ma. Chân ngôn này lấy
chữ Ma làm thể, tức là ý nghĩa Đại Không. Chứng Đại Không, sẽ đập tan hết thảy các ma. Tỳ Mục
Cật-để Bát Tha Tất-thể Đa (Vimuktipathasthita) là người trụ trong đạo giải thoát,
tức là gọi đồng tử này trụ trong đạo giải thoát, tức là sự giải thoát của chư
Phật, chính là Đại Niết Bàn. Sa-ma Ra Sa-ma Ra (Smara Smara) nghĩa là ức niệm.
Bát-ra Để Nhã (Pratijñāṃ) là sở nguyện đã lập trước đó.
Chân
ngôn này có ý nói: Hê Hê đồng tử trụ trong đạo giải thoát, nghĩ nhớ bổn nguyện
đã lập. Pháp Thân của hết thảy chư Phật thành Phật, nhập cái Thể “thân,
khẩu, ý bí mật”, hết thảy kẻ hữu tâm chẳng thể sánh bằng! Nhưng do
nghĩ nhớ bổn nguyện, dùng sức tự tại, trở vào sanh tử cứu độ chúng sanh. Chân
ngôn này cũng có ý nghĩa như thế đó. Vị đồng tử này đã thành tựu Pháp Thân Phật
từ lâu; do vậy, thỉnh Ngài hãy nghĩ nhớ bổn nguyện độ chúng sanh. Do thỉnh bổn
nguyện của Bồ Tát, nếu có ai thấy, nghe, tiếp xúc, hay biết, nghĩ nhớ đến ta, sẽ đều
đắc Định rốt ráo trong tam
thừa, cho đến thỏa mãn hết thảy các nguyện. Vị Bồ Tát này thành Phật đã lâu,
tức là Phổ Kiến Như Lai, hoặc còn gọi là Phổ Hiện Như Lai, do sức đại bi gia trì mà thị
hiện thân đồng tử.
(Kinh)
Nhĩ thời, Kim Cang Thủ trụ Đại Kim Cang Vô Thắng tam-muội, thuyết tự tâm cập
quyến thuộc chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, chiến đồ ma
ha lô sắt noa, hồng.
(經)爾時金剛手住大金剛無勝三昧,說自心及眷屬真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。戰荼麼訶盧瑟拏。吽。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Kim Cang Thủ trụ trong Đại Kim Cang Vô Thắng tam-muội, nói tự tâm
và quyến thuộc chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, chiến đồ
ma ha lô sắt noa, hồng).
Kế
đó là Kim Cang Vô Thắng tam-muội. Do không gì sánh bằng được, nên gọi là Vô
Thắng. Do hiện tại giác ngộ cái Thể Kim Cang của chư Phật, có thể trì trí của
chư Phật, nên gọi là Chấp Kim Cang. [“Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn” (Namaḥ samantavajrāṇāṃ) là] quy mạng [hết thảy] các Kim Cang, vì Kim Cang
chính là trí ấn của chư Phật, tức là biệt danh của chư Phật vậy. Chiến Đồ
(Caṇḍa) là cực ác. Tột cùng trong các điều ác, ý nói: Hình dạng bạo ác, không ai hơn được. Thậm
chí ăn thịt hết thảy thế gian chẳng bỏ sót, tức là ác tột bậc. Ma Ha Lô Sắt Noa
(Mahāroṣaṇa) là đại phẫn nộ. Đã cực ác, mà
lại còn phẫn nộ hết mực, tức là nói Phật đệ nhất oai mãnh, tàn hại tận cùng sào
huyệt thế gian, khiến cho [chúng sanh] đều nhập pháp giới, quy vào Kim Cang Giới.
Chữ Hồng (hūṃ) là
cái Thể của chân ngôn, có nghĩa là “chẳng
sợ hãi”. [Chữ Hồng gồm ba phần:
Chính giữa là] chữ Ha, nghĩa là hành. Phía trên có một điểm Đại Không, nét cong
ở dưới là Định. Đó là Đại Không hành tam-muội, tức là tên gọi khác của Đại Kim
Cang tam-muội. Do có thể hàng phục, chẳng có ai thắng được!
(Kinh)
Mang Mãng Kê chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, đát rị trá
đát rị trá, nhã diễn để, sa ha.
(經)忙莽計真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。怛唎吒怛唎吒。若衍底。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Mang Mãng Kê là: - Nam mô tam mạn đa chiết phạt ra nạn, đát rị
trá đát rị trá, nhã diễn để, sa ha.)
Kế
đến là Kim Cang Mẫu, được gọi là Mang Mãng Kê (Māmāki). Mang nghĩa là mẹ, Mãng
Kế nghĩa là nhiều, tức là “mẹ của hết thảy các Kim Cang”. Các kim cang trí huệ sanh từ đây.
Đát-Rị Trá Đát-Rị Trá (Triṭa Triṭa): Trong ấy, chữ Đát-Rị (त्रि) thứ
nhất là Thể, [gồm ba phần]: Đa nghĩa là như như, Ra nghĩa là ly trần cấu, Y là
tam-muội. Tức là Như Như Vô Cấu tam-muội, các trí huệ kim cang sanh bởi đấy.
Chữ Trá chẳng thành, là nửa Thể. Phá hoại cái Thể “chẳng thành” chính
là nghĩa “chết”. Do tam-muội này, “giết” kẻ
thuộc vô minh trụ địa, đã giết vô minh trụ địa! Nhã Diễn Để (Jayanti) có
nghĩa là Thắng, cũng có nghĩa là Sanh. Nếu liễu đạt Như Như, trừ sạch cấu
chướng, sẽ đạt được Sanh không ai hơn được. Do vậy, là mẹ của đại chúng. Không
ai hơn được mà sanh, tức là sanh ra các Kim Cang. Kim Cang là bậc không ai hơn,
cũng sanh ra những người không ai hơn được! Vô Thắng Sanh (sự sanh không chi
hơn được) ấy còn gọi là Cam Lộ Sanh.
(Kinh)
Kim Cang Tỏa chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, bạn đà bạn
đà dã, mộ trá mộ trá dã, phạt chiết ra ốt bà phệ, tát phạ đát ra bát ra để ha
đế, sa ha.
(經)金剛鎖真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。畔陀畔陀也。暮吒暮吒也。伐折囉。嗢婆吠。薩嚩怛囉鉢囉底訶諦。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn Kim Cang Tỏa là: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, bạn đà bạn đà dã,
mộ trá mộ trá dã, phạt chiết ra ốt bà phệ, tát phạ đát ra bát ra để ha đế, sa
ha).
Kế
đến là chân ngôn của ngài Kim Cang Tỏa (Vajraśṛṅkhalā, Kim Cang Thương Khế La).
Bạn Đà Bạn Đà Dã (Bandha bandahya): [Chữ Bạn (बं) này] là chữ Phạ (ब)
đằng sau kèm thêm chữ Na, dùng chữ Na ấy thêm vào trên chữ Phạn, tức là cái
chấm Đại Không [trên chữ Phạ]. Nếu chữ Phạ trước đó đã thêm chấm thì chữ Đà (ध,
dha) kế đó, không cần thêm âm Na (tức là không có chấm). Ở đây, lấy chữ Bạn làm
Tâm, có ý nghĩa “trói buộc”, tức là Kim Cang Phược. Bạn Đà có nghĩa là “thủ hộ
trọn khắp”, tức là trọn khắp mọi nơi đều dùng nó để kết lại. Trọn khắp mọi nơi
bị nó kết lại, tức là kết cái Thể của pháp giới vậy. Cái chấm trên đầu ấy [chữ
Phạ] ấy có nghĩa là “trọn khắp hết thảy mọi nơi”. Đã liễu đạt cái Thể của Kim
Cang pháp giới, kết cho nó chẳng hoại, tức là ý nghĩa “kết hộ” (kết
giới thủ hộ) vậy. Mộ Trá Mộ Trá Dã (Moṭa Moṭaya) nghĩa là “kiên cố”. Đã làm kim cang phược, đã trói rồi
lại trói thêm, khiến cho nó vững chắc. Bạt Chiết Ra Ốt Bà Phệ (Vajrodbhave) là kim cang sanh. Sanh từ kim cang
giới thì chính là kim cang trí của chư Phật sanh khởi. Tát Phạ Đát Ra Bát Ra Để
Ha Đế (Sarvatrāpratihate) chính là các thứ chẳng thể hại. Như bản thể của báu
kim cang, hết thảy chẳng thể hại. Nếu thấu hiểu kim cang thể tánh ấy, do
kim cang phược trói chặt cái Thể, cho nên nó chẳng thể bị hư hại. Kim cang phược
chính là Chân Như không có kẽ hở!
(Kinh)
Kim Cang Nguyệt Yển chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hiệt
rị, hồng phát trá, sa ha.
(經)金剛月壓真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。頡唎。吽發吒。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của ngài Kim Cang Nguyệt Yển là: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra
nạn, hiệt rị, hồng phát trá, sa ha).
Kế
đến, nói về chân ngôn của ngài Phẫn Nộ Nguyệt Yển Kim Cang
(Vajra-candratilaka, Krodhacandratilaka). Trên đây, chữ Hiệt-Rị (hrīḥ) là
Tâm. Hiệt Rị (ह्रीः)
có nghĩa là nhiếp triệu, mà cũng là triệu thỉnh. Chữ ấy gồm có chữ Ha (ह) là
hành, có chữ Ra là lìa trần cấu, lại thêm nét vạch trên đó là nghĩa tam-muội.
Hai chấm bên cạnh tức là giống như Niết Bàn. Đấy là trọn đủ công đức của chư
Phật, nguyện ta cũng giống như thế. Kế đó, chữ Hồng có nghĩa là Khủng Bố. Vì
nhanh chóng viên mãn công đức của chư Phật, dùng sự kiên cường để chuyển biến,
thăng tấn Ly Cấu tam-muội, giống như hạnh Niết Bàn, khiến cho hết thảy các ma
kinh hãi to lớn, thảy đều tan lui. Phát Trá (Phaṭ) nghĩa là quát mắng, tức quát
chửi hết thảy ma chướng, khiến cho chúng nó diệt mất.
(Kinh)
Kim Cang Châm chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, nỉ bệ đà
nễ, phạt chiết ra tố chỉ phạt ra đệ, sa ha.
(經)金剛針真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。薩婆達麼。抳鞞陀儞。伐折囉素只伐囉弟。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của ngài Kim Cang Châm là: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết
ra nạn, nỉ bệ đà nễ, phạt chiết ra tố chỉ phạt ra đệ, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của ngài Kim Cang Châm. Tát Bà Đạt Ma (Sarva- dharma) là hết thảy các pháp, lấy chữ Tát
trước đó làm chủng tử thể. Nỉ Bệ Đà Nễ (Nirvedhani) nghĩa là “xuyên qua”. Phạt Chiết La Tố Chỉ
(Vajrasūci) là Kim Cang Châm. Phạt Ra Đệ (Varade) là nguyện thù thắng. Ý
nói: “Châm” có nghĩa là trí sắc bén. Dùng trí nhạy bén như kim cang ấy xuyên suốt, không pháp
nào chẳng thông suốt, có ý nghĩa “huệ đạt pháp tánh”. Đó là ý
nghĩa của Kim Cang Châm, tức là xuyên suốt thấu triệt vô minh, đạt tới Thật
Tướng Tế.
(Kinh)
Nhất thiết Trì Kim Cang chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn,
hồng hồng hồng, bạn trá bạn trá bạn trá, nhiêm nhiêm, sa ha.
(經)一切持金剛真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。吽吽吽。伴吒伴吒伴吒髯髯。莎訶。
(Kinh: Chân
ngôn của hết thảy các vị Trì Kim Cang là: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hồng hồng
hồng, bạn trá, bạn trá, bạn trá, nhiêm nhiêm, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của hết thảy các vị Trì Kim Cang. Khi đó, các vị Kim Cang số
nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật cùng nhập Kim Cang Vô Thắng tam-muội,
giống hệt như ngài Kim Cang Thủ chẳng khác, cũng từ tự tâm tỏa ra quang minh
chẳng thể nghĩ bàn. Trong quang minh, hiện chân ngôn này. Hãy nên biết các
quyến thuộc khác đều chuẩn theo đây. Hồng Hồng Hồng: Lấy chữ đầu tiên làm Thể,
cũng là Đại Không Hạnh tam-muội. [Người hành] tam-muội này chính là hành nhân
Đại Kim Cang Vô Thắng. Do nhập tam-muội này, nên gọi là Đại Không Hạnh
tam-muội. Ba chữ [Hồng] hàm ý đông nhiều, các vị Kim Cang nhiều như hết thảy
chúng sanh cùng nói, nên gộp ba chữ lại. Bạn Trá Bạn Trá Bạn Trá
(Phaṭ Phaṭ Phaṭ) có nghĩa là quở trách, ý nghĩa giống như trên. Tôi
cho rằng nói nhiều lượt nhằm quở trách ba chướng. Nhiêm Nhiêm
(Jaṃ Jaṃ, जांजां) nghĩa là Sanh.
Trên đó (trên chữ Ja, ज) có một chấm là Đại Không. Đã phá các
chướng, sẽ đạt được Đại Không Sanh, tức là sanh ra chư Phật vậy. Sanh ra Kim
Cang trí, tức là Pháp Thân của chư Phật sanh khởi. Như kinh Ương Quật nói “sanh
cái thân bất sanh này”; đấy chính là ý nghĩa này vậy!
(Kinh)
Nhất thiết chư phụng giáo giả chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra
nạn, hê hê khẩn chỉ ra duệ tế, nghị rị ngân noa, nghị rị ngân noa, khư đà, khư
đà, bát rị bổ ra dã, tát phạ chỉ ca ra nẫm, sa phạ bổ ra để nhiễm, sa ha.
(經)一切諸奉教者真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。醯醯緊只囉曳細。蟻哩痕拏蟻哩痕拏。佉駝佉駝。鉢唎補囉也。薩嚩枳迦囉喃娑嚩補囉底染。莎訶。
(Kinh: Chân
ngôn của hết thảy các vị phụng giáo là: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn,
hê hê khẩn chỉ ra duệ tế, nghị rị ngân noa, nghị rị ngân noa, khư đà, khư đà,
bát rị bổ ra dã, tát phạ chỉ ca ra nẫm, sa phạ bổ ra để nhiễm, sa ha).
Kế
đó, các vị phụng giáo nói chân này. Các vị này chuyên ở bên cạnh Bổn Tôn, vâng
lệnh qua lại tùy thuộc các việc cần làm, cũng giống như các vị Kim Cang trên
đây, nhập Đại Kim Cang Vô Thắng tam-muội mà nói chân ngôn. Hết thảy các vị
phụng giáo trong các bộ đều dùng chân ngôn này. Hê Hê: Chữ Hê thứ nhất là chủng
tử, cũng có nghĩa là kêu gọi triệu tập. [Trong chữ Hê (हे)], Ha (ह)
nghĩa là hành, là hỷ, trong đó có chữ Ế (े) là tam-muội. Nói lặp
lại [hai chữ Hê] nhằm diễn tả “hành cực hành”, ý nói “cực định” vậy.
Khẩn Chỉ Ra Duệ Tế (Kiṃ Cirāyasi) nghĩa là “sao không nhanh
chóng”. Đó là ý nghĩa thúc ép. Như người phán xử đã ra lệnh, sao chẳng nhanh
chóng làm chuyện ấy, mà lại lần khân? Nghĩ Rị Ngân Na Nghĩ Rị Ngân Noa (Gṛhṇa
gṛhṇa) nghĩa là “chấp trì, gìn giữ”, ý nói: Trì Kim Cang Hạnh tam-muội đã nói trong phần trên.
Nhắc lại từ ngữ này lần
thứ hai, nhằm diễn tả ý nghĩa “thủ hộ”. Đã chấp trì rồi lại
chấp trì, lại thủ
hộ không cho thất lạc, khiến cho nó chẳng bị các chướng bức bách, đoạt mất,
khiến cho Kim Cang Hạnh tam-muội mau chóng thành tựu. Khư Đà Khư Đà (Khāda
Khāda) có nghĩa là “ăn nuốt”. Ăn các phiền não, lại còn tột bậc ăn nuốt
khiến cho chúng nó hết
sạch. Vì thế nói lặp lại. Tôi cho rằng đó là “ăn nuốt” giới nội, giới
ngoại phiền não; do đó nói lặp lại. Bát Rị Bổ Ra Dã (Paripūraya) nghĩa là “sung mãn”, ý nói do ăn nuốt tộc bậc mà được thỏa
mãn. Do viên mãn tất cả nguyện thù thắng của hành nhân mà được thỏa mãn. Nguyện
bậc nhất chính là Kim Cang Hạnh tam-muội. Tát Phạ Chỉ Ca Ra Nẫm Sa Phạ Bổ
Ra Để Nhiễm (Sarvakiṃkarāṇaṃ Sāprativijñāṃ) là nói nguyện vốn đã lập. Thuận
theo cái nguyện đã lập trước đó mà đều nên được thỏa. Câu trước là nói về Mãn,
câu kế đó là bổn nguyện đã lập. [Chú ngữ] này dùng chung cho sứ giả của ba
bộ.
(Kinh)
Thời Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nhập ư Bảo Xứ tam-muội, thuyết tự tâm cập quyến
thuộc chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ cật lệ xa, nê tô
đà na, tát phạ đạt ma, phạ thế đa bổ ra bát đa. Già già na, sa ma, sa ma, sa
ha.
(經)時釋迦牟尼世尊入於寶處三昧,說自心及眷屬真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩吃隷奢泥蘇馱娜。薩嚩達摩。嚩勢多補囉鉢多。伽伽娜娑摩娑麼。莎訶。
(Kinh:
Khi đó, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nhập Bảo Xứ tam-muội, nó tự tâm và quyến thuộc
chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ cật lệ xa, nê tô đà na,
tát phạ đạt ma, phạ thế đa bổ ra bát đa. Già già na, sa ma, sa ma, sa ha).
Kế
đó, Thích Ca Như Lai nhập Bảo Xứ tam-muội. Chất báu sanh ra từ đó, nên gọi là
Bảo Xứ, ví như
biển cả sanh ra đủ loại báu. Nếu tới bến bãi ấy, sẽ tùy ý cần dùng, không gì chẳng đầy đủ. Đức Phật nhập
tam-muội ấy xong, từ diện môn của Ngài tỏa ra các thứ ánh sáng. Trong quang
minh, hiện chân ngôn này. Cho đến trọn khắp hết thảy các cõi Phật. Hãy nên biết
các chân ngôn khác đều nên nói như thế. Tát Phạ Cật Lệ Xa (Sarvakleśa) là
hết thảy các phiền não. Nê Tô Đà Na (Niṣūdana) là “dẹp
trừ”, thông với câu trên
thành “diệt trừ hết thảy phiền não”. Tát Phạ Đạt Ma (Sarvadharma) là hết thảy
các pháp. Phạ Thế Đa Bổ Ra Bát Đa (Vaśitāprāpta) là “đắc
tự tại”, thông với câu trên
nghĩa là “được tự tại trong các pháp”. Do trừ các chướng, nên được đại tự tại.
Già Già Na (Gagana) là hư không. Sa Ma (Sama, đọc không dấu, có thanh A, nghĩa
là Đẳng, tức là bằng với hư không). Hạnh ấy bằng với hư không, vô biên thanh
tịnh, hết thảy tự tại vô ngại, giống như danh tự. Câu dưới do gắn liền với A thành
Vô Đẳng. Vô Đẳng chính là Nhị Thừa. Do có khiếm khuyết mà gọi là Vô Đẳng, tức
là ý nghĩa thực hiện Quyền.
Nhưng
chân ngôn này lấy chữ Tát đầu tiên làm Thể. Sa nghĩa là lậu, cũng có nghĩa là
kiên cố. Nhập môn chữ A chính là vô lậu, vô kiên. Nếu có sự cứng chắc, tức là
pháp “sanh, diệt, hoại, phá”! Nếu khiến cho nó giống như chữ A, sự
kiên cố ấy vốn chẳng sanh, tức là trong các pháp mà tự tại như hư không, có thể
là chỗ có hết thảy của báu. Tôi cho rằng đức Thích Ca do sức đại bi, dẫu là kẻ
Nhất Xiển Đề toàn thể kín mít như kim cang, Ngài vẫn có thể phá hoại kiến chấp
ấy để [kẻ đó] nhập Phật pháp, ban cho cái nguyện đại bảo. Há chẳng phải là tự
tại trong các pháp, có thể phá hết thảy sự cứng chắc ư?
(Kinh)
Hào Tướng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà ra đề, bà ra bổ ra
bát để, hồng.
(經)毫相真言曰:南麼三曼多勃馱喃。皤囉提。皤囉補囉鉢底。吽。
(Kinh:
Chân ngôn về Hào Tướng rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà ra đề, bà ra bổ
ra bát để, hồng).
Kế
đó là chân ngôn về Hào Tướng. Đây chính là do vô lượng công đức của Như Lai
thành tựu để trang nghiêm. Đó chính là khối công đức; do vậy, tạo tam-muội có
hình dáng nữ nhân. Vị này là quyến thuộc của Phật Thích Ca, cũng nhập Bảo Xứ
tam-muội mà nói chân ngôn này. Bà Ra đề (Varade) là “ban cho thỏa nguyện”, [tức là] có thể thỏa nguyện cho hết thảy
chúng sanh. Bà Ra Bổ Ra Bát Để (Varaprāpte)
là “nguyện đắc”, tức đạt được điều nguyện. Như người
có của báu, bèn có thể ban cho người khác. Do ta tự mình thành tựu
nguyện này, nên có thể tự tại thí cho người khác, khiến cho họ đều sung túc.
Chữ Hồng (हूं,
Hūṃ) [hàm ý] cái tâm này là chủng tử, chữ
Ha (ह)
[trong đó] là hành nơi Đại Không, phía dưới [chữ Hồng] là chữ Ổ (ू, Ū) làm tam-muội. Phía trên có cái chấm tức là
hành Đại Không tam-muội. Nhờ vào đó mà tấn tu, đạt đến chỗ có của báu, có thể
tự tại thỏa nguyện cho người khác.
(Kinh)
Nhất thiết chư Phật đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Vãm
vãm vãm, hồng hồng phát trá, sa ha.
(經)一切諸佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。鑁鑁鑁。吽吽發吒。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của hết thảy chư Phật đảnh là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Vãm
vãm vãm, hồng hồng phát trá, sa ha).
Kế
đó là [chân ngôn của] hết thảy Phật Đảnh. “Hết thảy Phật Đảnh” tức
là đỉnh đầu của các vị Phật số nhiều như vi trần trong mười cõi Phật. Đỉnh đầu
là chỗ tôn
thắng, cao nhất trên thân. Đó chính là tên gọi khác đối với mười tám pháp bất
cộng của Phật. Hình tượng của vị Bổn Tôn này giống như hình tướng bậc đại nhân
trọn đủ của Phật Thích Ca, chỉ có búi tóc trên đỉnh đầu có hình dạng như búi
tóc của Bồ Tát là khác biệt. Các Ngài cũng trụ trong Bảo Xứ tam-muội mà nói
chân ngôn này. Vãm Vãm Vãm (Vaṃ Vaṃ Vaṃ): Trong ấy, chữ thứ nhất là
chủng tử, có nghĩa là “trói buộc”; nhập môn chữ A thì có nghĩa
là “không trói buộc”. Lại nữa, “trói buộc” nghĩa
là ngôn ngữ dứt bặt. Trên chữ ấy, có một chấm Đại Không. Đã thành tựu, lại
khiến cho thành tựu tột bậc, cho nên nói ba lượt [nhằm diễn tả] ý khiến cho
thành tựu thanh tịnh tột bậc. Hồng (Hūṃ) có nghĩa là Khủng Bố, dùng sức oai
mãnh phá trọn khắp các trói buộc giống như Đại Không. Phán Trá (Phaṭ) nghĩa là
bất sanh, ví như cái Thể đã hoại, chẳng sanh, ắt sẽ chết! Tức là các pháp không
gì chẳng trọn khắp, đều khiến cho chúng vĩnh viễn chẳng còn sanh trở lại, giống
như Đại Không là giải thoát của chư Phật, tức là nhập đỉnh đầu “bất cộng
pháp” của Phật.
(Kinh)
Vô Năng Thắng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, địa lăng, địa
lăng, lăng lăng, nhật lăng, nhật lăng, sa ha.
(經)無能勝真言曰:南麼三曼多勃馱喃。地𠻱地𠻱。𠻱𠻱。馹𠻱馹𠻱。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn Vô Năng Thắng là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, địa lăng địa lăng,
lăng lăng, nhật lăng nhật lăng, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của ngài Vô Năng Thắng (Aparājita). Vị này là quyến thuộc của Phật Thích Ca,
cũng nhập Bảo Xứ tam-muội như trên mà nói chân ngôn. Vị này là hóa thân của
Phật Thích Ca, ẩn vô lượng tự tại thần lực để hiện thân Phẫn Nộ Minh Vương nhằm
hàng phục chúng sanh, tận trừ các chướng. Địa lăng, địa lăng (Dhriṃ Dhriṃ,
hai chữ đọc dính nhau, giống như âm Chiêm). Lấy thứ nhất làm Thể,
lấy chữ Địa Lăng (ध्रिं, Dhriṃ) thứ nhất làm chủng tử. Đà (ध,
Dha) có nghĩa là pháp giới. Ra (âm R trong chữ Dhriṃ ấy) có nghĩa là “trần
chướng, các cấu”. Nếu nhập môn chữ A tức là “không có trần
chướng”, chính là pháp giới. Hãy nên biết chính là giống như pháp
giới, há còn nơi nào có trần nữa ư? Đấy chính là ý nghĩa Đại Không. Nếu ai trụ
trong tam-muội này, hết thảy cái chướng không gì chẳng bị phá hoại. Nói nhắc
lại [hai chữ Dhriṃ], đó là ý nghĩa “phá trần chướng tột bậc”. Vì
thế nói là Vô Trần tam-muội chính là môn chữ Lăng (Riṃ). Kế đó nói Nhật Lăng (ज्रिं,
Jriṃ), tức là chư chướng chẳng sanh mà đắc Đại Không sanh vậy. Chữ chủng tử này
có đủ loại Định Huệ trang nghiêm; do vậy có thể đạt tự tại trong sanh tử, ngồi
dưới cội cây của đức Phật, phá tan bốn ma binh chúng. Vô Năng Thắng có nghĩa
là “không gì chẳng phá hoại”.
(Kinh)
Vô Năng Thắng Phi chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A ba ra thệ đế, xà diễn đế, đa
trĩ đế, sa ha.
(經)無能勝妃真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿波囉誓帝。闍演帝。多雉帝。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Vô Năng Thắng Phi là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A ba ra thệ đế, xà diễn đế, đa trĩ đế, sa ha).
Kế
đó là Vô Năng Thắng Minh Phi, có hình
dạng nữ nhân. Nói chân ngôn này, Ngài nhập tam-muội như trong phần trên đã nói.
A Ba Ra Thệ Đế (Aparājite) là
Vô Năng Thắng, Xà Diễn Đế (Jayanti)
là tên gọi khác của Thắng, có nghĩa “đánh bại, hàng phục kẻ khác”. Đa
Trĩ Đế (Taḍite) có nghĩa là “đã
dẹp tan xong”. Chữ
Xà (Ja) ở đây có nghĩa “chiến đấu”. Đức Phật ngồi nơi đạo
tràng, dùng định lực chiến đấu cùng tứ ma, đạt được thế lực to lớn, không ai có
thể tổn hại được. Đó là do sức của tam-muội này. [Chân ngôn này] dùng chữ thứ
ba làm chủng tử.
(Kinh)
Địa Thần chân ngôn viết: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bát lật thể tỳ duệ, sa
ha.
(經)地神真言曰:南麼三曼多勃馱喃。鉢㗚體毘曳。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Địa Thần là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bát lật thể tỳ duệ,
sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của Địa Thần. Đất có thể nâng giữ vạn vật. Hết thảy vạn vật
nương vào đất mà sanh trưởng; hãy nên biết đó chính là Phật tâm. Ví như Như Lai
tâm có thể trì vạn vật, thân nhập tam-muội mà chính mình đang trì để nói chân
ngôn này. Đây cũng là phương tiện hóa thân của Phật Thích Ca. Bát Lật Thể Tỳ
Duệ (पृथिव्यै, Pṛthivyai) là tên của Địa Thần,
tức là dùng danh tự của chính vị ấy làm chân ngôn. Nếu ai tụng trì, tu tập,
chẳng lâu sau cũng sẽ đắc tâm địa của Như Lai. Lấy chữ thứ ba của chân ngôn làm
chữ chủng tử, nghĩa là “lìa ngôn thuyết”. Trong đó, có âm Y là
tam-muội. Nhập môn Ly Danh tam-muội này, sẽ được chứng tâm địa. Tam muội này
còn có tên là Phổ Tải (chuyên chở khắp), do tam-muội này giống như đại địa. Chữ
Tỳ Duệ (व्यै, Vīyai) cuối cùng có nghĩa là “trói”, tức
Diễn Na (य,
Ya) nghĩa là Xứ. Ế (ै, ai)
là tam-muội, cũng là tiếng chỉ vật. Đó là nói về cái Thể của chân ngôn vậy. Do
môn ly Tâm Địa tam-muội này, lìa khỏi các thừa trói buộc để tăng tấn hạnh.
(Kinh)
Tỳ Nữu Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ sắt nữu phí, sa
ha.
(經)毘紐天真言曰:南麼三曼多勃馱喃。毘瑟紐費。莎訶。
(Kinh: Chân
ngôn của Tỳ Nữu Thiên là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ sắt nữu phí, sa
ha).
Kế
đó là Tỳ Nữu Thiên (Viṣṇu) có nhiều biệt danh, [Tỳ Nữu] chính là biệt danh
của Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa). Vị này
là hóa thân của Phật, tam-muội giống như trên. Tỳ Sắt Nữu Phí (Viṣṇave) tức là lấy chính tên mình làm chân ngôn.
Lấy chữ thứ nhất làm chủng tử. Chữ Tỳ (वि, vi) có nghĩa là Không, Sắt Nữu Phí (ष्णवे, Ṣṇave) có nghĩa là Tiến, là Sanh, do nương vào
hư không mà tiến. Tức là vị trời này cưỡi chim Ca Lâu La bay đi trong không
trung. Tôi cho rằng Phật Thích Ca trong Ngũ Bộ Phật[7] ngồi trên chim Ca Lâu La, tức
là ý nghĩa “đi lại trong hư không”.
(Kinh)
Rô Nại Ra chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, rô đà ra dã, sa ha.
(經)嚕捺囉真言曰:南麼三曼多勃馱喃。嚕馱囉也。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Rô Nại Ra là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, rô đà ra dã, sa
ha).
Kế
đó là Rô Nại Ra (Rudra), cũng là thân do Phật biến thành. Vị này là hóa
thân của Ma Hê Thủ La (Maheśvara, còn
gọi là Y Xá Na, Īśāna). Rô Đà Ra Dã
(Rudrāya) tức là lấy tên của chính mình
làm chân ngôn, lấy chữ Rô (रु, Ru) làm tâm. Đà Ra (द्रा, Drā) có nghĩa là “trao cho”, ví
như tự mình có nhiều, bèn có thể huệ thí (bố thí rộng rãi) cho người khác. Nói
đến các thừa, “thừa” nghĩa là chính mình. Tự thông đạt thừa
báu như thế, có thể thí trọn khắp hết thảy chúng sanh. Rô tức là Vô Trần Cấu
tam-muội, tự đạt được tam-muội này, lại còn dùng đó để thí cho người khác.
(Kinh)
Phong Thần chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà dã phệ, sa ha.
(經)風神真言曰:南麼三曼多勃馱喃。皤也吠。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Phong Thần là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà dã phệ, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của Phong Thần. Vị này cũng là hóa thân của Phật, tam-muội
giống như trên. Bà Dã Phệ (Vāyave) tức là [thần gió] dùng tên của chính
mình làm chân ngôn, lấy chữ Bà (वा, Vā) làm Thể. Phệ (वे, Ve) có nghĩa là trói
buộc; nhập môn chữ A thì nghĩa là “chẳng trói buộc”, tức là giải thoát. Bên cạnh [Chữ Va]
có chữ A [tạo thành A âm dài, tức Vā], tức là thực hiện. Chữ Phệ thứ ba nghĩa
là vô ngôn thuyết, lại thêm chữ Ế (े) là nghĩa tam-muội-da. Các thừa ấy dùng vô
ngại thừa để độ hết thảy.
(Kinh)
Mỹ Âm Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát la tát phạt để
duệ, sa ha.
(經)美音天真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩羅薩伐底曳。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Mỹ Âm Thiên là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát la tát phạt
để duệ, sa ha).
Kế
đó là Mỹ Âm Thiên, tức là các vị trời hiển thị sự ca vịnh, hơi khác với
Càn Thát Bà, Càn Thát Bà là người tấu nhạc. Tát La Tát Phạt Để Duệ
(Sarasvatyai) chính là tên của Mỹ Âm. Lấy chữ Tát (Sa) đầu tiên làm Thể,
có nghĩa là “kiên cố”. Nếu có kiên trụ, tức là có tướng “sanh, trụ, dị, diệt”. Nhập môn chữ A thì chẳng
kiên cố, tức là không có thành hay hoại. Các chữ khác [trong chân ngôn] đều
nhằm giải thích chữ này. Tôi cho rằng vị này dùng diệu âm khiến cho chúng sanh
đẹp dạ, ngôn từ mềm mỏng, đẹp lòng mọi người, khiến họ hoan hỷ. Nói “chẳng
kiên cố” nhằm khiến
cho họ biết vô thường, chứng nghiệm pháp kiên cố của Như Lai.
(Kinh)
Nễ Rị Để chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra cật sát sa, đề bát
để duệ, sa ha.
(經)禰哩底真言曰:南麼三曼多勃馱喃。囉吃剎娑。提鉢底曳。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Nễ Rị Để là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra cật sát sa, đề
bát để duệ, sa ha).
Kế
đến là Nễ Rị Để (Nairṛti),
tức là chúa của loài La Sát, cũng là hóa thân của Phật. Ra Cật Sát Sa (Rākṣasa,
La Sát): Ra (cấu nhơ), Cật Sát Sa (Kṣasa, ăn nuốt). Sa có nghĩa là cứng chắc,
đều có nghĩa là “ăn nuốt”. Vị này thường ăn nuốt chúng sanh. Như Lai
cũng thế, có thể ăn hết thảy trần chướng hữu tình chẳng chán đủ. Đề Bát Để Duệ
(Adhipataye): Chữ Đề có âm Đà (Dha) tức là pháp giới, thêm âm Y là tam-muội. Đó
là pháp giới tam-muội. Bát Để là Trụ, tức là trụ trong pháp giới tam-muội ấy, thì gọi là Diệu Trụ. Quán hết thảy cấu
chướng chính là pháp giới; nhập trong pháp giới chính là nghĩa “có thể
ăn vào bụng”. Chữ Duệ cuối cùng chính là Thừa. Thừa ấy nhanh chóng
khôn sánh, ở trong chữ chủng tử nơi cái Thể của môn này.
(Kinh) Diễm Ma chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, tỳ phạ tát phạ đá dã, sa ha.
(經)焰摩真言曰:南麼三曼多勃馱喃。毘嚩薩嚩哆也。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Diễm Ma là: - Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm, tỳ phạ tát phạ đá dã, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của Diễm Ma Vương (Yamarāja), vị này cũng là hóa thân của Phật. Tỳ Phạ
Tát Phạ Đá Dã (Vaivasvatāya) cũng lấy tên của chính mình làm chân ngôn[8]. Lấy chữ đầu tiên làm Thể để hỏi,
tức là Vô Phược tam-muội. Tỳ Phạ nghĩa là kiên cố trụ, cũng là trừ các trói
buộc, ý nói “dùng Lý để trừ trói buộc,
chẳng dùng phi pháp!” Trong chữ Đá có
nhiều âm, tức là Như Như. Chữ Tát có nghĩa là “kiên cố”.
Chữ Dã có nghĩa là Thừa, nương vào cái Thừa Như Như này để thăng tấn hạnh. Bên cạnh đó có chữ A
tức là “hành”. Nương vào tướng Như Như mà tiến hành, tức là đạt đến thành tựu Chánh Giác
vậy!
(Kinh)
Tử vương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, một lật để dã phệ, sa
ha.
(經)死王真言曰:南麼三曼多勃馱喃。沒㗚底也吠。莎訶。
(Kinh:
Tử vương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, một lật để dã phệ, sa
ha.
Kế
đó là chân ngôn của Tử Vương (Mṛtyu). Vị này là Diêm La Minh Vương, cũng vì
thành tựu Đại Bi Phát Sanh Mạn-đồ-la, thuận theo sự thông đạt của chính mình mà
nói chân ngôn này. Một Lật Để Dã Phệ (Mṛtyave) chính là nghĩa Chết. Chết
nghĩa là “giết, đoạn”. Căn bản ấy được gọi là Sát. Do ý nguyện của chính
mình, “ta đoạn mạng căn của hết thảy chúng sanh”. “Mạng căn” chính
là các vô thỉ vô minh phiền não. Đoạn [mạng căn của] hết thảy chúng sanh chẳng
còn thừa sót! Đấy là nói “tự tại trong Tử pháp môn”, tức là do
Phật hiện hóa, chẳng phải là thật sự giết chết hết thảy chúng sanh. Dùng chữ
đầu tiên là chữ Một làm chủng tử [của chân ngôn này].
(Kinh)
Hắc Dạ Thần chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ca la ra để rị duệ,
sa ha.
(經)黑夜神真言曰:南麼三曼多勃馱喃。迦羅囉底哩曳。莎訶。
(Kinh: Chân
ngôn Hắc Dạ Thần rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ca la ra để rị duệ, sa
ha).
Kế
đó là chân ngôn của Hắc Dạ Thần (Kālarātri). Đấy chính là phi hậu thị tùng của Diêm
La. Ca La Ra (Kālarā) là “hắc” (đen). Để Rị Duệ (Trīye) là “đêm”.
Dùng chữ Ca đầu tiên làm Thể, do trong đêm tối có nhiều nỗi sợ hãi và các họa
hoạn. Vì muốn trừ nỗi sợ do các chướng cấu trong đêm dài vô minh, nên nói chân
ngôn này.
(Kinh)
Thất mẫu đẳng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma đát rị tệ dã,
sa ha.
(經)七母等真言曰:南麼三曼多勃馱喃。摩怛哩弊也。莎訶。
(Kinh: Chân
ngôn của thất mẫu là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma đát rị tệ dã, sa ha).
Kế
đó là Diêm La Vương Thất Mẫu, gồm bảy chị em. Danh hiệu của bảy vị này[9] chuẩn theo các kinh khác, đều
dùng tên của chính họ làm chân ngôn. Nay chỉ nói chung như sau: Ma Đát Rị Tệ Dã
(Mātṛbhyaḥ) nghĩa là Đẳng. Đẳng nghĩa là chẳng phải một, mà là nhiều, tức
là bảy chị em. Dùng chữ Ma đầu tiên làm chủng tử, nghĩa là Vô Ngã.
(Kinh)
Thích Đề Hoàn Nhân chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Thích ca ra
dã, sa ha.
(經)釋提桓因真言曰:南麼三曼多勃馱喃。釋迦囉也。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Thích Đề Hoàn Nhân là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Thích ca
ra dã, sa ha).
Kế
đó là Thích Đề Hoàn Nhân (Śakro Devānām
Indraḥ). Thích Ca Ra Dã (Śakrāya) chính là tên gọi của ông ta.
Thích Ca nghĩa là “một trăm phước đức”. Do trong khi tu nhân,
vị này đã từng tu phước một trăm lần, tức là một trăm lần thực hiện Đại Vô Giá
Thí Hội để thí trọn khắp chúng sanh. Do vậy, được thành tựu chốn sanh về
thù thắng ấy. Dùng chữ Thích đầu tiên làm chủng tử; do vậy, gọi tên như thế. Nó
có nghĩa là “ngưng dứt”, tức ngưng dứt các chướng. Chướng đã dứt bèn tăng phước, Ca Ra là “tăng tấn”.
Chữ Xa lại chính là Xa Ma Tha (Chỉ). Thường dùng lời sâu xa để lợi ích chư
thiên; vì thế, dùng tâm làm chân ngôn. Vị này cũng do Phật hóa sanh.
(Kinh)
Phạ Rô Noa long vương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A bán bát
đa dã, sa ha.
(經)嚩嚕拏龍王真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿半鉢多也。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của vua rồng Phạ Rô Noa: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A bán bát đa
dã, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của long vương Phạ Rô Noa (Varuṇa). Đây là rồng trong biển cả,
các long vương có cùng chân ngôn này. A Bán (nước, Apāṃ) Bát Đa Dã
(Pataye): Bát Đa [nghĩa là] “người nào đó”, Dã là tiếng trợ thanh. Do vị này
được tự tại trong nước, nên gọi là Thủy Chủ. Dùng chữ A đầu tiên làm chủng tử.
(Kinh)
Phạm Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Bổ ra xà ma đa
duệ, sa ha.
(經)梵天真言曰:南麼三曼多勃馱喃。補囉闍麼多曳。莎訶。
(Kinh: Chân
ngôn của Phạm Thiên là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Bổ ra xà ma đa duệ, sa
ha).
Kế
đó là chân ngôn của Phạm Thiên. Vì muốn thành tựu Đại Bi Thai Tạng, cũng giống
như trên đã nói. Bổ Ra Xà (Prajā, sanh ra hết thảy), Ma Đa Duệ (Pataye,
chủ). Cái nhân của hết thảy chúng sanh là Phạm Thiên, nên gọi là Nhất Thiết
Chúng Sanh Chủ, do có thể sanh ra hết thảy hữu tình. Dùng chữ Bổ-ra (Pra) làm
chữ chủng tử. Bổ là Đệ Nhất Nghĩa. Ra là chướng cấu, tức chướng chẳng thể
chướng trong Thắng Nghĩa, hết thảy các thánh giả đều sanh từ đấy. Vị này cũng là hóa thân của Phật.
(Kinh)
Nhật Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A địa đa tà dã, sa
ha.
(經)日天真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿地多邪也。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Nhật Thiên là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A địa đa tà dã, sa
ha).
Kế đó
là chân ngôn của Nhật Thiên Tử. A Địa Đa Tà Dã (Ādityāya): A (vốn bất sanh),
Địa (cùng với), Đa
Tà Dã (mặt trời). Dùng chữ A đầu tiên làm chủng tử, tức là ý nghĩa “vốn
bất sanh”. Tự thông đạt lý này, lại còn truyền cho người khác,
tức là ý nghĩa “thường lợi ích chúng sanh” giống như vầng mặt
trời. Người đời nói mặt trời thường lợi ích chúng sanh.
(Kinh)
Nguyệt Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Chiến đạt ra dã,
sa ha.
(經)月天真言曰:南麼三曼多勃馱喃。戰達囉也。莎訶。
(Kinh: Chân
ngôn của Nguyệt Thiên là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Chiến đạt ra dã, sa
ha).
Kế
đó là chân ngôn của Nguyệt Thiên Tử. Chiến Đạt Ra (Candrāya): Chiến (bất tử),
Đạt Ra là tên của mặt trăng. Dùng chữ đầu tiên làm Thể. Nếu bất tử thì cũng bất
sanh. Bất sanh bất tử thì gọi là Cam Lộ. Người đời do mặt trăng có thể trừ độc
nhiệt phiền não mà coi như cam lộ; do vậy, gọi như thế. Vị của hết thảy cam lộ
chẳng thể nào hơn được Tịnh Nguyệt tam-muội.
(Kinh)
Chư long chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Mê ca phiến nễ duệ, sa
ha.
(經)諸龍真言曰:南麼三曼多勃馱喃。迷迦扇儞曳。莎訶。
(Kinh: Chân
ngôn của các rồng là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Mê ca phiến nễ duệ, sa
ha).
Kế
đó là chân ngôn của các rồng. Chú trong phần trước là của long vương, chú này
dùng chung cho hết thảy các rồng. Mê Ca Phiến Nễ Duệ (Meghāśanīye): Mê Ca
(mây), Phiến Nễ Duệ (nhai nuốt). Giải nghĩa là “nuốt mây”. Mây
chính là hắc ám, tức là cấu chướng của chúng sanh. Có thể ăn các chướng mà được
tự tại, cho nên đặt tên như thế. Lấy chữ Mê đầu tiên làm Thể, tức là ý nghĩa
Ta, [nhập môn chữ A sẽ là] vô ngã vậy.
(Kinh)
Nan Đà, Bạt Nan Đà chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nan đồ, bạt
nan đà dữu, sa ha.
(經)難陀跋難陀真言曰:南麼三曼多勃馱喃。難徒拔難陀庾。莎訶。
(Kinh: Chân
ngôn của Nan Đà, Bạt Nan là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nan
đồ, bạt nan đà dữu, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của hai vị long vương Nan Đà (Nanda) và Bạt Nan Đà (Upananda)
thủ hộ cửa [đàn tràng]. Nan Đồ (Nando) dùng chữ Nan đầu tiên làm Thể, có nghĩa
là Quán. Từ ngay trong quán mà lìa quán, trụ trong Trung. Đã tự thông đạt, còn
dùng đó để lợi ích chúng sanh. Bạt Nan Đà Dữu (Opanandayoḥ: Chữ Bạt có âm là Ổ Ba). Ổ là vượt khỏi,
[tức là] tự vượt khỏi các pháp sanh tử lưu chuyển, trụ trong chỗ tối thắng.
Dùng đó để hộ trì thế gian, nên gọi tên như thế.
Đến
đây đã xong phần quyến thuộc của Phật Thích Ca, họ đều trụ trong Bảo Xứ
tam-muội, do đức Phật hóa thân vì muốn thành tựu Đại Bi Tạng mà nói chân ngôn.
(Kinh)
Thời Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn nhạo dục thuyết Tự Giáo Tích Bất Không Tất Địa Nhất
Thiết Phật Bồ Tát Mẫu Hư Không Nhãn Minh Phi chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, già già na bà ra lạc khất xoa nỗ, già già na tam mê, tát bà đô
ốt kiệt đa, bệ tát ra tam bà phệ, xà phạ la na mẫu, a mục già nẫm, sa ha.
(經)時毘盧遮那世尊樂欲說自教跡不空悉地一切佛菩薩母虛空眼明妃真言曰:南麼三曼多勃馱喃。伽伽那皤囉落吃叉努。伽伽那三迷。薩皤都嗢竭多。陛薩囉三婆吠。闍嚩羅娜母。阿穆伽喃。娑訶。
(Kinh:
Khi đó, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn ưa thích nói chân ngôn Tự Giáo Tích Bất Không Tất
Địa Nhất Thiết Phật Bồ Tát Mẫu Hư Không Nhãn Minh Phi rằng: - Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm, già già na bà ra, lạc khất xoa nỗ, già già na tam mê, tát bà đô ốt
kiệt đa, bệ tát ra tam bà phệ, xà phạ la na mẫu, a mục già nẫm, sa ha).
Tự
Giáo Tích tức là giáo pháp do Pháp Thân Phật tự chứng, tức là giáo pháp bí mật
bình đẳng. Người tu hành trong giáo pháp này, thảy
đều bất không. Bất không nghĩa là “chẳng luống uổng”. Tùy
theo năng lực của mỗi người, đều hướng về lý Pháp Thân, liền giống như Phật. Vì
thế nói là Bất Không. Như trong phần trên, các vị Bồ Tát nói chân ngôn, ai nấy
đều mong dẫn nhiếp các hành giả đồng loại: “Nếu có ai tu hành, sẽ đều
giống như ta”. Nay Pháp Thân Phật tự nói Minh Phi chân ngôn; nếu có ai
tu hành, sẽ từ Hư Không Nhãn (Gaganalocanā) mà sanh Pháp Thân, giống như ta chẳng
khác.
Già
Già Na (Gagana): Lấy chữ đầu tiên làm tâm, Già có nghĩa là “không đến, đi”. Già Già Na lại có nghĩa là Không, tức là
Đại Không của chư Phật. Bà Ra (Vara) là nguyện. Lạc Khất Xoa Nỗ (Lakṣaṇe): Lạc Khất Xoa là tướng, Nỗ tức Đại Không. Nguyện này thắng thượng, tức
là giống như hư không nhất tướng thanh tịnh vô biên, chẳng thể phân biệt. Già
Già Na là Không. Tam Mê (Samaye) là Đẳng. Đại nguyện như trên đây giống như
tướng hư không, bằng với hư không. Tát Bà Đô (Sarvato) là hết thảy mọi nơi. Ốt Kiệt Đa (Odgata) là “không có gì sánh bằng”, tức là nói các Không Nguyện này bằng với
hư không, trọn khắp hết thảy mọi nơi, đều chẳng có gì sánh bằng. Trên tâm có
chữ A liên quan. Bệ Tát La (Abhisāra): Kiên cố, chẳng thể hoại. Tam Bà Phệ
(Saṃbhave): Sanh theo, tức là sanh từ bất khả hoại. Xà Phạ La (Jvala) nghĩa là
quang minh. Do trụ trong hạnh “chẳng đến, chẳng đi”, bèn thành tựu đại oai
quang không gì sánh bằng. Na Mẫu (Namo) là quy mạng. Do trụ pháp này, cho nên
tôi quy mạng. A Mục Già Nẫm (Amoghānāṃ): Bất Không là chỗ để quy mạng, tôi bèn
quy mạng.
Đầu
các chân ngôn đều là “quy mạng trọn khắp chư Phật”, do chữ
Nhất Thiết giống như “phổ biến”. Như nếu nói “hết thảy chư Phật ở phương Đông”,
tức là chẳng trọn khắp mười phương. Vì phân biệt với chút phần đó mà nói
là “phổ biến chư Phật” (trọn khắp chư Phật). Những điều khác
cứ phỏng theo [cách nói] này. Phần nói về ngài Hư Không Nhãn là mẹ của hết thảy
Phật, Bồ Tát đã xong.
(Kinh)
Phục thứ, Bạc Già Phạm vị tức nhất thiết chướng cố, trụ ư Hỏa Sanh tam-muội,
thuyết thử Đại Tồi Chướng Thánh Giả Bất Động Chủ chân ngôn viết: - Nam ma tam
mạn đa phạt chiết ra nạn, chiến đồ, ma ha rô sắt noa, tát phả trá dã, hồng đát
ra ca. Hám vãm.
(經)復次薄伽梵為息一切障故,住於火生三昧,說此大摧障聖者不動主真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。戰荼摩訶嚧瑟拏。薩頗吒也。吽怛囉迦。唅鑁。
(Kinh:
Khi đó, đức Bạc Già Phạm vì dứt hết thảy các chướng mà trụ trong Hỏa Sanh
tam-muội, nói chân ngôn của ngài Bất Động Chủ là đấng vĩ đại phá tan các chướng
như sau: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, chiến đồ, ma ha rô sắt noa, tát
phả trá dã, hồng đát ra ca. Hám vãm).
Khi
đó, đức Phật lại muốn ngăn dứt hết thảy những kẻ gây chướng, Hỏa Sanh
là chứng tam-muội, nói chân ngôn Đại Tồi Chướng này. Chân ngôn này có oai thế
có thể trừ hết thảy các thứ chướng nạn của người tu Chân Ngôn. Thậm chí, đức
Phật ngồi dưới đạo thụ, do dùng chân ngôn này, hết thảy ma quân không gì chẳng
tán hoại, huống hồ các chướng ngại trong thế gian! Lại nữa, chướng ấy đại lược
có hai loại:
-
Một là nội chướng, tức là sanh từ tự tâm. Loại này rất nhiều, chẳng thể nói
tường tận được.
-
Hai là ngoại chướng, tức là sanh từ bên ngoài, cũng rất nhiều.
[Chú
này] đều có thể dẹp tan [các chướng ấy]. Chiến Đồ (Caṇḍa) là cực ác, tức
là tột bậc bạo ác trong các kẻ bạo ác. Ma Ha Rô Sắt Noa (Mahāroṣaṇa) là Đại
Phẫn Nộ. Tát Phả Trá Dã (Sphoṭaya) nghĩa là “phá hoại”. Hồng là khủng bố. Đát Ra Ca
(Traka) là kiên cố. Dùng hai chữ cuối là Hám Vãm (Hāṃ māṃ) làm chủng tử, các cú nghĩa đều nhằm thành
tựu điều này. Trước tiên là Chiến Đồ. Chiến nghĩa là “chết”, nhập môn chữ A sẽ
có nghĩa là “chẳng sanh tử”. Đồ là chiến đấu, dùng cái “vô sanh tử” có thế lực
to lớn ấy làm chủ để chiến đấu cùng tứ ma. Chữ Ma kế đó nghĩa là Ta, nhập môn
chữ A thì là Vô Ngã, cũng là Không. Ha nghĩa là hỷ, là hành. Rô Sắt (रोष,
Roṣa) có chữ Ra (र)
là cấu chướng, có âm Ổ (ो) là tam-muội; tức Xa-ma-tha là tam-muội.
Noa (ण, ṇa) nghĩa
là Không. Chữ thứ năm tức là Đại Không tam-muội. Tát [trong Tát Phả Trá Dã] có
nghĩa là cứng chắc. Phả có nghĩa là pháp, biết rõ thế gian như bọt nước đọng,
dễ phá tan. Bên cạnh có cái chấm diễn tả âm A, tức là “thực hiện”. Trá có nghĩa
là chiến đấu, có thể đối địch sự chướng ngại,
sợ hãi, khiến nó bị phá
tan, cũng có nghĩa là Thừa. Hồng là Đại Không Hạnh tam-muội, như trong phần
trước đã nói. Đát là Như Như, Ra là vô cấu. Ca là làm, tức “hết thảy các pháp vô tác”. Chữ Ha (ह) trong chữ Hám (हां)
có nghĩa là hành, lại có âm A (ा) tức là Bố Ma Chướng Kim Cang tam-muội.
Cái chấm trên đó tức là Đại Không, [hàm nghĩa] dùng Đại Không bất động để thực
hiện, khiến cho hết thảy ma chướng hết sức kinh sợ. Chữ Ma (म) trong
Vãm (मां, māṃ) nghĩa là ta, nhập môn chữ A tức là Vô
Ngã. Lại dùng Đại Không Vô Ngã tam-muội để dọa nạt lũ ma, do chữ này cũng có âm
A và chấm [Đại Không]. Bốn chữ Ha, Rô, Hám, Vãm đều có âm A, tức là ý
nghĩa “tầng tầng đe dọa ma, khủng bố hai loại chướng nội và ngoại!”
(Kinh)
Phục thứ, Hàng Tam Thế chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn,
ha ha ha, tỳ tát ma duệ, tát phạ đát đa yết đa, tỳ sái dã, tam bà phạ, đát lệ lộ
ca dã, phệ xà dã, hồng nhạ, sa ha.
(經)復次降三世真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。訶訶訶。毘薩麼曳。薩嚩怛多揭多毘灑也三婆嚩。帝㘑路迦也吠闍也。吽惹。莎訶。
(Kinh:
Lại nữa, chân ngôn của ngài Hàng Tam Thế là: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra
nạn, ha ha ha, tỳ tát ma duệ, tát phạ đát đa yết đa, tỳ sái dã, tam bà phạ, đát
lệ lộ ca dã, phệ xà dã, hồng nhạ, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của Hàng Tam Thế Minh Vương (Trailokyavijaya). Đây là Tỳ Lô Giá Na Như Lai trụ trong
Pháp Tràng Cao Phong Quán gia trì tam-muội, như trong phẩm Tự đầu tiên đã nói.
Như Lai nói hai thứ minh chú này đều là tam-muội của Pháp Thân Phật, nhằm khiến
cho hành nhân từ sơ phát Bồ Đề tâm được thủ hộ, tăng trưởng, khiến cho chúng
sanh thành tựu trọn vẹn Phật quả, trọn chẳng lui sụt, mất mát, chẳng đọa trong
phi đạo. Đó chính là Bất Động Minh Vương. Nhằm hàng phục chúng sanh khó điều
phục trong thế gian, thì là Hàng Tam Thế Minh Vương. [Đức Phật] lần lượt nói ra
[các minh chú ấy]. Nói đến Tam Thế thì Thế chính là tham, sân, si. Hàng phục ba
món độc ấy thì gọi là Hàng Tam Thế. Lại do vì quá khứ tham lam, nay thọ cái
thân do quả báo tham lam ấy, lại sanh nghiệp tham, phải chịu quả báo trong vị
lai. Tam Độc đều như thế, [vì trừ diệt Tam Độc] nên gọi là Hàng Tam Thế. Lại
nữa, tam thế gọi là tam giới, tức là Tỳ Lô Giá Na Như Lai, bắt đầu từ trời Hữu
Đảnh cho đến mặt đất, từ trên xuống dưới, trong mỗi tầng trời đều lần lượt hóa
hiện, hóa thành chúa tể của vô lượng đại thiên quyến thuộc. Nay Ngài (Tỳ Lô Giá
Na Như Lai) hơn hẳn các
vị trời ấy trăm ngàn vạn lần, chưa từng có nỗi sợ hãi, há có chúng sanh nào hơn
được ta ư? Cho đến dùng pháp mà hàng phục, tức là lần lượt giáng hạ. Do có thể
hàng phục chúa tể của ba thế giới, nên gọi là Hàng Tam Thế Minh Vương.
Ha
Ha Ha (Ha có nghĩa là Hạnh, là Hỷ). Ba hạnh ấy
chính là hạnh của người thuộc tam thừa. Chữ Hạnh
này chính là nói ba
hạnh ấy vốn sẵn “chẳng sanh”. Do vốn chẳng sanh, nên vượt khỏi ba hạnh ấy, tức
là Phật hạnh. Tỳ Tát Ma Duệ (Vismaye) có nghĩa là “lạ thay, ngạc nhiên sao!”
Như đức Phật thường dạy, dùng lòng Từ để đối trị sân, dùng vô tham đối trị
tham, dùng chánh kiến đối trị tà kiến, nay bèn dùng đại phẫn sân để trừ phẫn sân,
dùng đại tham để trừ hết thảy các tham. Điều này khó tin, khó hiểu nhất. Vì
thế, nói là “lạ lùng thay!”
Tát
Phạ Đát Đa Yết Đa (Sarvatathāgata) là hết thảy chư Phật. Tỳ Xá Dã (Viṣaya) là cảnh giới. Tam Bà Phạ
(Saṃbhava) là sanh, ý nói từ cảnh giới của chư Phật mà sanh. Cảnh giới của
chư Phật chính là Thật Tướng của các pháp. Từ Thật Tướng mà sanh, vì thế hiệu
là Hàng Tam Thế. Đế Lệ Lộ Ca Dã (Trailokya) tức là Tam Thế. Phệ Xà Dã (Vijaya)
nghĩa là hàng phục chiến thắng. Hồng có ý nghĩa giống như trong phần trước
đã nói. Nhạ (Jaḥ) là triệu tập, có ý nghĩa cảnh giác. Nếu tụng chú này, có
thể vào tâm của trọn khắp hết thảy chúng sanh để cảnh tỉnh, giác ngộ họ, khiến cho họ
hết sạch chướng, giống như Pháp Thân Phật. Nhưng chân ngôn này lấy chữ Đế Lệ (त्रै,
Trai) làm Thể, trong đó có âm Đa (Ta), tức là nghĩa Như Như, Ra là cấu chướng.
Có âm Y tức là tam-muội. Do cái Thể Như Như vốn sẵn bất sanh, do bất sanh nên
cấu chướng cũng tự vốn sẵn chẳng
sanh. Xứng với lý này mà tu Định Huệ đều trọn. Do vậy, có thể hàng phục ba đời!
(Kinh)
Chư Thanh Văn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hê đô bát ra để
dã, tỳ nghiệt đa yết ma nê xã đa, hồng.
(經)諸聲聞真言曰:南麼三曼多勃馱喃。醯都鉢羅底也。毘蘖多羯麼泥社多。吽。
(Kinh:
Chân ngôn của các Thanh Văn là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hê đô bát ra để
dã, tỳ nghiệt đa
yết ma nê xã đa, hồng).
Kế
đó là chân ngôn của Thanh Văn. Hê Đô (Hetu) là nhân, Bát Ra Để Dã (Pratyaya) là
duyên. Tỳ Nghiệt Đa (Vigata) là lìa, Yết Ma (Karma) là nghiệp, Nê Xã Đa
(Nirjāta) là sanh, Hồng (Hūṃ) là đe dọa các chướng. Giải thích chung
là “lìa sự sanh bởi nhân
duyên”. Sanh bắt nguồn từ
nghiệp. Ly sanh tức là lìa nghiệp. Chữ Hê (हे) đầu tiên có âm Ha (ह)
là “hành”, là “hỷ”, tức là hạnh Thanh Văn. Âm Ế (े)
tam-muội chính là môn Định của Thanh Văn. Kế đó là chữ Đô (तु,
Tu) có âm Đa (त,
Ta) chính là Như Như mà Thanh Văn đã nhập. [Trong chữ Tu (तु) cũng có âm tam muội chữ
Ổ (ु,
U). Kế đó là chữ Bát (tức Đệ Nhất Nghĩa Đế do Thanh Văn trông thấy) rồi đến chữ
Ra (tức là sáu trần mà Thanh Văn phải đối diện). Để Dã (có nghĩa là “nương vào Như”,
tức là ý nghĩa “cái Thể để Thanh Văn nương vào”). Chữ Tỳ (वि,
Vi) có âm Phạ (व,
Va), tức là “trói”. Âm Y (ि) chính là tam-muội. Nghiệt Đa (Gata, lìa).
Các chữ còn lại đều rộng nói. “Bố chướng” (đe dọa các chướng)
ý nghĩa như trong phần trên đã nói, nhưng do hạnh Thanh Văn có khác. Đây là
Pháp Thân Phật do nguyện lực đại bi, vì lợi ích hữu tình, trong tam-muội mà
hiện chân ngôn của Duyên Giác và Thanh Văn. Nếu chúng sanh đáng nên dùng pháp
này để nhập đạo, sẽ khiến cho họ từ môn này mà nhập Đại Bi Tạng.
(Kinh)
Chư Duyên Giác chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạ.
(經)諸緣覺真言曰:南麼三曼多勃馱喃。嚩。
(Kinh:
Chân ngôn của các Duyên Giác là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạ).
Kế
đó là chân ngôn của Duyên Giác. Chữ Phạ (वः, Vaḥ) nghĩa
là “ngôn ngữ dứt bặt”, tức là như trên đã nói: Duyên Giác chứng
cực vô ngôn thuyết giới. Đã chứng đắc trong ấy, lại dùng pháp ấy để lợi ích
chúng sanh. Tự mình thông đạt, lại dùng pháp này để lợi tha. [Chân ngôn
của] Thanh Văn và Duyên Giác được nói như trên đây, đều dùng cú pháp làm chân
ngôn. Nay dùng một chữ ấy chính là điều trọng yếu được đề cao tột bậc, tức là
trụ xứ tu hành tột bậc. Vì thế, sử dụng một chữ!
(Kinh)
Phổ nhất thiết Phật, Bồ Tát tâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Tát phạ bột đà bồ đề tát đỏa, ha lật na da, nịnh dạ tỳ xá nễ, na ma tát phạ tỳ
đệ, sa ha.
(經)普一切佛菩薩心真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩勃馱菩提薩埵。訶㗚娜耶。甯夜毘舍儞。娜麼薩嚩毘睇。莎訶。
(Kinh:
Tâm chân ngôn của trọn khắp hết thảy Phật, Bồ Tát là: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. Tát phạ bột đà bồ đề tát đỏa, ha lật na da, nịnh dạ tỳ xá nễ, na ma tát
phạ tỳ đệ, sa ha).
Kế
đó là tâm chân ngôn của chư Phật, Bồ Tát. Tát Phạ Bột Đà (Sarva-buddhā, hết
thảy chư Phật), Bồ Đề Tát Đỏa (Boddhisatva, Bồ Tát), Ha Lật Na Da (Hṛdaya,
tâm), Nịnh Dạ Tỳ Xá Nễ (Nyāveśani, nhập. Đây là nói chung nhập vào tâm của hết
thảy chư Phật, Bồ Tát). Na Ma (Namaḥ, quy mạng), Tát Phạ Tỳ Đê (Sarvavide, thỏa
nguyện), tức là cho thỏa nguyện trí Nhất Thiết Trí. [Trong câu Tát Phạ Tỳ
Đê], Tát có nghĩa là “cứng
chắc”, [hàm nghĩa] có thể lìa
các sự cứng chắc và chẳng cứng chắc). Chữ Ra [trong chữ Tát (Sar)] là “cấu nhơ”,
chữ Phạ sau đó là trói buộc. Tỳ (वे, Ve) là “ngôn ngữ dứt bặt”, lại có âm thanh tam-muội (tức là có
nguyên âm E sau chữ व, Va). Đệ (दे, De) nghĩa là “trao cho”,
âm Ế là tam-muội. Ví như do đã tự trọn đủ bèn trao cho người khác. Ví như
do đã tự đạt được trí Nhất Thiết Trí, có thể ban cho người khác được thỏa
nguyện này. Đấy chính là tâm của chư Phật. Chữ Đệ chính là chủng tử, nối tiếp
âm A trong câu trước đó, tức là dùng âm A làm cái Thể của chủng tử, tức là ý
nghĩa “vốn
chẳng sanh”.
(Kinh)
Phổ thế thiên đẳng chư tâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Lô
ca lô ca ca ra dã. Tát bà đề bà, na già, dạ khất xoa, kiện thát phược, a tu la,
yết lộ đồ, khẩn na la, ma hô la già nễ, ha lật đà dạ na dạ, ca sa dã, phí chỉ
đa la yết đế.
(經)普世天等諸心真言曰:南麼三曼多勃馱喃。嚧迦嚧迦迦囉也。薩婆提婆。那伽。夜乞叉。健闥縛。阿修羅。揭露荼。緊那羅。摩呼羅伽儞。訶㗚馱夜娜夜。迦沙也。費只多羅揭帝。
(Kinh: Tâm
chân ngôn của trọn khắp các vị trời trong thế gian là: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. Lô ca lô ca ca ra dã. Tát bà đề bà, na già, dạ khất xoa, kiện thát
phược, a tu la, yết lộ đồ, khẩn na la, ma hô la già nễ, ha lật đà dạ na dạ, ca
sa dã, phí chỉ đa la yết đế).
Kế
đó là các tâm chân ngôn của các vị trời trong thế gian. Lô Ca Lô Ca (Lokaloka,
thế gian), tức là ý nghĩa “tối
tăm”, được gọi là vô minh.
Bên cạnh chữ này có âm A, nghĩa là “vốn chẳng có”. Chẳng tối tăm tức là thật sự
sáng sủa. A Lô Ca là “sáng”.
Ca Ra Dã (Karāya) là Tác, có nghĩa là Chiếu, soi sáng, tạo thành tướng sáng, [hàm ý]: Hiện thân
trọn khắp trong tám bộ để trừ tối tăm cho họ, khiến cho họ hành hạnh sáng suốt.
Tạo sự sáng suốt ấy để khiến cho thế gian sáng bừng. Tát Bà Đề Bà (Sarvadeva,
chư thiên), Na Già (Nāga, rồng), Dạ Khất Xoa (Yakṣa, Dạ
Xoa, đọc đúng theo mặt chữ), Kiện Thát Phược (Gandharva, Càn Thát Bà), A Tu La
(Asura), Yết Lộ Đồ (Garuḍa, Ca Lâu La,
nhạc chủ[10]), Khẩn Na La
(Kiṃnara, nhạc thanh), Ma Hô La Già (Mahoraga), Nễ
(दि, Di) nghĩa là “vân vân”, nhiếp thuộc các
bộ), Ha Lật Đà Dạ Na Dạ (Hṛdayāny, tâm), Ca Sa Dã (Akarṣāya, nhiếp thuộc,
[hàm nghĩa]: “Khiến cho tâm của tám bộ
ấy được sáng suốt”). Phí Chỉ Đa La Yết Đế
(Vicitragati) là các thứ hạnh, cũng có nghĩa là Xảo Sắc (màu sắc đẹp đẽ). Tùy loại thị hiện hết thảy các thân đáng yêu mến thì gọi
là Xảo Sắc. Cũng có nghĩa là Tạp Sắc (nhiều màu), [hàm nghĩa] “dùng đủ loại hạnh, đủ loại sắc pháp môn để
trừ tối tăm cho thế gian”, tức là ý nghĩa khôn
sánh trong các minh chú vậy.
Dùng chữ Lô tối sơ để làm chủng tử.
(Kinh)
Nhất thiết chư Phật chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phược
tha, tỳ mạt để, tỳ kết ra noa, đạt ma đà đô, niết xà đa, sâm sâm ha, sa ha.
(經)一切諸佛真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩縛他。毘末底。毘結囉拏。達摩馱都。涅闍多。參參訶。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của hết thảy chư Phật: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phược tha,
tỳ mạt để, tỳ kết ra noa, đạt ma đà đô, niết xà đa, sâm sâm ha, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của hết thảy chư Phật. Tát Phược Tha (Sarvātha, hết thảy). Tỳ
Mạt Để (Vimati, vô huệ): Do không có huệ, nên gọi là Nghi. Chữ này chính là để
giải thích cho Nghi. Tỳ Kết Ra Noa (Vikiraṇa) nghĩa là Trừ. Có nghĩa là vứt bỏ
Sắc Trần như người vứt bỏ ô uế, nên gọi là Trừ Khí. Đạt Ma Đà Đô
(Dharmadhātu, pháp giới): Ý nói trừ hết thảy vô huệ, đều khiến cho trụ
trong pháp giới. Niết Xà Đa (Nirjāta) là sanh. Chữ Niết này chính là Đại Không
tam-muội. Từ đây mà sanh thì chính là sanh trong pháp giới vậy. Sâm Sâm Ha (Saṃ saṃ hā): Ba chữ này đều là
chủng tử. Tát (स,
Sa) có nghĩa là “cứng chắc”. Ví như do trừ sự kiên cố này mà sanh ra
tối thắng. Cái chấm Không là nhập tam-muội, [tức chữ Sa thêm chấm Đại Không
thành Saṃ (सं)].
Như Nhị Thừa nhập Niết Bàn, đấy chính là ý nghĩa “kiên cố”.
Cho đến nếu có gì cứng chắc, đấy chính là tướng sanh trụ. Hết thảy các pháp
động đều là bất an. Do cực lực trừ khử điều ấy mà đều có ý nghĩa “Trọng Không tam-muội”. Ha chính là hạnh ấy, tức là Như Lai
hạnh.
(Kinh)
Bất Khả Việt Thủ Hộ Môn Giả chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. Nô đạt rị sa, ma ha rô sắt noa, khư đà dã, tát phược đát tha yết đa
chiêm, câu rô, sa ha.
(經)不可越守護門者真言曰:南麼三曼多勃馱喃。奴達哩沙。摩訶嚧瑟拏。佉佗也。薩縛怛他揭多瞻。俱嚧。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của người thủ hộ cửa Bất Khả Việt (chẳng thể vượt qua): - Nam ma tam
mạn đa bột đà nẫm. Nô đạt rị sa, ma ha rô sắt noa, khư đà dã, tát phược đát tha
yết đa chiêm, câu rô, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của người thủ hộ. Đây chính là chẳng thể vượt qua, chính vì khó
trì (nghĩa là “tận lực trì”. Dòm ngó sẽ chẳng thể được[11], cũng có nghĩa là khó hàng phục).
Người vâng theo giáo pháp của Pháp Thân Phật thường ở bên phải, phía trong cửa,
gọi là Bất Khả Việt Sứ Giả (Durdharṣadvarapāla). Do oai lực tam-muội-da của chư Phật, sẽ
không thể vượt qua! Tuân phụng, làm theo giới luật kim cang, hết thảy chẳng dám
trái vượt, cũng gọi là Vô Năng Kiến (chẳng thể thấy). Do người tuân phụng giáo
này oai mãnh hừng hực như trăm ngàn mặt trời, không ai dám nhìn, ví như trẻ nhỏ
mới sanh chẳng kham ngửa mặt nhìn mặt trời. Do vậy gọi tên như thế. Do thường ở
phía trong cửa của Phật, hành đúng theo lời răn dạy, nên gọi là Phụng Giáo Giả.
Nô
Đạt Rị Sa (Durdharṣa) chính là tên của họ, có nghĩa là Bất Khả Việt. Đà Đạt
(dhar) là pháp giới, có âm Ra là vô cấu, Xa (Ṣa) tức là Xa-ma-tha. Ma Ha Rô Sắt
Noa (Mahāroṣaṇa) là Đại Phẫn Nộ. Khư Đà Da (Khādaya) là ăn, tức nuốt hết thảy
các phiền não do hình tướng hư vọng. Dùng chữ Khư (Khā) làm chủng tử. Các chữ
kia nhằm giải thích chữ này, tức là nghĩa Không. Đà có nghĩa là Cho, cũng có
nghĩa là Thừa (nương vào, ngự trên). Tát Phược Đát Tha Yết Đa (Sarva-
tathāgatā) là hết thảy Như Lai. Chiêm (Jñaṃ, đọc âm dài) có nghĩa là “giáo sắc”,
liên kết với âm A trong câu trước. Câu Rô (Kurū) là “làm”, tức là khiến cho
[người phụng giáo] thực hiện giáo sắc của Như Lai. Thuận theo giáo sắc mà
thực hiện, chẳng trái nghịch, nghĩa là “có thể tuân theo giáo sắc” vậy.
(Kinh)
Tương Hướng Thủ Hộ Môn Giả chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. Hê ma ha bát ra, chiến đồ. A bệ mục khư. Nghiệt lật ha noa, khư đà dã,
khẩn chỉ la duệ tế, tam ma da, ma nỗ tát ma ra, sa ha.
(經)相向守護門者真言曰:南麼三曼多勃馱喃。醯摩訶鉢囉戰荼。阿鞞目佉。蘖㗚訶拏。佉陀也。緊只羅曳細。三麼耶麼努薩麼囉。莎訶。
(Kinh: Chân
ngôn của người thủ hộ cửa đối diện nhau: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm. Hê ma ha bát ra, chiến đồ. A bệ mục khư. Nghiệt lật ha noa, khư
đà dã, khẩn chỉ la duệ tế, tam ma da, ma nỗ tát ma ra, sa ha).
Kế
đến là chân ngôn của Tương Đối Thủ Môn Giả (Abhimukha). Hê (He) là kêu gọi
triệu tập. Ma Ha Bát Ra (Mahāpra) là cùng cực. Chiến Đồ (Caṇḍa) là đại phẫn nộ,
bạo ác, hàm nghĩa “phẫn nộ tột bậc”. A Bệ Mục Khư (Abhimukhā): Đối
diện nhau, giữ cửa như trong phần trên [đã nói về Việt Thủ Hộ Thủ Môn Phụng
Giáo Giả]. Nghiệt Lật Ha Noa (Gṛhṇa) là nhiếp thủ. Khư Đà Dã (Khādaya) là ăn
nuốt, cũng lấy chữ Khư (Khā) làm chủng tử. Khẩn Chỉ La Duệ Tế
(Kiṃ cirāyasi): Sao không nhanh chóng? Tam Ma Da (Samayam) như đã giải
thích trong phần trước. Ma Nỗ Tát Ma Ra (Anusmara): Ức niệm, tức là nghĩ nhớ
Tam-ma-da. Do phẫn nộ tột bậc. Kẻ chẳng thể quán sẽ khiến cho [kẻ đó] chẳng
thể nhìn ngó. Do đối ứng với [các vị thủ hộ cửa] trong phần trước, nên gọi tên
như thế. Tuân phụng giáo sắc của chư Phật, dùng Bất Khả Đắc Không để ăn nuốt
hết thảy chúng sanh chấp tướng và khó thể hóa độ hàng phục, khiến cho chẳng còn
sót. Đó là ý nghĩa Đại Phẫn Nộ.
(Kinh)
Kết đại giới chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát
phạ đa la nỗ yết để, bạn đà dã tử mạn. Ma ha tam muội da nễ ra xã để. Tát mạt
ra noa, a bát ra để ha để. Đà ca, đà ca, giá la, giá la. Bạn đà, bạn đà. Na xa
nễ chiên. Tát phạ đát tha yết đa nô nhưỡng đa. Bát ra phạ ra. Đạt ma la đà tỳ
xà duệ. Bạc già phiệt để, tỳ câu lệ, tỳ câu lệ, lệ rô bổ lê, sa ha.
(經)結大界真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩多羅努揭底。畔陀也死曼。摩訶三昧耶儞囉社底。薩末囉拏。阿鉢囉底訶底。馱迦馱迦。遮囉遮囉。畔陀畔陀。娜奢儞羶。薩縛怛他揭多奴壤多。鉢囉嚩囉。達摩羅陀毘闍曳。薄伽筏底。毘俱㘑毘俱麗。隷嚕補𠼝。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn kết đại giới là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát
phạ đa la nỗ yết để, bạn đà dã tử mạn. Ma ha tam muội da nễ ra xã để. Tát mạt
ra noa, a bát ra để ha để. Đà ca đà ca, giá la, giá la. Bạn đà, bạn đà. Na xa nễ chiên. Tát phạ đát
tha yết đa nô nhưỡng đa. Bát ra phạ ra. Đạt ma la đà tỳ xà duệ. Bạc già phiệt
để, tỳ câu lệ, tỳ câu lệ, lệ rô bổ lê, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn kết đại giới. Như đức Phật đã nói có vô lượng trì minh, sợ cũng
có những người trì chân ngôn do không kết giới, thủ hộ, pháp sự có thể bị phá,
tổn hoại người trì tụng. Vì thế, lập ra pháp kết giới. Do kết giới, thậm chí
các vị Trì
Minh cũng chẳng thể phá hoại. Do tỳ-kheo kết giới làm pháp sự, dẫu tỳ-kheo ở
ngoài kết giới tác pháp, [những kẻ gây rối khác] cũng chẳng thể chướng ngại
được, ở bất cứ chỗ nào cũng đều trọn khắp.
Tát
Phạ Đa La Nỗ Yết Để (Sarvatrānugate):
Hết thảy nơi chốn, tức là mười phương đều cần kết giới trọn khắp. Bạn Đà Dã Tử
Mạn (Bandhaya
sīmāṃ): Câu trên là Kết, câu dưới là Giới. Ý nói: Hết thảy các nơi chốn đều
được kết giới. Ma Ha Tam Muội Da (Mahāsamaya): Đại tam-muội-da, tức là
dùng đại tam-muội-da ấy để kết các giới. Nễ Ra Xã Để (Nirjāte): Sanh bởi. Ý nói
từ đại tam-muội-da mà sanh. Tát Mạt Ra Noa (Smaraṇe): Ức niệm. Tức là nghĩ nhớ
hết thảy lời dạy của đức Phật. A Bát Ra Để Ha Để (Apratihate): Chẳng có gì có
thể gây hại,
cũng nói là “không vướng mắc”, cũng là “chẳng thể phá hoại”. Do kết giới mà chẳng thể phá hoại. Đà Ca
Đà Ca (Dhaka dhaka): Oai quang. Do oai quang mà thành giới. Đà là pháp giới, Ca
là làm. Tức là nói “Thể của pháp giới lìa các
tạo tác”; lìa tạo tác tức là pháp
giới. Giá La Giá La (Cala cala): Giá nghĩa là Diệt, tức là sanh diệt, đổi
dời. La là cấu chướng. Câu này cũng có nghĩa là hành, tức là “tới trọn khắp mười phương để kết”. “Cũng có nghĩa là hành” tức
là đến, đi. Nói lặp lại, [nhằm diễn tả] ý nghĩa “đến tột bậc”. Đây chính là gấp đến. Bạn
Đà Bạn Đà (Bandha bandha): Câu giải thích để kết lại ý nghĩa. Câu trước mang ý
nghĩa “có thể”, câu sau là Không. Ví như chẳng thể đả phá giống như hư không.
Do dùng chuyện này để kết giới, nên chẳng thể phá hoại. Na Xa (Daśa) là
mười; Nễ Chiên (Diśaṃ) là Phương; tức là “kết giới trong mười phương”. Tát
Phạ Đát
Tha Yết Đa (Sarvatathāgata): Hết thảy chư Phật. Nô Nhưỡng Đa (Anujñate):
Giáo, tức là lời dạy của hết thảy chư Phật; khiến cho nghĩ nhớ cái được nghĩ
tới trong phần trước. Bát Ra Phạ Ra (Pravara) là sở chứng. Đạt Ma (Dharma) là
pháp, [nói gộp hai câu này lại] thì chính là “pháp được chứng bởi chư Phật”. La Đà (Labdha): Thu được, chứng được,
đạt được. Tỳ Xà Duệ (Vijaye): Chẳng thể thắng, [hàm nghĩa]: Ở trong các chướng
bèn chiến thắng, tức là [các chướng] chẳng thể hại (chẳng thể thắng người ở
trong kết giới) được! Bạc Già Phiệt Để (Bhagavati): Đấy là vị Chân Ngôn Chủ,
tán thán công đức của Thế Tôn. Tỳ Câu Lệ (Vikuri): Trừ, [tức là] “có thể trừ cấu”. Trước hết là khuyên trừ, mà cũng
khuyên niệm để làm. Tỳ Câu Lệ (Vikule): Câu trước là trừ hữu tướng cấu, chính
là “đừng làm”. Câu sau là trừ ly tướng cấu. Tức là “trừ hết thảy các chướng”. Lệ (Le) là chủng tử. Lỗ Bổ Lê (Lu
Puri) nghĩa là cung điện, là nơi chốn. Dùng chân pháp để trừ cấu tướng, đó
chính là cung điện để chư Phật trụ, tức là giống như pháp giới. [Trong Phạn
bản, có khi sau câu này] lại thêm câu Vi Củ Lệ (Vikuli), nhưng chỉ có chữ Lệ trong câu cuối cùng là chủng tử. La (ल) là tướng, thêm vào
âm Ế tức là tam-muội [thành chữ Lệ (ले)], [hàm ý] “có đủ hết thảy các
tướng mà ly tướng”.
Đấy là thể tướng của Giới.
(Kinh)
Bồ Đề chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ố.
(經)菩提真言曰:南麼三曼多勃馱喃。惡。
(Kinh: Chân
ngôn Bồ Đề là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ố).
Từ
đây trở đi, nói các chữ chủng tử (do từ một chữ mà có thể sanh ra nhiều, thì
gọi là Chủng Tử). Ố (अ, A) là chủng tử Bồ Đề. Phàm người trì tụng
đều có cái tâm mong cầu Vô Thượng Bồ Đề, cho nên trước hết nói chữ này. Từ đó, sanh ra hết thảy các pháp, tức là Bồ
Đề tâm.
(Kinh)
Hạnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A.
(經)行真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿。
(Kinh: Chân
ngôn hạnh [Bồ Đề] là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A).
A
(आ, Ā)
là hạnh, tức chủng tử tu Bồ Đề hạnh, do thành tựu phước trí.
(Kinh)
Thành Bồ Đề chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ám.
(經)成菩提真言曰:南麼三曼多勃馱喃。暗。
(Kinh: Chân
ngôn thành Bồ Đề là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ám).
Ám
(अं,
Aṃ) là chủng tử thành Bồ Đề. Chữ trước (tức chữ A) là Bồ Đề tâm, thêm một cái
chấm bên trên tức là Đại Không. Chứng Đại Không là thành Bồ Đề.
(Kinh)
Niết Bàn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Á.
(經)涅槃真言曰:南麼三曼多勃馱喃。噁。
(Kinh: Chân
ngôn Niết Bàn là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Á).
Á
(अः, Aḥ) là
chủng tử Niết Bàn. Bên cạnh [chữ A (अ)] có hai chấm đều là tiếng gọi gấp, tức là
âm thanh Ha (ḥ), có nghĩa là trừ khử, tức là trừ khử các cấu bèn nhập Niết Bàn.
(Kinh)
Hàng Tam Thế chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn.
Ha.
(經)降三世真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。訶。
(Kinh: Chân
ngôn Hàng Tam Thế là: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Ha).
Ha
(हा,
Hā) là “hàng phục ba đời”. Ha là “hành”, thêm âm A (chữ Hā là chữ Ha ghép với chữ A, thành âm A trường
âm) là “cực hành”.
Dùng điều này để trừ khử các hành, tức là “chẳng
hành hết thảy các hành”. Dùng điều này có thể đánh bại tam thế.
(Kinh)
Bất Động Tôn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn.
Hãn.
(經)不動尊真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。悍。
(Kinh: Chân
ngôn của Bất Động Tôn là: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn.
Hãn)
Hãn
(हां,
Hāṃ) là Bất Động Chủ (Acalanātha, Bất
Động Minh Vương). Ha là hành, âm A lại là hạnh, thêm chấm tức là Đại Không. Do
trụ trong địa vị này, có thể hàng phục hết thảy, tức là Bồ Đề tâm tạo sự thủ hộ
to lớn.
(Kinh)
Trừ Cái Chướng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A.
(經)除蓋障真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿。
(Kinh:
Chân ngôn của Trừ Cái Chướng là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A).
A
(अः, Aḥ) là Trừ Cái Chướng (Sarvanīvaraṇaviṣkambhin). A là chướng, bên cạnh
có hai chấm, tức là trừ khử. Đấy chính là trừ khử cái chướng.
(Kinh)
Quán Tự Tại chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Sa.
(經)觀自在真言曰:南麼三曼多勃馱喃。娑。
(Kinh:
Chân ngôn của Quán Tự Tại là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, Sa).
Sa
(सः Saḥ)
là Quán Tự Tại (Avalokiteśvara).
Sa (स)
là các lậu, bên cạnh có hai điểm tức là âm Ha (ḥ). Quán để trừ khử các lậu và
vô lậu, nên là tự tại.
(Kinh)
Kim Cang Thủ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn.
Phạ.
(經)金剛手真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。嚩。
(Kinh: Chân
ngôn của Kim Cang Thủ là: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn.
Phạ)
Phạ
(वः,
Vaḥ) là Kim Cang Thủ (Vajrapāṇi),
nghĩa là “trói buộc”. Bên cạnh [chữ Va (व)]
có hai điểm tức là trừ các trói buộc. Đấy chính là Kim Cang chủng tử.
(Kinh)
Diệu Cát Tường chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Mạn.
(經)妙吉祥真言曰:南麼三曼多勃馱喃。瞞。
(Kinh: Chân
ngôn của Diệu Cát Tường là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, Mạn).
Mạn
(मं,
Maṃ) là Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī).
Bản thể [của chữ Ma] chính là Không, phía trên lại có chấm là lại thêm Không
vào, tức là Đại Không. Vượt ngoài mười tám món Không, nên gọi là Đại Không. Trụ
nơi địa vị Không tức là Đại Không; đó chính là Đại Bát Nhã.
(Kinh)
Hư Không Nhãn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Nghiêm.
(經)虛空眼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。嚴。
(Kinh:
Chân ngôn của Hư Không Nhãn là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Nghiêm).
Nghiêm
(गं,
Gaṃ) là Hư Không Nhãn (Gaganalocanā). Già (Ga) là “đến, đi”. Lìa đến đi tức là giống như Đại Không. Vì
thế, thêm cái chấm.
(Kinh)
Pháp giới chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Lam.
(經)法界真言曰:南麼三曼多勃馱喃。㘕。
(Kinh: Pháp
giới chân ngôn là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, lam).
Lam
(रं,
Raṃ): Hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều từ đây mà vào pháp giới. Ra (र)
là cấu. Trên đó có chấm, tức là ly cấu giống như Đại Không. Đó là ý nghĩa của
pháp giới.
(Kinh)
Đại Cần Dũng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Khiếm.
(經)大勤勇真言曰:南麼三曼多勃馱喃。欠。
(Kinh: Chân
ngôn của bậc Đại Cần Dũng là: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, khiếm).
Khiếm
(खं,
Khaṃ) là con của đấng Đại Cần Dũng (Mahāvīra). Do đức Phật ngồi đạo tràng, hàng phục các
ma, hết thảy trời, người gọi Ngài là Đại Cần Dũng, tức là Tỳ Lô Giá Na. Khư (ख,
Kha) có nghĩa là Không, trên đó có chấm là Đại Không [thành Khaṃ], [tức là] dùng Đại Không tịnh hóa hết thảy
các Không.
(Kinh)
Thủy Tự Tại chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm. Nhiêm.
(經)水自在真言曰:南麼三曼多勃馱喃。髯。
(Kinh: Chân
ngôn của ngài Thủy Tự Tại là: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, nhiêm).
Nhiêm
(जं,
Jaṃ) là Thủy Tự Tại (Jalendra)
Bồ Tát. Do sanh từ nước, nên gọi là Thủy Tự Tại, tức là danh hiệu của Bồ Tát.
Trong Đại Bổn có nói, nhưng trong tọa vị thuộc Mạn-đồ-la này chẳng nói chỗ an
lập, cần phải kiểm giảo cặn kẽ. Xà (Ja) có nghĩa là Sanh, [hàm nghĩa] “trừ các sanh diệt giống
như Đại Không”.
Kinh)
Đa La Tôn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Đam.
(經)多羅尊真言曰:南麼三曼多勃馱喃。耽。
(Kinh: Chân
ngôn của ngài Đa La là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, Đam).
Đam
(तं,
Taṃ) là ngài Đa La (Tārā).
Đa là Như Như, tánh của Như Như chính là Đại Không.
(Kinh)
Tỳ Câu Chi chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Bột-rị.
(經)毘俱胝真言曰:南麼三曼多勃馱喃。勃唎。
(Kinh: Chân
ngôn của ngài Tỳ Câu Chi là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
Bột-rị).
Bột-rị
(भृः, Bhṛḥ) là Tỳ Câu Chi (Bhṛkuṭī), Bà (भ, Bha) tức là tam hữu, Rị
(ृ)
là tam muội. Được tự tại trong tam hữu, bên cạnh có hai chấm tức là trừ bỏ tam
hữu.
(Kinh)
Đắc Đại Thế chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. sâm.
(經)得大勢真言曰:南麼三曼多勃馱喃。參。
(Kinh: Chân
ngôn của ngài Đắc Đại Thế là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, sâm).
Sâm
(सं,
Saṃ) là Đắc Đại Thế (Mahāsthāmaprāpta).
Sa (स)
là chư lậu, giống như chủng tử của ngài Quán Âm, trên đó có chấm, ý nói các lậu
ấy giống như Đại Không.
(Kinh)
Bạch Xứ Tôn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. bán.
(經)白處尊真言曰:南麼三曼多勃馱喃。半。
(Kinh: Chân
ngôn của ngài Bạch Xứ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bán).
Bán
(पं,
Paṃ) là Bạch Xứ (Pāṇḍaravāsinī), tức
Quán Âm Bộ Mẫu. Bả (प, Pa) là đệ nhất nghĩa thể, ví như hư
không.
(Kinh)
Hà Da Yết Rị Bà chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Hàm.
(經)何耶揭哩婆真言曰:南麼三曼多勃馱喃。含。
(Kinh:
Chân ngôn của ngài Hà Da Yết Rị Bà: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
hàm).
Hàm
(हं,
Haṃ) là ngài Mã Đầu (Hayagrīva),
Ha (ह)
là hành, thêm [cái chấm] Đại Không, tức là hạnh Đại Không.
(Kinh)
Da Thâu Đà La chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Diêm.
(經)耶輸陀羅真言曰:南麼三曼多勃馱喃。閻。
(Kinh: Chân
ngôn của ngài Da Thâu Đà La: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, diêm).
Diêm
(यं,
Yaṃ) là Da Thâu Đà La (Yaśodharā),
tức Liên Hoa Bộ Minh Phi, Dã (य, ya) có nghĩa là Thừa. Phía trên có chấm,
ý nói thừa thanh tịnh giống như Đại Không.
(Kinh)
Bảo Chưởng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Sâm.
(經)寶掌真言曰:南麼三曼多勃馱喃。參。
(Kinh:
Chân ngôn của ngài Bảo Chưởng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
sâm).
Sâm
(सं,
Saṃ) là chủng tử của Bảo Chưởng (Ratnakara) Bồ Tát, giống như ngài Đại Thế Chí,
dùng Bảo Xứ làm Định, dùng báu làm tay.
Chất báu sanh từ đó, cũng có nghĩa là Thường, cũng có nghĩa là Tác.
(Kinh)
Quang Võng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nhiêm.
(經)光網真言曰:南麼三曼多勃馱喃。髯。
(Kinh: Chân
ngôn của ngài Quang Võng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhiêm).
Nhiêm
(जं,
Jaṃ) là Quang Võng (Jālinīprabha) Bồ
Tát, tức là quyến thuộc của đức Văn Thù, ý nghĩa giống như trong phần trên.
(Kinh)
Thích Ca Mâu Ni chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Bà.
(經)釋迦牟尼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。婆。
(Kinh: Chân
ngôn của Thích Ca Mâu Ni Phật: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà).
Bà
(भः,
Bhaḥ) là Phật Thích Ca. Bà là tam hữu. Bên cạnh có hai chấm, tức là ý
nghĩa “trừ khử tam hữu”.
(Kinh)
Tam Phật Đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng trá-lam.
(經)三佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吽吒㘕。
(Kinh:
Chân ngôn của ba vị Phật Đảnh: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
hồng trá-lam).
Hồng
Trá Lam (Hūṃ Ṭrūṃ). [Chữ Hồng] trên
có chữ Ha là hành, dưới có chữ Ô là tam-muội. Trên đó có một chấm là Đại Không.
Chữ Lam sau chữ Trá (Ṭa) là “chiến đấu với oán địch”. Ra là cấu, âm Ô (Ū) bên cạnh là tam-muội,
trên có chấm Đại Không. Trên đây là chủng tử của ba vị Phật đảnh, theo thứ tự
đối xứng.
(Kinh)
Bạch Tán Phật Đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, lân.
(經)白傘佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。隣。
(Kinh:
Chân ngôn của Bạch Tán Phật Đảnh: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
lân).
Lân
(लं,
Laṃ) là ngài Bạch Tán [Phật Đảnh] (Sitātapatroṣṇīṣa). La (ल) là tướng, trên có chấm
giống như Đại Không.
(Kinh)
Thắng Phật Đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Thiêm.
(經)勝佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。苫。
(Kinh: Chân
ngôn của Thắng Phật Đảnh (Jayoṣṇīṣa): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Thiêm).
Thiêm
(शं, Śaṃ): Chữ Xã (श, Śa) là chướng, có nghĩa là oán địch đối đầu,
nghĩa là hết thảy các pháp có đối đãi đều giống như Đại Không, không hơn kém.
(Kinh)
Tối Thắng Phật Đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm. Tứ.
(經)最勝佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。賜。
(Kinh:
Chân ngôn của Tối Thắng Phật Đảnh: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tứ).
Tứ
(शी, Śī) là Tối Thắng Phật Đảnh (Vijayoṣṇīṣa). Sa (श, Śa) là kiên cố. Lìa kiên cố và chẳng kiên cố
tức là Đại Không, lại có tam-muội.
(Kinh)
Hỏa Tụ Phật Đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Đát-lân.
(經)火聚佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。怛𭌇。
(Kinh: Chân
ngôn của Hỏa Tụ Phật Đảnh: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Đát-lân).
Đát-lân
(त्रिं, triṃ): Đa là Như Như, Ra là cấu; lại có
tam-muội và nghĩa Đại Không, đấy là Hỏa Tụ (Tejorāśyuṣṇīṣa, Đế Thù La Thí Phật Đảnh).
(Kinh)
Trừ Chướng Phật Đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Ha-lâm.
(經)除障佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。訶啉。
(Kinh: Chân
ngôn của Trừ Chướng Phật Đảnh: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ha-lâm).
Ha-lâm (ह्रुं, hruṃ): Ha là hành, Ra là cấu, Ổ là tam-muội,
cái chấm là Đại Không. Đấy là Trừ Cái Chướng Phật Đảnh (Vikiraṇoṣṇīṣa).
(Kinh)
Thế Minh Phi chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Đam
hàm bán hàm diêm.
(經)世明妃真言曰:南麼三曼多勃馱喃。耽含半含閻。
(Kinh: Chân
ngôn của Thế Minh Phi (Lokavidyārājñī): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Đam hàm bán hàm diêm).
Trên
đây là chủng tử của năm vị Phật Đảnh. Đam, Hàm, Bán, Hàm, Diêm (Taṃ Haṃ Paṃ Haṃ
Yaṃ): Như Như, trên [mỗi chữ] có [cái chấm] Không, tức Như Như
chẳng thể được, giống như Đại Không.
(Kinh)
Vô Năng Thắng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Hồng.
(經)無能勝真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吽。
(Kinh: Chân
ngôn của ngài Vô Năng Thắng (Aparājita): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Hồng).
Hồng
(Hūṃ) là hành, nhập môn chữ A chính là hành vô hành, tức ly hành.
(Kinh)
Địa Thần chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Vi.
(經)地神真言曰:南麼三曼多勃馱喃。微。
(Kinh: Chân
ngôn của Địa Thần: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Vi).
Vi
(वि,
Vi) là nhập Đệ Nhất Nghĩa, lìa Đệ Nhất Nghĩa.
(Kinh)
Kế Thiết Ni chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Chỉ-lý.
(經)髻設尼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。枳履。
(Kinh: Chân
ngôn của Kế Thiết Ni (Keśinī): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Chỉ-lý).
Chỉ-lý
(किलि,
Kili): Hành, ly hành.
(Kinh)
Ổ Ba Kế Thiết Ni chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Nễ-lý.
(經)鄔波髻設尼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。儞履。
(Kinh: Chân
ngôn của Ổ Ba Kế Thiết Ni (Upakeśinī): - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm. Nễ-lý).
Nễ-lý
(दिलि,
Dili): Hết thảy các thừa, tức là thừa vô thừa, Thể đồng với hư không. Năm chữ
này là chữ chủng tử của Minh Phi trong thế gian, tuy là Phật hóa thân,
tướng giống như thế gian, được gọi là Thiên v.v… Trọn khắp hết thảy tất cả Minh
Phi, tùy ý chọn lấy một vị. Hồng là chủng tử tam-muội của Vô Năng Thắng. Vi
(trói buộc) là chữ chủng tử của Địa Thần. Chỉ (Tác tam-muội) Lý (ly tướng
tam-muội), Tướng Ly (sứ giả Kế Thiết Ni của đức Văn Thù. Do búi tóc đoan
nghiêm, khéo léo mà có tên như thế). Nễ là Định Không. Lý là người thí, là
tướng của Định. Đà là thí. Trong vô tướng, có
thể mãn hết thảy các nguyện. Đấy là Ổ Ba Thiết Kế Ni (Không Định).
(Kinh)
Chất Đa đồng tử chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. Mị-lý.
(經)質多童子真言曰:南麼三曼多勃馱喃。弭履。
(Kinh: Chân
ngôn của Chất Đa đồng tử (Citrā): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Mị-lý).
Tướng
của Mị-lý (मिलि,
Mili) như trong phần trước [đã nói]. Đây là sứ giả của ngài Văn Thù, tên là
Chất Đa (Citrā). Ma (म)
là Không, là Ngã. Chữ La (ल) sau đó là tướng, ví như do hữu tướng nên
có ngã. Do ly tướng nên vô ngã, cũng là môn Định của ngài Văn Thù Sư Lợi.
(Kinh)
Tài Huệ đồng tử chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Hệ-lý.
(經)財慧童子真言曰:南麼三曼多勃馱喃。係履。
(Kinh: Chân
ngôn của Tài Huệ đồng tử: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Hệ-lý).
Hệ
Lý (हिलि,
Hili): Hệ (hỷ hành), Lý là tướng, chính là sứ giả Tài Huệ (Vasumatī) của ngài Văn Thù, tức là có thể thỏa mãn
hết thảy các nguyện, đều khiến cho hoan
hỷ. Lại còn một sứ giả tên là A Ca Sa Ni, tức là sứ giả chuốc vời, giữ lấy các vật, nhưng
kinh thiếu phần kinh văn nói về chữ chủng tử của vị này, chưa tìm được! Trên
đây là năm vị sứ giả của ngài Văn Thù, mỗi sứ giả lại có một người phụng giáo, [mỗi vị phụng giáo có] cùng
chữ chủng tử giống như sứ giả.
(Kinh)
Trừ Nghi Quái chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ha sa
nan.
(經)除疑怪真言曰:南麼三曼多勃馱喃。訶娑難。
(Kinh: Chân
ngôn của ngài Trừ Nghi Quái: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha sa
nan).
Kế
đó là Trừ Nghi Quái (Kauṭūhala) Bồ Tát. Ha Sa Nan (Hasanāṃ): Hành hạnh lìa
Không, lại là Đại Không; đó gọi là pháp cam lộ. Cả câu nghĩa là Hỷ (có nghĩa là
hoan hỷ, hớn hở).
(Kinh)
Thí Nhất Thiết Chúng Sanh Vô Úy chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm, ra sa nan.
(經)施一切眾生無畏真言曰:南麼三曼多勃馱喃。囉娑難。
(Kinh: Chân
ngôn của ngài Thí Nhất Thiết Chúng Sanh Vô Úy: - Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm, ra sa nan).
Kế
đó là ngài Thí Nhất Thiết Chúng Sanh Vô Úy (Sarvasatva-abhayaṃ-dada).
Ra Sa Nan (Rasanāṃ) là “cấu” như trong phần trên. Do có chữ này
nên có sợ hãi.
Nếu nhập môn chữ A, sẽ có thể trừ hết thảy sợ hãi. Cả câu có nghĩa là Vị, tức
là dùng vô thượng chân thật pháp vị để thỏa mãn hết thảy các nguyện.
(Kinh)
Trừ Nhất Thiết Ác Thú chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm, đặc-mộng sa nan.
(經)除一切惡趣真言曰:南麼三曼多勃馱喃。特懵娑難。
(Kinh: Chân
ngôn của Trừ Nhất Thiết Ác Thú: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đặc
mộng sa nan).
Kế
đó là ngài Trừ Nhất Thiết Ác Thú (Sarvāpāyaṃjaha). Đặc Mộng Sa Nan
(Dhvaṃsanāṃ): Đặc Mộng là pháp giới trói buộc, Sa Nan [có ý nghĩa] như câu
nói chung trong phần trên, có nghĩa là phá nát. Như người tay cầm đồ vật đập
vật khác cho tan nát.
(Kinh)
Ai Mẫn Huệ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vi ha sa
nan.
(經)哀愍惠真言曰:南麼三曼多勃馱喃。微訶娑難。
(Kinh: Chân
ngôn của Ai Mẫn Huệ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vi ha sa nan).
Kế
đến là Ai Mẫn Huệ (Paritrāṇāśayamati),
do thương xót hết thảy mà có tên gọi ấy. Vi Ha Sa Nan (Vihasanāṃ): Vi là trói
buộc, âm tam-muội Y là Định. Ha là hỷ, Sa là vững chắc. Nan (như câu nói chung
trên đây), dùng đủ loại phương tiện thiện xảo, khiến cho chúng sanh vui mừng cùng
cực, có ý nghĩa “tăng trưởng, tích tụ”.
(Kinh)
Đại Từ Sanh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, siểm.
(經)大慈生真言曰:南麼三曼多勃馱喃。諂。
(Kinh:
Chân ngôn của Đại Từ Sanh là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
siểm).
Siểm
(Ṭhaṃ) là chủng tử của Đại Từ Sanh
(Mahāmaitriyābhyudgata) Bồ Tát. Lòng Từ này cực lớn khôn sánh, sanh từ
lòng Từ ấy. Thừa cũng có nghĩa “đến, đi”. Lìa đến đi giống như Đại Không.
(Kinh)
Đại Bi Triền chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, diêm.
(經)大悲纏真言曰:南麼三曼多勃馱喃。閻。
(Kinh: Chân
ngôn của Đại Bi Triền: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, diêm).
Diêm
(Yaṃ) là chữ chủng tử của Đại Bi Triền (Mahākāruṇāmṛḍita) Bồ Tát. Do
đại bi tự quấn quýt trong tâm, nên Ngài có tên như
vậy.
(Kinh)
Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm, ải.
(經)除一切熱惱真言曰:南麼三曼多勃馱喃。縊。
(Kinh: Chân
ngôn của Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
ải).
Ải
(Ī) là Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não (Sarvadāhapraśāmin)
Bồ Tát. Có thể trừ Tam Độc nhiệt não, đó là ý nghĩa tột cùng của tam-muội. Ổ cũng có
nghĩa là tam-muội tột bậc.
(Kinh)
Bất Tư Nghị Huệ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ô.
(經)不思議慧真言曰:南麼三曼多勃馱喃。污。
(Kinh: Chân
ngôn của Bất Tư Nghị Huệ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ô).
Ô
(Ū): Đây là Bất Tư Nghị Huệ
(Acintyamati) Bồ Tát. Dùng trí huệ chẳng thể nghĩ bàn để trừ vô huệ. Thí:
Do tự có [trí huệ], nên có thể ban huệ cho người khác.
(Kinh)
Bảo Xứ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, than.
(經)寶處真言曰:南麼三曼多勃馱喃。灘。
(Kinh: Chân
ngôn của Bảo Xứ (Ratnākara): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, than).
Than
(Daṃ) là Xa-ma-tha. Lại là Đại Không Bảo Sanh Bồ Tát, ví như có thể sanh
ra hết thảy các pháp bảo, cho nên có tên như vậy.
(Kinh)
Bảo Thủ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, sam.
(經)寶手真言曰:南麼三曼多勃馱喃。衫。
(Kinh: Chân
ngôn của Bảo Thủ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, sam).
Sam
(Ṣaṃ): Đây là Bảo Thủ (Ratnapāṇi) Bồ Tát. Như tay cầm Như
Ý Châu, có thể mãn nguyện của hết thảy mọi người. Vị Bồ Tát này cũng thế, cho
nên có tên ấy. Nghiễm: Chữ thứ năm là Không, lại còn là Đại Không.
(Kinh)
Trì Địa chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nghiệm.
(經)持地真言曰:南麼三曼多勃馱喃。噞。
(Kinh: Chân
ngôn của Trì Địa là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nghiệm).
Nghiệm
(ङं, Ṅaṃ):
Đây là ngài Trì Địa (Dharaṇiṃdhara),
giống như đại địa duy trì muôn vật, Phật địa trì chúng sanh. Vị Bồ Tát này cũng
thế, dùng ý nghĩa của chữ này để trì hết thảy.
(Kinh)
Phục thứ, chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhiêm.
(經)復次真言曰:南麼三曼多勃馱喃。髯。
(Kinh: Lại
còn chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhiêm).
Nhiêm
(जं, Jaṃ) là chữ Nhiễm, cũng là chữ thứ năm.
Hơn nữa, bản Đại Không Kinh thiếu danh hiệu của Bồ Tát.
(Kinh)
Bảo Ấn Thủ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phiếm.
(經)寶印手真言曰:南麼三曼多勃馱喃。泛。
(Kinh: Chân
ngôn của Bảo Ấn Thủ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phiếm).
Phiếm
(फं,
Phaṃ) có nghĩa là bọt nước, chẳng kiên cố. Hiểu rõ tự tướng của hết thảy các pháp
như thế, giống như Đại Không. Đấy là chủng tử của Bảo Ấn Thủ (Ratnamudrāhasta) Bồ Tát.
(Kinh)
Kiên Cố Ý chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nạn.
(經)堅固意真言曰:南麼三曼多勃馱喃。𧹞。
(Kinh: Chân
ngôn của Kiên Cố Ý: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nạn).
Nạn
(णं, Ṇaṃ)
là Kiên Cố Ý (Dṛḍhādhyāśaya) Bồ
Tát. Không lại còn thêm
Không, tức là Kiên Ý Bồ Tát. Trong Không bèn dứt trừ cấu.
(Kinh)
Hư Không Vô Cấu chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
hàm.
(經)虛空無垢真言曰:南麼三曼多勃馱喃。含。
(Kinh: Chân
ngôn của Hư Không Vô Cấu: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hàm).
Hàm
(हं,
Haṃ) là Hư Không Vô Cấu (Gaganāmala). Huệ này như hư không thanh tịnh vô cấu.
Cái nhân của hạnh thuộc về Không, hạnh thành tựu sẽ bằng với hư không.
(Kinh)
Hư Không Huệ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, lân.
(經)虛空慧真言曰:南麼三曼多勃馱喃。隣。
(Kinh:
Chân ngôn của Hư Không Huệ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, lân).
Lân
(रिं,
Riṃ) là Hư Không Huệ (Gaganamati). Như hư không vô biên, vô ngại; trí huệ
của vị Bồ Tát này cũng như thế.
(Kinh)
Thanh Tịnh Huệ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
nghiệt đan.
(經)清淨慧真言曰:南麼三曼多勃馱喃。蘖丹。
(Kinh: Chân
ngôn của Thanh Tịnh Huệ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nghiệt
đan).
Nghiệt
Đan (गतं,
gataṃ) là Thanh Tịnh Huệ (Viśuddhamati), vô cấu.
(Kinh)
Hành Huệ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, địa lam.
(經)行慧真言曰:南麼三曼多勃馱喃。地㘕。
(Kinh:
Chân ngôn của Hành Huệ (Cāritramati): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, địa
lam).
Địa
Lam (धिरं,
Dhiraṃ): Tâm hành huệ, thường dùng trí huệ ấy để lợi ích chúng sanh.
(Kinh)
An Huệ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng.
(經)安慧真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吽。
(Kinh:
Chân ngôn của An Huệ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng).
Hồng
là An Huệ (Sthiramati). Thường trụ trong trí huệ ấy để lợi ích chúng sanh; nên
có tên như thế. Câu này có ý nghĩa là “không sợ hãi”. An trụ trong huệ ấy ví
như Kim Cang Sơn Định.
(Kinh)
Chư phụng giáo giả chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
địa thất-rị hám một-lam.
(經)諸奉教者真言曰:南麼三曼多勃馱喃。地室唎唅沒㘕。
(Kinh: Chân
ngôn các vị phụng giáo: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, địa thất-rị
hám một-lam).
Địa
Thất Rị Hám Một Lam (धिश्रीहंब्रं, dhi
śrī haṃ braṃ): Địa là pháp giới, Thất-rị (śrī) là Chỉ Định vô cấu. Hám là
hành Không. Một-lam (Braṃ) là cái Không trói
buộc các cấu chướng. Bốn chữ này dùng chung cho các vị phụng giáo, tùy ý chọn
một chữ để sử dụng.
(Kinh)
Bồ Tát sở thuyết chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
cật-sa noa ra diêm kiếm.
(經)菩薩所說真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吃沙拏囉閻劍。
(Kinh: Chân
ngôn do Bồ Tát nói: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, cật-sa noa ra
diêm kiếm).
Cật-sa
Noa Ra
Diêm Kiếm (Kṣaḥ ḍa ra yaṃ kaṃ): Cật-sa là tác chỉ (khiến cho ngưng dứt),
Noa gồm hai chấm là khủng bố, khiến cho [kẻ gây chướng] thôi chiến đấu. Ra có
thêm chấm là chiến đấu tột bậc, khiến cho sự khủng bố ấy đại thắng. Diêm là Như
Như vô cấu, thấu đạt hết thảy các thừa. Kiếm: Làm và chẳng làm đều lìa, do gì
mà được lìa? Do cái Thể là Đại Không, tùy ý chọn một loại chữ chủng tử, phần
nhiều là thiếu chữ Đa là chữ thứ ba. Sáu chữ trên đây là chủng tử của các vị Bồ
Tát nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật. Tùy ý sử dụng một chữ đều được.
Phàm trong các chân ngôn, tùy ý chọn chữ đầu, giữa, hay cuối làm chủng tử đều
được (hãy quán sát để chọn lấy chữ tông yếu).
(Kinh)
Tịnh Cư Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma nô ra ma, đạt ma tam bà
phạ phí bà phạ, ca tha na, tam tam, sa ha.
(經)淨居天真言曰:南麼三曼多勃馱喃。摩奴囉麼。達摩三婆嚩費婆嚩。迦他那。三三。莎訶。
(Kinh: Chân
ngôn của Tịnh Cư Thiên: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma nô ra
ma, đạt ma tam bà phạ, phí bà phạ, ca tha na, tam tam, sa ha).
Kế
đó là chân ngôn của Tịnh Cư Thiên (Śuddhāvāsa). Ma Nô Ra Ma (Manorama) là ý vui sướng, do
thọ đủ thứ lạc. Đạt Ma Tam Bà Phạ (Dharma-saṃbhava) là pháp sanh. Đó là do Phật
hóa sanh, chẳng liên quan tới chư thiên thế gian. “Cấu” là nói từ pháp sanh ra. Phí Bà Phạ
(Vibhava) do Hữu có ba loại. Ba chữ ấy cũng là chủng tử. Ca Tha Na (Kathāna) là
nói, thông với phần trước thì là hễ có nói năng bèn thuận theo pháp ấy mà sanh.
Dùng pháp đã thấu hiểu để vì chúng sanh mà thuyết pháp. Tam Tam (Saṃ Saṃ): Cũng
là chủng tử cứng chắc và chẳng cứng chắc đều lìa. Thể đồng hư không, khiến cho
Không tột cùng, nên nói lặp lại.
(Kinh)
La Sát Sa chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, cật-lam
kế rị.
(經)羅剎娑真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吃㘕計唎。
(Kinh: Chân
ngôn của La Sát Sa: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, cật- lam kế
rị).
Kế
đó là chân ngôn của La Sát (Rākṣasas), tức là dùng tiếng ở phương đó làm chân
ngôn. Cật-lam (Kraṃ) là Tâm. Kế Rị (Keri) (gộp chung ba chữ ấy làm chủng tử.
Trong ấy, có hai chữ Ca (tức âm K trong Kraṃ và Keri) và hai chữ Ra (tức
hai chữ R), tức là [hàm ý] có thể “ăn nuốt hết thảy các nghiệp cấu”. Hai
chữ Y[12] chính là
tam-muội. Nói lặp lại nhằm diễn tả ý thanh tịnh lần nữa.
(Kinh)
Đồ Cát Ni chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha-rị ha.
(經)荼吉尼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。訶唎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Đồ Cát Ni: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha-rị ha).
Kế
đó là chân ngôn của Đồ Cát Ni (Ḍākinī).
Đây là trong thế gian có kẻ tạo ra pháp thuật này, và cũng tự ở trong chú
thuật, có thể biết người sắp mạng chung, trong vòng sáu tháng liền biết. Đã
biết liền tác pháp, lấy tim người ấy để ăn. Vì lẽ nào vậy? Do trong thân người
có chất Hoàng, được gọi là Nhân Hoàng, như bò có Ngưu Hoàng. Nếu ăn được, sẽ có
thể đạt được thành tựu cực lớn. Trong một ngày đi khắp bốn châu, hễ làm điều gì
cũng đều được thành công, cũng có thể trừng trị người khác đủ cách. Đối với kẻ
có hiềm khích, bèn dùng pháp thuật để trừng trị, khiến cho người ấy bệnh khổ
tột bậc. Nhưng pháp này không được giết người, phải nương theo phương thuật. Người
sắp chết, [kẻ tu chú thuật này] trước đó sáu tháng đã biết. Biết rồi liền dùng
chú thuật để đoạt lấy tim kẻ đó. Tuy lấy tim người đó, nhưng cần có pháp
thuật, phải dùng
vật khác để thay thế [trái tim], ngõ
hầu người ấy trọn chẳng mất mạng. Tới khi người ấy đáng phải chết thì [vật thay
thế ấy] mới hư hoại.
Phần
lớn [Đồ Cát Ni] đều là Dạ Xoa đại tự tại, được người đời gọi là bậc Đại Cực,
trực thuộc [quyền thống nhiếp của] Ma Ha Ca La, tức là Đại Hắc Thần. Đức Tỳ Lô
Giá Na dùng pháp môn hàng phục tam thế, muốn trừ [ác nghiệp sát hại] cho họ,
bèn hóa thành Đại Hắc Thần. Ngài thị hiện vô lượng trong bọn họ, dùng tro bôi
thân, ở trong đồng hoang, dùng pháp thuật triệu tập hết thảy các Đồ Cát Ni đã
thành tựu pháp bay lên hư không, hoặc đi trong nước đều vô ngại, mà quở trách
rằng: “Do các ngươi thường ăn thịt người, nay ta cũng ăn các ngươi”. Liền nuốt
trộng họ, nhưng không giết chết họ. Họ đã khuất phục bèn nhả ra, dạy họ đều
thôi ăn thịt. Bọn họ bạch Phật: “Chúng con đều ăn thịt thì mới sống nổi. Nay chúng
con phải tự nuôi mình bằng cách nào?” Đức Phật nói: “Cho phép các ngươi ăn tim
người đã chết”. Bọn họ thưa: “Khi người sắp chết, các đại Dạ Xoa sẽ biết kẻ đó
mạng đã tận, tranh nhau đến muốn ăn. Con làm như thế nào thì mới ăn được?” Đức
Phật bảo: “Ta vì các ngươi nói pháp chân ngôn và ấn, các ngươi sẽ biết sáu
tháng trước khi [người đó] chết. Biết rồi bèn dùng pháp gia hộ, đừng khiến cho
người ấy kinh sợ, tổn hại. Tới khi người ấy mạng tận, cho phép các ngươi lấy
[tim người ấy] mà ăn”. Vì thế, phần nào dẫn dắt họ nhập đạo. Do vậy, có chân
ngôn này. Ha-rị (Hrīḥ): Ha là định hạnh, Rị là cấu, Ha (Haḥ) là hành,
[hàm nghĩa] trừ khử cấu nhơ tà thuật.
(Kinh)
Chư Dược Xoa nữ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
dược khất-xoa vĩ nễ-dạ đạt rị.
(經)諸藥叉女真言曰:南麼三曼多勃馱喃。藥吃叉尾儞夜達唎。
(Kinh:
Chân ngôn của các Dược Xoa Nữ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, dược
khất-xoa vĩ nễ-dạ đạt rị).
Kế
đó là chân ngôn của các Dược Xoa nữ (Yakṣiṇī) họ có thể nuốt thế gian, có thể ăn
các thứ ác như các nghiệp cấu v.v… Đó là ý nghĩa của Dạ Xoa. Dược (ý nghĩa như
trên) Khất-xoa (Kṣa) là môn Định đoạn dứt ngôn ngữ. Vĩ Nễ-dạ (Vidya) nghĩa
là Thừa. Đạt (Dhā) là pháp giới. Rị
(Ri) là vô cấu Định. Câu chú này có nghĩa: Người trì Dạ Xoa minh chú chính là
cái tâm, dùng ngôn ngữ của họ để làm chú.
(Kinh)
Chư Tỳ-xá-giá chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỷ
chỉ tỷ chỉ.
(經)諸毘舍遮真言曰:南麼三曼多勃馱喃。比旨比旨。
(Kinh: Chân
ngôn của các Tỳ-xá-giá: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỷ chỉ tỷ
chỉ).
Kế
đó là chân ngôn của Tỳ-xá-giá (Piśāca), [Tỳ Xá Giá] dịch
nghĩa là Cực Khổ Sở. Bọn này phần nhiều là ngạ quỷ. Tỷ là Đệ Nhất Nghĩa Định,
Chỉ là chết. Tỷ Chỉ (Pici) là cực Đệ Nhất Nghĩa diệt, cũng tùy thuộc phương
ngôn mà làm chú.
(Kinh)
Chư Bộ Đa chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ngung ải,
ngung y mộng tán ninh.
(經)諸部多真言曰:南麼三曼多勃馱喃。喁縊喁伊懵散寧。
(Kinh:
Chân ngôn của các Bộ Đa: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ngung ải
ngung y mộng tán ninh).
Kế
đó là chân ngôn của Bộ Đa (Bhūta), đây là một loại Dạ Xoa. Ngung (Guṃ) là
trừ bỏ Không, Ải (Ī) là Định. Ngung Ải là tột cùng. Mộng (Maṃ) là
cái Ngã cứng
chắc. Tán Ninh (Saṃne) là Không Định.
(Kinh)
Chư A Tu La chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra trá
ra trá đặc mộng đam một-ra ba ra.
(經)諸阿修羅真言曰:南麼三曼多勃馱喃。囉吒囉吒特懵耽沒囉波囉。
(Kinh:
Chân ngôn của các A Tu La là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra
trá ra trá đặc mộng đam một-ra ba ra).
Kế
đến, chân ngôn của A Tu La, mỗi mỗi chữ [đều có thể] riêng làm chữ chủng tử,
tùy ý chọn lấy một chữ. Ra là cấu. Trá là chiến, Ra Trá (Raṭaṃ, lặp lại).
Đặc Mộng Đam (Dhvaṃtaṃ): Pháp giới không trói buộc, giống như hư không. Một-ra
(Mra): Ví như hư không. Ba-ra (Pra): Ngôn ngữ dứt bặt, lìa các cấu. Trong câu
này có lời nhiễm dục, sân hận, tức là trừ sự đa dục và sân hận của họ nên nói
[như vậy].
(Kinh)
Chư Ma Hầu La Già chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
nghiệt ra lam, nghiệt ra lam.
(經)諸摩睺羅伽真言曰:南麼三曼多勃馱喃。蘖囉藍蘖羅藍。
(Kinh: Chân
ngôn của các Ma Hầu La Già là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
nghiệt ra lam, nghiệt ra lam).
Kế
đó là Ma Hầu La Già, cũng tùy ý chọn chữ chủng tử trong đó. Nghiệt Ra Lam
(Garalaṃ): Nghiệt là “đến, đi”.
Ra là cấu. Lam là tướng, tức sanh tử, [hoặc có thể hiểu] Nghiệt là trói buộc,
Ra là cấu, Lam là tướng.
(Kinh)
Chư Khẩn Na La chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha
tán nan vi ha tán nan.
(經)諸緊那羅真言曰:南麼三曼多勃馱喃。訶散難微訶散難。
(Kinh: Chân
ngôn của các Khẩn Na La là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha tán
nan vi ha tán nan).
Kế
đó là chân ngôn của Khẩn Na La. Ha Tán Nan (Hakhasanaṃ): Ha (hỷ) Khư (hành),
Tán (cứng chắc, tức là Ngã Chấp), Nan (Không, tức là Không trong câu trên), Vi
Ha Tán Nan (Vihasanaṃ): Vi (trói chặt), Ha Tán Nan (ý nghĩa như câu trên và câu
dưới). Trong cú nghĩa này, câu trên là hoan hỷ, cấu dưới là ban cho người khác
hoan hỷ. Do có thể trừ Ngã Chấp kiên cố mà chứng Đại Không. Vì thế, hăng hái vô
lượng. Đã tự đạt được, mà cũng có thể ban cho người khác.
(Kinh)
Chư nhân chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhất xa
bát lam, ma nỗ ma duệ mê, sa ha.
(經)諸人真言曰:南麼三曼多勃馱喃。壹車鉢㘕。麼弩麼曳迷。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của nhân loại là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhất xa
bát lam, ma
nỗ ma duệ mê, sa ha).
Trong
chân ngôn của nhân loại, mỗi chữ đều là chữ chủng tử. Nhất Xa Bát Lam
(Icchaparaṃ): Nhất là Định. Xa là hình bóng. Bên cạnh có chữ A là hành. Bát là
Đệ Nhất Nghĩa. Lam là Trần, tức Đại Không. Ma Nỗ Ma Duệ Mê (Manomayeme): Ma là
vô ngã, tức Đại Không. Nỗ: Đã không lại còn là không. Âm Y là Không. Ma: Không, Duệ Mê là nương vào Định
của loài người. Sa Ha có ý nghĩa giống như trong phần trước. Trên đây là các
biệt tướng chân ngôn đã xong.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Thị đẳng nhất thiết chân ngôn ngã dĩ tuyên thuyết. Thị trung, nhất
thiết chân ngôn chi tâm, nhữ đương đế thính, sở vị A tự môn. Niệm thử nhất
thiết chư chân ngôn tâm tối vi vô thượng, thị nhất thiết chân ngôn sở trụ, ư
thử chân ngôn nhi đắc quyết định.
(經)祕密主!是等一切真言我已宣說。是中一切真言之心,汝當諦聽,所謂阿字門。念此一切諸真言心最為無上,是一切真言所住,於此真言而得決定。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Hết thảy các chân ngôn như thế ấy, ta đã tuyên nói. Trong ấy, tâm
chú của hết thảy các chân ngôn, ông hãy nên lắng nghe, tức là nói đến môn chữ
A. Niệm tâm chú (chữ chủng tử) của hết thảy các chân ngôn sẽ là vô thượng nhất,
đó là chỗ trụ của hết thảy các chân ngôn, sẽ đạt được quyết định đối với chân
ngôn ấy).
Kế
đó, đức Tỳ Lô Giá Na nói về chân ngôn tâm, do các chân ngôn trên đây, mỗi một
chân ngôn đều có căn bản chân ngôn, tâm chân ngôn, và tùy tâm chân ngôn. Vô
lượng vô biên như thế ấy chẳng thể biết nổi số, nay nói chung “tâm” của
các chân ngôn chính là chữ A. Đó là ý nghĩa “các pháp vốn chẳng sanh”. Nếu
lìa âm A, sẽ không có chữ nào khác. Đấy chính là mẹ của các chữ, tức là sanh xứ
của hết thảy các chân ngôn, tức là hết thảy các pháp môn và các vị Bồ Tát v.v…
đều từ cái tâm tự chứng nơi tự thể của Tỳ Lô Giá Na, vì muốn lợi ích chúng sanh, dùng sức
gia trì để hiện các năng lực. Thật ra, cái Thể bất sanh, giống như pháp thể của
chữ A. Chữ này thượng diệu nhất trong các chân ngôn. Vì thế, hành giả Chân Ngôn
thường nên thọ trì như thế. Vì thế, hết thảy chân ngôn trụ trong chữ A. Do trụ
vào đó, hễ tụng liền được sanh [các công đức tương ứng]. Trên đây đã nói xong
phẩm Phổ Thông Chân Ngôn Tạng. Các chân ngôn trong phẩm này sử dụng chung cho
hết thảy các nơi, còn các pháp trong các phẩm sau thì mỗi pháp sẽ được sử dụng
riêng!
Đại
Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần sáu hết
[1] Xả
Ra Phạm (Śarāvaṃ): Chén hay đồ đựng bằng đất nung.
[2] Theo
từ điển Phật Quang Sơn, chữ này còn được phiên âm là Khư Đà Ra, Khư Đạt La,
Kiếp Đà La, Kiếp Địa La, Kiếp Đạt La, Kha Địa La, Kiếp Địa Lạc Ca, Khư Đề La
Ca, Kha Lê La, Khả Lê La v.v… Nhưng vẫn không giảng rõ là loại gỗ gì, chỉ nói
loại gỗ này thường dùng để làm cọc kim cang trong đàn hộ-ma.
[3] Thông
thường chày kim cang sẽ có hai đầu. Phần giữa là một khối tròn, có hình hoa sen
ở hai đầu. Hai đầu là hai trục nhọn. Bao quanh trục chính là bốn nhánh phụ có
hình bán nguyệt hội tụ vào trục chính (đây là chày kim cang năm nhánh) hoặc chỉ
có hai nhánh bán nguyệt châu đầu vào trục chính (chày kim cang ba nhánh). Khi
không có nhánh phụ nào chỉ có trục chính ở hai đầu thì gọi là chày kim cang một
nhánh (loại chày này
còn gọi là Kim Cang Châm).
[4] La
Nhĩ Ca (Rājīkā) là hạt cải trắng.
[5] Khổ
Luyện là một loại cây có tên tiếng Anh là China Berry, Persian Lilac, hay
Bead Tree, ta thường gọi là xoan, sầu đông, sầu đâu, thầu đâu v.v… (tuy xoan
nhà và sầu đâu là hai loài cây khác nhau). Tên khoa học là Melia Azedarach
Linn. Đây là một loại cây có thân gỗ, có thể cao tới 15m. Vỏ cây có màu nâu
xám, lá có hình trái xoan, chót lá nhọn. Hoa sáu cánh thon dài, tím nhạt pha
sắc trắng rất đẹp, mọc thành chùm. Đây là một loại cây có chất độc.
[6] Tân
Thiết (賓鐵) là loại thép tinh luyện hết sức cứng rắn,
là sản phẩm từ Ba Tư, Kế Tân, Ấn Độ v.v… được đưa vào Trung Hoa dưới thời Nam
Bắc Triều.
[7] Ngũ Bộ Phật tức là các vị Phật
chính yếu trong Kim Cang Giới mạn-đồ-la: Trung Ương Tỳ Lô Giá Na Phật, Đông
phương A Súc Bệ Phật, Nam phương Bảo Sanh Phật, Tây phương Vô Lượng Thọ Phật,
Bắc phương Bất Không Thành Tựu Phật.
[8] Trong
thần tích Ấn Độ, Diêm Vương còn được gọi bằng danh xưng Vaivasvata. Đôi khi còn
gọi ghép chung là Yamavaivasvata. Vị này cũng được coi là thần thủ hộ của chỗ
thiêu xác.
[9] Theo
Phật Học Đại Từ Điển của Đinh Phước Bảo, Diêm La Vương có bảy chị em gái, được
gọi chung là Thất Mẫu. Đại Nhật Kinh Sớ quyển năm giảng: “Thất Ma Đát
Rị, phương này dịch là Thất Mẫu, đều là nữ quỷ”. Đại Nhật Kinh Nghĩa
Thích, quyển bảy chép: “Có bảy chị em, một tên là Tả Vấn Noa, hai tên
là Kiều Phệ Rị, ba tên là Sắt Noa Vi, bốn tên là Kiều Ma Rị, năm tên là Ấn Nại
Rị, sáu tên là Lao Nại Rị, bảy tên là Mạt La Hế Mị”.
[10] Có
lẽ ở đây bị in khắc sai. Vì Càn Thát Bà mới là nhạc thần của Thiên Đế, trong
khi Ca Lâu La là Kim Xí Điểu Vương, không liên quan đến thiên nhạc.
[11] Câu
này hơi khó hiểu, chúng tôi tạm diễn giải theo ý hiểu nông cạn như sau: Do
Mạn-đồ-la là pháp thâm sâu, không thể truyền cho bất cứ người nào căn cơ không
xứng hợp, cho nên các vị thủ hộ môn sứ giả này có trách nhiệm bảo vệ đạo tràng,
tức là ngoại trừ vị A-xà-lê chủ pháp, các đệ tử thị giả, và người được truyền
pháp, sẽ không có ai khác vào trong Mạn-đồ-la được, dẫu lén lút dòm ngó cũng
không thể được.
[12] Hai
chữ Y tam-muội ở đây là nói hai nguyên âm E và I trong Kraṃ và Keri.
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần bảy
大毘盧遮那成佛經疏
Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê ký
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và
Huệ Trang
5. Phẩm thứ năm: Thế Gian Thành Tựu (Thế
gian thành tựu phẩm đệ ngũ, 世間成就品第五)
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Chấp Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ, nhi thuyết kệ ngôn: -
Như Chân Ngôn giáo pháp, thành tựu ư bỉ quả, đương tự tự tương ứng, cú cú diệc
như thị, tác tâm tưởng niệm tụng, thiện trụ nhất lạc-xoa, sơ tự Bồ Đề tâm.
(經)爾時世尊復告執金剛祕密主而說偈言:如真言教法,成就於彼果,當字字相應,句句亦如是,作心想念誦,善住一洛叉,初字菩提心。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ, mà nói kệ rằng: - Như
giáo pháp Chân Ngôn, thành tựu nơi quả ấy, nên mỗi chữ tương ứng, từng câu cũng
như thế, vận tâm tưởng niệm tụng, khéo trụ một lạc-xoa. Chữ đầu Bồ Đề tâm).
Trong
phần trước, [ngài Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ] đã thưa hỏi đức Phật, do tiếp nối
lời giải đáp trong phần trước, nên [ở đây, đức Phật] không hỏi mà tự nói. “Như
Chân Ngôn giáo pháp, thành tựu ư bỉ quả” (như giáo pháp Chân Ngôn,
thành tựu cái quả ấy): Hành nhân Chân Ngôn vâng theo đúng giáo pháp, nương theo
chánh giáo để tu pháp hạnh; do khéo hành hạnh ấy, đắc quả Tất Địa. Ý Phật là:
Nếu có chúng sanh muốn được thành tựu đại quả như trên, trước hết nên nương
theo thứ tự [được nói] trong phẩm này để tu hành. Đó chính là chỗ đặt chân ban
đầu vậy!
“Đương
tự tự tương ứng, cú cú diệc như thị. Tác tâm tưởng niệm tụng, thiện trụ nhất
lạc-xoa, sơ tự Bồ Đề tâm” (Nên mỗi chữ tương ứng, từng câu cũng như
thế. Vận tâm tưởng niệm tụng, khéo trụ một lạc-xoa, chữ đầu Bồ Đề tâm): Mỗi chữ
như trên đều có ý nghĩa. Từ chữ ấy,
nhập môn Thật Tướng, tức là [nói tới] chữ [trong mỗi bài] chân ngôn. Lại nữa, các chữ ấy hợp thành
câu, bèn có “cú nghĩa” (ý nghĩa của mỗi câu). Câu ấy
nói thẳng vào cái Thể của Thật Tướng. Vì thế, hành giả trì Chân Ngôn, ắt phải
sao cho từng chữ đều tương ứng, từng câu đều tương ứng. Hoặc trụ trong chữ
chủng tử nơi tâm, hoặc tưởng chân ngôn trở thành hình vòng tròn, hoặc như hình
tràng hoa, hoặc như viên châu được treo, sáng sạch, vô cấu, tuần hoàn liên tục, chẳng gián
đoạn. [Tưởng] như thế, sao cho hiện tiền rành rẽ xong, tưởng chân ngôn luân (các chữ trong chân
ngôn kết thành vòng tròn) ấy sáng suốt, trắng trong như sữa tinh thuần, lần
lượt tuôn trào chẳng ngưng dứt, lọt vào trong miệng [của người trì chú], từ
trên xuống dưới, rưới trọn khắp hạ phẩm (phần dưới thân thể), đầu đuôi liên
tiếp, lôi kéo lẫn nhau, rót vào trong thân, tưới trọn khắp thân tâm, tưới tắm
các thân phần. Do nhân duyên ấy, có thể khiến cho các chướng nơi thân tâm của
hành giả thảy đều thanh tịnh.
Nói “một
lạc-xoa” chính là ẩn ngữ. Phải hiểu theo biệt ý của tiếng Phạn, tức
[lạc-xoa (lakṣa)] có nghĩa là “nhất kiến” (vừa trông
thấy), [hàm nghĩa] “giữ cho cái tâm trụ trong cảnh ấy, một
duyên bất loạn, từng chữ tương ứng, từng câu cũng tương ứng”. Tưởng
mỗi chữ ấy trong sáng, trắng sạch, thấu triệt như minh châu thanh tịnh. Mỗi chữ
lại đều rõ rệt, đều có vầng sáng bao quanh trọn khắp như tràng hoa, theo thứ tự
không ngừng rót vào tâm, như tưới rảy cam lộ. Khi duyên tưởng chuyên nhất như
thế, giả sử có đủ loại chướng dấy lên, hoặc hiện ra hình tượng hết sức đáng sợ,
những kẻ tán tâm trông thấy sẽ cuồng loạn. Hoặc phát ra âm thanh to lớn, giả sử
núi chúa cũng có thể bị phá nát. Khi có các chuyện như thế, hành giả trụ trong
tâm Bồ Đề chân thật dũng kiện, nhất duyên bất động, chẳng có lấy, bỏ. Vì thế
nói là “trụ trong nhất kiến”. Nếu chẳng vậy, dẫu trải qua trăm
năm, tụng trọn ngàn vạn lạc-xoa (lạc-xoa hiểu theo nghĩa đen là “mười vạn”),
vẫn chẳng có thành tựu, huống hồ [chỉ tụng niệm] một lạc-xoa ư?
Hơn
nữa, chữ ấy chính là Bồ Đề tâm. Do mỗi chữ liền nhập môn Thật Tướng, đều đạt
được cái Thể của pháp giới. Chữ Tự như đã nói, tiếng Phạn là A Sát Lam, A có
nghĩa là “bất hoại”, tức là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Hành môn như
thế chính là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Nếu chẳng trừ cấu, Bổn Tôn tam-muội sẽ không
do đâu mà hiện tiền được! Do
vậy, hành giả khiến cho mỗi chữ đều tương ứng với Bồ Đề tâm thanh tịnh.
(Kinh)
Đệ nhị danh vi thanh, cú tưởng vi Bổn Tôn, nhi ư tự xử tác.
(經)第二名為聲,句想為本尊,而於自處作。
(Kinh:
Thứ hai chính là thanh, tưởng câu là Bổn Tôn, tự trụ để tác pháp).
Lại
nên quán tưởng âm thanh của từng chữ, từng câu chân ngôn, theo thứ tự như trên
mà liên tục xoay tròn không ngừng. Mỗi một âm thanh đều rõ ràng, như là âm
thanh của linh, khánh, gió, phạm chung (hồng chung) theo thứ tự chẳng đoạn,
nhập vào thân, trọn khắp trong cơ thể. Do nhân duyên ấy, có thể quét sạch cấu trược
trong thân tâm, như lúc lửa bốc lên, các trần đều hết sạch. Tâm cũng nên khéo
trụ trong một cảnh bất loạn. Giả sử có đủ loại cảnh giới thì cũng như trên đã
nói. Lại nữa, ý nghĩa trong mỗi câu chính là cái Thể của Bổn Tôn. Trước hết,
tưởng Bổn Tôn rõ ràng; kế đó, tự quán thân chính mình giống như Bổn Tôn, khiến
cho trong lẫn ngoài đều sáng tỏ. Quán chữ chân ngôn chính là thân chân ngôn,
quán âm thanh nơi chân ngôn chính là Chân Ngôn Chủ, ý nghĩa của mỗi câu chính
là cái Thể của chân ngôn, tức là chân ngôn tâm. Câu là chỗ quy hướng của ý
nghĩa, tức là cái tâm của Bổn Tôn. Thân, ngữ, ý thanh tịnh thì ba sự thanh tịnh
bình đẳng, ví như trong có mắt sáng, ngoài có cảnh thanh tịnh, lại chẳng có ám
chướng. Do ba sự bình đẳng, nên hiện tiền rõ rệt. Do ba sự bình đẳng, nên thân
khẩu, ý đều trụ trong “nhất kiến”. Do các duyên đầy đủ, sẽ có
niềm vui thành tựu. Ba sự ấy bình đẳng, thấy rõ Bổn Tôn, cho nên tự ở trong
ấy để tác
pháp. Lại còn chính là tự quán thân này cũng giống như Bổn Tôn, do ba sự bình
đẳng, mà gọi là “thành tựu thế gian”. Lúc bấy giờ, Bổn Tôn và
các vị Bồ Tát v.v… sẽ thuận theo tâm tưởng mà hiện, hễ nghĩ liền tới, hễ hỏi
liền đáp. Sau đấy, mới nhập hạnh Chân Ngôn, tu học xuất thế. Nếu chẳng như
vậy, sẽ uổng
phí công sức, chẳng có lợi ích gì!
(Kinh)
Đệ tam cú đương tri, tức chư Phật thắng cú, hành giả quán trụ bỉ, cực viên tịnh
nguyệt luân, ư trung đế thành tưởng, chư tự như thứ đệ.
(經)第三句當知,即諸佛勝句。行者觀住彼,極圓淨月輪,於中諦誠想,諸字如次第。
(Kinh:
Nên biết câu thứ ba, câu thù thắng chư Phật. Hành giả hãy quán trụ, vầng trăng
cực tròn sạch, tưởng chân thật, chắc chắn, các chữ theo thứ tự).
Kế
đó, hãy nên quán Phật, tức là quán Bổn Tôn. Tùy thuộc người ấy (người hành trì
chân ngôn) muốn làm chuyện gì, đều có các pháp môn cùng loại. Như sắc có trắng,
vàng, đỏ v.v…, các hình dạng ngồi, đứng, thân ấn, tùy theo chuyện muốn làm mà
tận lực quán. Như muốn [thực hiện pháp] tịch tâm tức tai, liền quán hình tượng
tức tai. Đã được thành tựu, rõ ràng vô ngại, lại tưởng vầng trăng tròn sáng, thanh
tịnh. Quán tự luân (các chữ trong chân ngôn kết thành vòng tròn) ở trong cái
tâm sáng sạch nơi luân ấy, thành tựu như trong phần trên. Đấy chính là ý nghĩa
của Bồ Đề tâm thanh tịnh vậy. Do ba nghiệp bình đẳng thanh tịnh, sẽ có thể thấy
tướng của chư Phật. Bồ Đề tâm thanh tịnh tương ứng với Niệm Phật tam-muội, sáng
suốt vô ngại, chỉ riêng tự mình hiểu rõ, người khác chẳng trông thấy! Nói “ư
trung đế thành tưởng” (tưởng chắc thật trong đó), tức là quán Bổn Tôn
và các chữ [chân ngôn] viên minh, chắc thật, rành rẽ, chẳng hề khuất lấp, mơ
hồ, thì gọi là “đế liễu phân minh”.
(Kinh)
Trung trí tự cú đẳng, nhi tưởng tịnh kỳ mạng, mạng giả sở vị phong, niệm tùy
xuất tức nhập.
(經)中置字句等,而想淨其命。命者所謂風,念隨出入息。
(Kinh:
Trong ấy, đặt chữ, câu, tưởng là thanh tịnh mạng. Mạng là nói đến gió, niệm
theo hơi hít thở).
Tức
là quán chữ, quán âm thanh, quán Bổn Tôn như trên, rồi mới quán Phật. Phật
chính là Bổn Tôn, thuận theo tất cả các duyên ấy mà quán [các điều ấy] đều là
thân phổ môn của Phật. Do vậy, chẳng có tướng khác, cùng gọi [các điều ấy (chữ
chân ngôn, âm thanh chân ngôn, Bổn Tôn)] là Phật. Trước là thực hiện ba loại
quán ấy đều phù hợp thì mới thành chủng tử. Do là chủng tử, ắt sẽ đắc quả. Kế đó, quán
Bổn Tôn vì muốn thành tựu cái quả. Như người có hạt giống, đem gieo trong ruộng
tốt, [dùng các] phương tiện vun quén, [các hạt giống ấy] sẽ kết thành quả. Vì
thế nói là “thành tựu chủng tử, đã thành cái quả của trí Nhất Thiết Trí”; do
vậy quán Phật. Khi hành giả mới quán, bỗng tạm được tương ứng, giống như tia
chớp, tạm được thấy đạo. Lúc đó, chớ nên sanh chấp trước. Như tại phương Tây,
có đệ tử của một vị A-xà-lê, khi thực hiện phép Quán này, bỗng tạm đạt được
tương ứng, sanh lòng kiêu căng, khoe với các đồng học khác. Thầy liền bảo: “Nếu
thấy pháp tức là thành tựu cái quả. Cái quả của Chân Ngôn chính là trọn đủ hết
thảy các loại huệ. Chiều hôm qua ta soạn kệ tụng, ngươi có biết hay chăng? Nếu
đối với chuyện gần như thế mà ngươi còn chưa thể thấu đạt, hãy nên biết là
ngươi chưa thể thông đạt cảnh giới của chư Phật!” Vì thế, nói đến chuyện này!
Nếu người khi thấy chữ, hiểu rõ, do tương ứng với pháp, ắt thân tâm sẽ khác. Kẻ
trước kia ngu độn, nếu đắc Tổng Trì, sẽ do nghe một câu mà thông đạt vô lượng
nghĩa thú, nói chẳng thể cùng tận! Huống hồ [kẻ tạm được tương ứng], nhưng bị
các lỗi quấy như ngã mạn
v.v… dấy động, [há có nên] sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn, chấp trước ư? Do vậy,
hành giả hãy nên lìa pháp ái như thế, chớ nên tự lui sụt!
Lại
nữa, khi hành giả quán Bổn Tôn, thoạt đầu bỗng thấy [hình tượng Bổn Tôn] diệt
mất, chớ nên yêu đắm, chấp trước, hoặc sanh tâm sầu, hối, chỉ nên nhất tâm hành
trì. Lâu dần, sẽ tự hiểu chân thật, rõ ràng. Nếu lúc thấy Bổn Tôn, các việc suy
tưởng sẽ tự nhiên thành tựu; viên quang, nguyệt luân, và các chữ [trong chân
ngôn] v.v… sẽ thuận theo ý niệm mà hiện ra rành rẽ, thấu suốt. Nếu thấy chữ thì
phía ngoài chữ đều có quang minh chói ngời, ví như ngọn lửa sáng sạch khôn
sánh. Hoặc quán tự luân như trong phần trước đã nói, trên luân cũng có quang minh,
tùy tâm thành tựu. Cho đến quán sự viên minh ấy, muốn nhỏ liền hiện nhỏ, muốn
lớn bèn hiện lớn, cho đến trọn khắp mười phương cõi Phật, thảy đều trọn khắp!
Hoặc muốn trông thấy vô lượng vô số sắc tướng, ngôn ngữ diễn nói bí tạng, các
chuyện thần thông của mười phương chư Phật, đều được thấy rõ. Ví như người thợ
vàng tài khéo, có được vàng ròng tốt đẹp, tinh luyện trăm lần, [vàng sẽ] thanh
tịnh nhu nhuyễn, vô cấu, tùy ý tạo tác, tùy tâm mà thành, hết thảy vô ngại. Đó
gọi là cái quả của trì tụng.
Lại
nữa, nói “xuất nhập tức” chính là như hơi thở của người đời,
lọt vào thân rồi lại thoát ra, thoát ra rồi lại trở vào, chẳng có đoạn tuyệt,
gián đoạn chút nào. Người ấy quán thấy tự luân viên minh cũng giống như thế, từ
tâm của Bổn Tôn trong mỗi niệm đều tuôn nhập vào thân hành giả như hít vào. Lại
từ thân tâm của người ấy, trong mỗi niệm mà thoát ra, nhập vào tâm của Bổn Tôn.
Tâm trong mỗi niệm đều chẳng gián đoạn giống như thở ra. Mỗi niệm đều giáp vòng
như thế vô cùng; đó chính là hành nhân Chân Ngôn thở ra hít vào vậy. Thở ra hít
vào như thế, tưới rót thân tâm, tịnh trừ các cấu uế, dần dần đạt được các căn
thanh tịnh. Lại tùy theo từng sự mà quán màu sắc của các chủng tử trong tự
luân, như Tức Tai là sắc trắng, Hàng Phục thì có các màu như xanh hoặc đen v.v…
Có thể suy ra mà biết! Làm như thế thì cũng có thể tùy tâm hoàn thành các
sự. Trong kinh lại nói: “Mạng giả sở vị phong” (mạng được gọi
là phong). “Phong” tức là tưởng, là niệm. Tưởng mạng căn hít
vào, thở ra như thế, tuy tịnh diệu, vẫn là do tưởng gió mà thành, cũng phải nên
tịnh hóa.
(Kinh)
Bỉ đẳng tịnh trừ dĩ, tác tiên trì tụng pháp. Thiện trụ chân ngôn giả, thứ nhất
nguyệt niệm tụng. Hành giả tiền phương tiện, nhất nhất cú thông đạt.
(經)彼等淨除已,作先持誦法,善住真言者,次一月念誦,行者前方便,一一句通達。
(Kinh:
Trừ sạch các thứ ấy, trước làm pháp trì tụng. Người khéo trụ Chân Ngôn, tụng niệm một tháng nữa.
Mỗi câu tiền phương tiện, hành giả đều thông đạt).
Nói
đến chuyện đã tịnh
trừ các thứ ấy xong, trước hết, hãy nên nói đến chữ A trong pháp trì tụng, vì
hết thảy các chủng tử đều sanh từ chữ A. Nếu quán tướng chủng tử, thì tức là
chẳng quán chữ A. Nếu cùng quán, sẽ chính là có hai tướng. Do vậy, chỉ quán chữ
A, sẽ là hết thảy các chủng tử, vì hết thảy các pháp chẳng ra ngoài môn chữ A.
Ở đây có nghĩa là: Trước hết, quán biệt tướng của chủng tử. Kế đó đến đây, mỗi
mỗi đều cần phải nhập vào môn chữ A. Nếu nhập môn chữ A, sẽ thấy “lý
thể vốn bất sanh”. Đã thấy như thế rồi, tức là ba nghiệp đều thông. Do
thân thông, thấy trọn khắp các sắc thân, tùy loại thấy trọn khắp các thân ưa
thấy. Do ngữ thông, có thể dùng một âm thanh mà thấu tới trọn khắp mười phương cõi
Phật, cũng có thể ứng trọn khắp ngôn ngữ sai biệt của hết thảy chúng sanh. Do
tâm thông, cho đến hết thảy động niệm, hý luận dấy lên trong tâm của hết thảy
chúng sanh, không gì chẳng biết rõ, mà cũng có thể biết chuyện bí mật của các
Như Lai, tức là sáu
căn rốt ráo thanh tịnh, thành tựu Chủng Trí. Hành giả tu Chân Ngôn trước hết
vâng làm một tháng niệm tụng, tức là trong vòng một tháng, trước hết hãy nên
quán như trên đây.
Lại
giải thích theo ý nghĩa bí mật, thì một năm do mười hai tháng mà thành, trở lại Bổn Tế để thấu đạt cái cội nguồn. Cũng như mười
hai địa vị Bồ Tát, tức là sự giác ngộ của Thập Trụ, Đẳng Giác, Diệu Giác, ví
như mười hai tháng. Do vậy, ở đây [kinh văn nói] “trong một tháng” chính
là “nhập địa vị Sơ Trụ”. Đối với mỗi một câu, chữ, hoặc Bổn
Tôn, đều hiểu chắc thật, thành tựu chẳng có chướng cấu. Vì thế nói là “mỗi
câu đều tương ứng”.
“Hành
giả tiền phương tiện”: Khi quán hạnh như thế, nếu dùng một bông hoa dâng
Phật, chí tâm hồi hướng, nguyện hiểu thông đạt mỗi câu, và câu “hoa hiến
thập phương nhất thiết Phật sát độ, phổ tác Phật sự” (hoa dâng lên hết
thảy các cõi Phật trong mười phương, làm Phật sự trọn khắp) trong kinh văn
thuộc phần sau, lúc bấy giờ, vừa niệm liền thành. Cho tới các chuyện như hương,
thức ăn v.v… mỗi mỗi đều nói rộng như thế. Giả sử trời hạn hán nặng, hoặc có đủ
loại tai ương, hoạn nạn, lúc bấy giờ, hành nhân
dùng một đóa hoa để cúng dường, nguyện trừ nạn hạn hán ấy, xối cơn mưa to, hoặc
nguyện các tai ương tự dứt, không gì chẳng ngay lập tức thành tựu. Lại đem mỗi
một công đức ấy hồi hướng Bồ Đề, thí trọn khắp hết thảy chúng sanh. Đại nguyện
Bồ Đề như thế cũng sẽ thành tựu, huống hồ các chuyện khác! Trong phần trước
nói “một tháng” tức là tâm tương ứng với một cảnh.
“Nhất
nhất cú thông đạt” (mỗi câu đều thông đạt), tức là quán tự luân, quán
thanh luân (âm thanh của câu chân ngôn liên tiếp xoay vần không gián đoạn),
chủng tử của Bổn Tôn, mỗi mỗi đều hiện tiền rành rẽ, chẳng có sai lầm, thì gọi
là “nhất nhất cú thông đạt”. Trước hết, quán Phật thành tựu, liền
thấy viên minh. Hễ thành tựu một thứ, các thứ khác đều thành tựu. Tức là khi
quán Bổn Tôn rành rẽ, các tướng như tự luân viên minh v.v… sẽ tự nhiên thành
tựu. “Nguyệt” ở đây chính là Nguyệt Dụ tam-muội, pháp tánh
thanh lương có thể hiện trọn khắp trong tâm thủy của chúng sanh, chẳng phải như
vầng trăng thế gian, chỉ là mượn nó (vầng trăng trong thế gian) để sánh ví cái tâm
đó thôi. Chỉ cần thành
một sự, những chuyện khác đều thành, nhưng sở dĩ nói trọn hết là vì mỗi điều sẽ
đều có tác dụng trong kinh văn thuộc phần sau. Vì thế, nói trọn vẹn tác dụng
của pháp quán mặt trăng.
(Kinh)
Chư Phật đại danh xưng, thuyết thử tiên thọ trì. Thứ đương tùy sở hữu, phụng đồ
hương, hoa đẳng, vị thành Chánh Giác cố, hồi hướng tự Bồ Đề. Như thị ư lưỡng
nguyệt, chân ngôn đương vô úy. Thứ mãn thử nguyệt dĩ, hành
giả nhập trì tụng.
(經)諸佛大名稱,說此先受持。次當隨所有,奉塗香花等,為成正覺故,迴向自菩提。如是於兩月,真言當無畏。次滿此月已,行者入持誦。
(Kinh:
Chư Phật danh xưng lớn, bèn nói thọ trì trước. Kế đó, tùy sức có, dâng hương
bôi, hoa thảy. Vì để thành Chánh Giác, hồi hướng tự Bồ Đề. Như thế trong hai
tháng, chân ngôn sẽ vô úy. Mãn tháng kế tiếp rồi, hành
giả liền trì tụng).
“Chư
Phật đại danh xưng, thuyết thử tiên thọ trì” (Nói danh xưng to
lớn của chư Phật là điều nên thọ trì trước hết), tức là chủng tử thành tựu tối
sơ. “Thứ đương tùy sở hữu, phụng đồ hương, hoa đẳng” (kế đó,
tùy theo những gì mình có mà dâng hiến hương bôi, hoa v.v…) tức là có thể dùng
một hoa để [dâng cúng] trọn khắp pháp giới, cho đến do nhân duyên nguyện lực,
có thể trừ các thứ khổ não của chúng sanh như phẩm Phổ Môn đã nói. Há có phải
là do một hoa mà có thể thành tựu nguyện lực như thế ư? “Vị thành Chánh
Giác cố, hồi hướng tự Bồ Đề” (Vì để thành Chánh Giác mà hồi hướng Bồ
Đề của chính mình): Hãy nên biết đấy chính là chủng tử của Bồ Đề trong tự tâm
sáng sạch, hiển hiện lực dụng tự tại. Kế đó là giải thích ý nghĩa sâu xa trong
hai chữ ấy. “Như thị ư lưỡng nguyệt, chân ngôn đương vô úy” (Hãy
nên trong hai tháng, mà hành chân ngôn vô úy như thế đó) tức là nói
đến ý nghĩa Tất Địa. Đây chính là tác dụng to lớn trong tháng thứ hai. Tháng
thứ nhất là thành tựu chủng tử. Tháng thứ hai là thành tựu địa vị. Kế đó, trọn
hết tháng ấy rồi, sẽ hoặc là thành tựu hạnh thế gian, tiến nhập trì tụng. Nếu nói
theo thành tựu thế gian thì chính là tháng thứ nhất trì tụng; tháng kế đó, đạt được thành tựu trong
pháp thế gian, tức là được thành tựu các pháp nơi dược vật, có thể đạt được Văn
Trì “hễ nghe bèn chẳng quên”, cho đến lực, thần thông, minh
hạnh đều được khéo
thành tựu, được tự tại nơi Đại Không. Nếu nói theo nghĩa xuất thế, tức là khi
thành tựu pháp ấy, sẽ có thể mãn hết thảy các nguyện.
(Kinh)
Sơn phong hoặc ngưu lan, cập chư hà than đẳng, tứ cù đạo, nhất thất, thần
thất, đại thiên thất, bỉ mạn-đồ-la xứ, tất như kim cang cung. Thị xứ nhi kết hộ, hành giả tác thành tựu.
(經)山峯或牛欄,及諸河潬等,四衢道一室,神室大天室彼漫荼羅處,悉如金剛宮。是處而結護,行者作成就。
(Kinh:
Đỉnh núi hoặc chuồng bò, và các bến sông thảy, đường ngã tư, một thất, miếu
thần, miếu đại thiên, nơi mạn-đồ-la ấy, đều như cung kim cang. Kết hộ các nơi ấy, hành
giả làm thành tựu).
Nói “sơn
phong, ngưu lan” (đỉnh núi, chuồng bò) có nghĩa là Quán. Khi thực hiện
thành tựu, sẽ như ở trên núi,
chính là tương ứng với núi Trung Đạo. Mỗi mỗi sự đều tương ứng với Lý.
Nói “bất động danh sơn” (bất động gọi là núi) tức là [nói về]
đại Bồ Đề tâm. Do là chỗ cùng tột trong Bồ Đề tâm ấy, nên gọi là “sơn
phong” (đỉnh núi). Như người lên núi, nhìn xuống vạn vật, không gì
chẳng thấy rõ ràng. Núi pháp tánh ấy cũng thế, [từ trên núi ấy] nhìn xuống pháp
giới, sẽ chiếu trọn khắp vô ngại! “Ngưu lan” (chuồng bò): Bò
sanh ra năm thứ tịnh[1], có thể khử uế, trừ chướng, thành
tựu chuyện thanh tịnh. Do được trưởng dưỡng bởi chất tịnh của bò, cỏ mịn tươi
tốt, tự nhiên sum suê. Chuồng bò trong Bồ Đề tâm cũng thế, có thể ngăn ngừa các
lỗi phân biệt, vọng tưởng, tịnh hóa các tâm địa, dùng nước đại bi rưới đất bình
đẳng, sanh khởi công đức tùy ý trưởng thành. Ý nghĩa của hai con sông như đã nói trong
phần trước. “Hai con sông” nghĩa là tuôn chảy chẳng
dứt; đó là dòng sanh tử. Lại còn là tâm tâm tịch diệt, đổ vào biển cả pháp
tánh; tức dòng xuất thế. Ở giữa đó, chính
là cảnh Trung Đạo diệu trụ, kham tạo ra sự thành tựu nhiệm mầu. Nói “tứ
đạo trung” (tức “tứ cù đạo” trong chánh kinh) chính
là Tứ Thánh Đế Trung Đạo. “Nhất thất” tức là trừ phân biệt đối
với các cảnh, thuộc về hạnh Như Như, coi đó là “thất”. “Đại thiên thất” (miếu
thờ đại thiên) chính là Niết Bàn thất, được thành tựu bởi sức tự tại của Bồ Đề.
Nếu chẳng nhập “đại thiên thất” như thế, sao có thể thành tựu
sức tự tại cho được? Ý nghĩa của Mạn-đồ-la như đã nói trong phần trước. “Tứ
giác” là làm hình tượng của chày kim cang ba nhánh, [xếp đặt sao cho
các chày ấy] tiếp giáp nhau vây quanh, [thì
khoảng không gian trong vòng chày kim cang ấy được] gọi là “kim cang
cung”.
Nếu
nói theo ý nghĩa bí mật, đấy chính là đại trí không ai có thể phá hoại. Do dùng kim
cang diệu trí ấy để kết thành kim cang giới, thủ hộ Bồ Đề tâm, các việc làm đều
hoàn thành. “Tác hộ” (thực hiện sự thủ hộ) chính là dùng minh
chú Hàng Phục Tam Thế và minh chú Bất Động để thủ hộ các sự. Nếu nói theo Lý,
Hàng Phục Tam Thế và Bất
Động Minh Vương tức là đại Bồ Đề tâm, kham có thể thủ hộ hết thảy chúng sanh,
khiến cho thiện căn của họ tự tại thành tựu.
“Sức
dược vật thành tựu” tức là không thanh[2], dầu tô, ngưu hoàng v.v… tùy theo
việc mà thực hiện [pháp thành tựu] như các chỗ khác (các kinh luận khác) đã
nói. Nói theo Lý thì chính là thân khẩu ý thành tựu. Đó gọi là “tạng tam nghiệp vô tận trang nghiêm phấn
tấn thị hiện”, thành
tựu pháp giới chúng sanh. Phật pháp vốn dĩ trước là thành tựu nơi Sự; sau đấy
mới dùng tịnh huệ Đại Không để quán sát, tức là thành tựu xuất thế.
(Kinh)
Tức dĩ trung dạ phần, hoặc ư nhật xuất thời, trí giả ưng đương tri, hữu như thị
tướng hiện, Hồng thanh hoặc cổ âm. Nhược phục địa chấn
động, cập văn hư không trung, hữu duyệt ý ngôn từ. Ưng tri như thị tướng, Tất
Địa tổng như ý. Chư Phật lưỡng túc tôn, tuyên thuyết ư bỉ quả, trụ thị Chân
Ngôn hạnh, tất định đương thành Phật. Ưng nhất thiết chủng loại, thường niệm
trì Chân Ngôn, cổ Phật đại tiên thuyết, cố ưng đương ức niệm.
(經)即以中夜分,或於日出時,智者應當知,有如是相現,吽聲或鼓音,若復地震動,及聞虛空中,有悅意言辭,應知如是相,悉地總如意。諸佛兩足尊,宣說於彼果,住是真言行,必定當成佛,應一切種類,常念持真言,古佛大仙說,故應當憶念。
(Kinh:
Liền vào lúc giữa đêm, hoặc khi mặt trời mọc. Bậc trí hãy nên biết, có tướng
như sau hiện: Tiếng Hồng, hoặc tiếng trống. Hoặc đất lại chấn động, và nghe
trong hư không, có ngôn từ đẹp ý. Nên biết tướng như thế, Tất Địa được như ý.
Chư Phật Lưỡng Túc Tôn, tuyên nói cái quả ấy. Trụ hạnh Chân
Ngôn này, nhất định sẽ thành Phật. Hết thảy các chủng loại, nên thường trì chân
ngôn, cổ Phật đại tiên nói. Vì thế nên nghĩ nhớ).
Khi
dược vật và tâm thành tựu, sẽ có tướng thượng, trung, hạ. Khi mặt trời mọc là
thượng, nửa đêm là trung, đầu đêm là hạ. Trong lúc ấy nếu có tướng, hãy nên
biết tùy theo từng sự mà biết là thành tựu thượng, trung, hay hạ. “Đầu đêm” có
nghĩa là “mới nhập, chưa chứng”. Nửa đêm có nghĩa là Bồ Đề tâm, tức từ nay do
trái nghịch sự tối tăm, hướng theo sáng suốt, nhưng vẫn chưa là đại minh. Tới khi mặt trời mọc là tướng
thành tựu, ví như vầng mặt trời to lớn chiếu trọn khắp thế gian. Trong lúc đó,
hoặc có âm thanh chữ Hồng, hoặc đủ loại tiếng trống, hoặc đất chấn động mạnh
mẽ, hoặc nghe các thứ âm thanh mầu nhiệm, [thấy] đủ loại tướng mầu nhiệm mà mọi người thích
nghe, tâm ý vui sướng, hoặc trên không trung, hoặc ở trong đàn tràng. Nếu có
các tướng ấy, hãy nên biết đó là Tất Địa thế gian thành tựu. Nếu nói theo Lý,
chỗ mỗi một pháp kết hợp đạt được cái quả, tức là cái quả tam thừa. Hoặc chuyển
pháp luân, đạt được thế lực to lớn, cho đến trường thọ, thọ lượng vô số, tiến
cao hơn là du hành trên hư không, tịnh nhãn soi sáng. Đã thanh tịnh
thì vô ngại tịnh tâm là trí huệ trọn khắp. Tới đây là xong phẩm Thành Tựu Thế
Gian.
6. Phẩm thứ sáu: Tất Địa xuất hiện (Tất Địa
xuất hiện phẩm đệ lục, 悉地出現品第六)
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục quán chư đại chúng hội, vị dục mãn túc nhất thiết nguyện
cố, phục thuyết tam thế vô lượng môn quyết định trí viên mãn pháp cú.
(經)爾時世尊復觀諸大眾會,為欲滿足一切願故,復說三世無量門決定智圓滿法句:
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn lại quán các đại chúng hội, vì muốn thỏa mãn hết thảy các
nguyện, lại nói pháp cú viên mãn “trí quyết định trong vô lượng môn khắp ba
đời”).
Quán
sát đại chúng chẳng phải là không có nhân duyên. Trước hết, dùng Phật tâm để
quán chủng tử, tướng mạo, và thể tánh của các chúng sanh ấy kham tiếp nhận pháp
nào, nên gieo như thế nào để họ đạt được lợi ích. Quán như thế xong, sẽ
biết họ sẽ từ nơi pháp
môn nào mà được ngộ
nhập. Vì muốn nói điều này, cho nên trước hết [đức Phật] bèn quán cơ (xem xét
căn cơ). Vô lượng trí môn quyết định trong ba đời, tức là trong một niệm, vô
lượng trí môn vô ngại trọn ba đời. Đức Phật dùng đủ loại phương tiện để nói
diệu pháp ấy, hết thảy chúng sanh ai nấy tùy theo trí môn tương ứng mà đạt được
quyết định. Do các môn ấy vô lượng; cho nên nói là “vô lượng môn”. Đức
Phật quán đại chúng hội, vì họ nói môn “tiến nhập phổ môn pháp giới” này,
muốn cho ai nấy tùy theo cái duyên của chính họ mà đạt được quyết định, nên gọi
là “quyết định trí môn”. “Pháp cú” là trước hết vận dụng Sự,
từ Sự có thể sanh ra Lý. Vì thế, gọi là Cú (câu), tức Cú chính là cái để Kệ
nương vào. Cách thành lập các câu kệ trong thế gian là dùng danh tự để
nói. “Mãn túc”: Nhập pháp môn này, có
thể sanh ra pháp môn, có thể sanh ra pháp giới vô tướng là pháp bí mật do Như
Lai tự chứng; muốn dùng pháp như thế để thỏa mãn [ước nguyện của] hết thảy
chúng sanh, khiến cho chẳng luống uổng. “Cú” ở đây chính là kệ[3], đừng hiểu là từng câu. Trong phần
sau, sẽ coi “nghĩa” (tức ý nghĩa trong một bài kệ) là câu kệ.
(Kinh)
Hư không vô cấu, vô tự tánh, năng thọ chủng chủng chư xảo trí.
(經)虛空無垢無自性,能授種種諸巧智。
(Kinh:
Hư không vô cấu, vô tự tánh, hay trao các thứ trí thiện xảo).
Tâm
trí Nhất Thiết Trí giống như hư không, vô cấu, vô lượng, vô ngại, chẳng có phân
biệt, tức là pháp hiện chứng Đại Không của Phật. “Vô tự tánh” tức
là pháp giới thanh tịnh ấy vô cấu như hư không, cũng lại chẳng có tự tánh,
chẳng thể chấp trước! Do như thế chính là Đại Không, vô vi cũng là vô tự tánh,
có thể sanh ra trí Nhất Thiết Trí, tức là “xảo trí”; đó là tên
gọi khác của trí. Nếu chẳng phải là xảo trí, sao có thể thuận theo đủ loại tâm
hạnh của hết thảy chúng sanh, hiện thân mà họ thích thấy, nói pháp họ đáng nên
nghe, tương xứng với căn cơ lãnh ngộ của họ, thảy đều chẳng dối, vào trong hết
thảy pháp giới bình đẳng, tức là tột bậc hay khéo trong các thứ khéo léo. Do
bình đẳng Không cũng là vô tự tánh, hữu tướng sanh diệt cũng lại chẳng có tự
tánh. Vì
thế, trong pháp tự tại có thể sanh ra xảo trí, thỏa nguyện trọn khắp hết thảy chúng
sanh, độ lượng chẳng thể nghĩ bàn.
(Kinh)
Do bổn tự tánh thường Không cố, duyên khởi thậm thâm nan khả kiến.
(經)由本自性常空故,緣起甚深難可見。
(Kinh:
Do bổn tự tánh thường là Không, duyên khởi rất sâu khó thể thấy).
Đây
chính là tự tánh của “bất khả đắc Không”, tức là thân đệ nhất
thường trụ của Pháp Thân Phật, do lìa tám tướng điên đảo như không, phi không
v.v… Đấy chính là pháp rất sâu khởi lên từ các duyên, vô vi, vô tác, mà có thể
chẳng động pháp giới, ứng trọn khắp chúng sanh. Cơ và ứng tương quan như vầng
trăng hiện nơi nước trong. Pháp duyên khởi như thế chẳng thể nghĩ bàn! (Tự tánh
của Không là thường có, chẳng phải là trước không mà nay có. Đã có rồi lại
không. Vì thế, nói là bản tánh của Không là như thế đó).
(Kinh)
Ư trường hằng thời thù thắng tấn, tùy niệm thí dữ vô thượng quả.
(經)於長恒時殊勝進,隨念施與無上果。
(Kinh:
Tinh tấn lâu dài hành thù thắng, tùy niệm ban cho quả vô thượng).
“Hằng” tức
là thường tu pháp hạnh như thế, cho đến Đại Không cũng chẳng thể được, vì vô tự
tánh. Ví như Đại Không có thể sanh khởi vạn hạnh, đối với hạnh pháp giới bình
đẳng rất sâu này, nếu hành giả có thể thường hành như thế, sẽ có thể tùy thuận
thỏa mãn các điều mong nguyện của chúng sanh, cho đến vô thượng đại nguyện cũng
có thể ban cho họ.
(Kinh)
Thí như nhất thiết thú cung thất, giai y hư không vô trước hạnh. Thử thanh tịnh
pháp diệc như thị, tam hữu vô dư thanh tịnh sanh.
(經)譬如一切趣宮室,皆依虛空無著行。此清淨法亦如是,三有無餘清淨生。
(Kinh:
Ví như hết thảy các cung điện, đều nương hư không, hạnh chẳng chấp. Pháp thanh
tịnh này cũng như thế, ba cõi chẳng còn, thanh tịnh sanh).
“Thí
như nhất thiết thú cung thất, giai y hư không vô trước hạnh” (Ví như
cung điện, nhà cửa trong hết thảy các đường [thọ sanh], đều nương vào hư không
[để tồn tại, nhưng hư không và các thứ nương vào nó để tồn tại] đều chẳng sanh
chấp trước): Sợ người khác chẳng tin hiểu, bèn dẫn thí dụ để sánh ví. Như hết
thảy thế gian đều nương vào hư không để an trụ, nhưng Đại Không chẳng nương vào
đâu, chẳng nghĩ thế này: “Hết thảy thế gian do ta mà sanh, nương vào ta mà
trụ”. Thế gian này ở trong hư không cũng chẳng nghĩ tới ân đức [của hư không]
để cầu báo đáp, chẳng khởi ý niệm như thế này: “Do sức của hư không khiến
cho ta được an ổn như thế”. Vì sao vậy? Do chẳng thấy hư không có hạnh tạo tác,
nên chẳng nghĩ báo đáp. Kế đó nói: “Thử thanh tịnh pháp diệc như thị,
tam hữu vô dư thanh tịnh sanh” (pháp thanh tịnh này cũng như thế, do
chướng ngại trong ba cõi chẳng còn thừa sót nên thanh tịnh sanh khởi): Nói gộp
chung với cái hạnh đã nói trong đoạn trước “cũng giống như hư không” (tức
hạnh “pháp giới bình đẳng”), trừ chướng trong ba cõi chẳng còn thừa sót,
có thể sanh ra pháp thanh tịnh, sanh khởi thân mầu nhiệm thanh tịnh tương xứng
với pháp tánh.
(Kinh)
Tích Thắng Sanh Nghiêm tu thử cố, đắc hữu nhất thiết Như Lai hạnh.
(經)昔勝生嚴修此故,得有一切如來行。
(Kinh:
Xưa Thắng Sanh Nghiêm tu hạnh này, đạt được hết thảy Như Lai hạnh).
Lại
dẫn chuyện xưa để làm chứng. Thắng Sanh tức là Tiên Sanh. Tiên Sanh tức là
người giác ngộ pháp này trước. Nếu giác ngộ pháp này thì chính là vô tận trang
nghiêm, tức tạng diệu nghiêm định huệ thần lực trang nghiêm vô tận. [Hai câu kệ
trên đây có] ý nói: Trong quá khứ, có một vị Bồ Tát tên là Thắng Sanh Nghiêm.
Đây chính là một vị Phật Tử, tức là người tu hành trước kia, như nói Tiên Sanh
vậy. Tiếng Phạn là Tỵ Bộ. [Do vị ấy tu hành hạnh này], chẳng lâu sau bèn trọn
đủ các thứ của cải, tức là pháp tài. Đấy chính là dùng đức để trang nghiêm cái
thân. Vị tiên giác ấy đã từng đạt được pháp như thế, hết thảy chư Phật cũng đều
đạt được pháp ấy.
(Kinh)
Phi tha cú hữu nan khả đắc, tác thế biến minh như Thế Tôn, thuyết cực thanh
tịnh tu hành pháp, thâm quảng vô tận ly phân biệt.
(經)非他句有難可得,作世遍明如世尊,說極清淨修行法,深廣無盡離分別。
(Kinh:
Chẳng do câu khác mà hiện hữu, cái quả pháp giới rất khó được, soi khắp cõi đời
như Thế Tôn, nói pháp tu hành cực thanh tịnh, sâu rộng vô tận, lìa phân biệt).
Ý
nói: Nếu lìa pháp này mà có thể do pháp cú khác bèn được thành tựu cái quả pháp
giới chẳng thể nghĩ bàn như thế, chẳng có lẽ ấy! Giả sử cầu trong ấy, cũng
chẳng có lẽ nào đạt được! Như cầu dầu ở trong nước, chẳng thể được! Nếu ai có
thể tự chứng điều này chẳng phải gì khác, chẳng do pháp nào khác mà ngộ, liền
có thể chiếu sáng thế gian giống như mặt trời soi chiếu. Cũng như khi đức Phật
xuất thế, đã tạo sự sáng suốt to lớn cho khắp hết thảy thế gian vô minh. “Thuyết
cực thanh tịnh tu hành pháp, thâm quảng vô tận ly phân biệt” [nghĩa
là] đức Phật nói pháp tự chứng cực thanh tịnh, vô phân biệt, lìa phân biệt rất
sâu. Pháp ấy rộng sâu, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể phá hoại, chẳng có cùng
tận. Đấy là ý nghĩa tán thán công đức của pháp vậy.
(Kinh)
Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn thuyết thử già-đà dĩ, quán sát Kim Cang Thủ đẳng
nhất thiết đại chúng, cáo Chấp Kim Cang ngôn: - Thiện nam tử! Các các đương
hiện pháp giới thần lực Tất Địa lưu xuất cú. Nhược chư chúng sanh kiến như thị
pháp, hoan hỷ dũng dược, đắc an lạc trụ.
(經)爾時毘盧遮那世尊說此伽陀已,觀察金剛手等一切大眾,告執金剛言:善男子!各各當現法界神力悉地流出句。若諸眾生見如是法,歡喜踊躍得安樂住。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn nói già-đà ấy xong, quán sát hết thảy đại
chúng như Kim Cang Thủ v.v… bảo Chấp Kim Cang rằng: - Thiện nam tử! Mỗi người
hãy nên hiện câu pháp giới thần lực lưu xuất Tất Địa. Nếu các chúng sanh thấy
pháp như thế, sẽ hoan hỷ, hớn hở, được trụ trong an lạc).
“Thần
lực” cũng là vận dụng thần biến. “Thần biến” ở đây
hiểu theo nghĩa rộng: Từ một mà đạt được nhiều. Đức Phật quán đại chúng chẳng
phải là không có nhân duyên, [Ngài quán sát đại chúng trong hội] vì muốn khiến
cho họ ai nấy đều nói câu [diễn giải] Tất Địa được lưu xuất từ sức thần thông
tự tại thuộc pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Sự lưu xuất ấy được gọi là Môn. Do
[chữ Môn trong] tiếng Phạn bao hàm nhiều nghĩa, nay ý nghĩa ở đây là “lưu
xuất”, tức là Phật tâm tự chứng pháp giới, lưu xuất vô lượng môn xảo
trí. Có nghĩa là mỗi vị Bồ Tát hoặc Kim Cang đều là mỗi đức nội chứng của Như
Lai. Từ đó hiện ra pháp môn, mỗi môn đều có truyền pháp, nhiếp thọ chúng sanh,
dẫn dắt một loại chúng sanh ấy do môn ấy mà tiến nhập, đạt đến địa vị chứng trí
Nhất Thiết Trí. Ý Phật muốn khiến cho các vị ấy ai nấy đều nói môn nhập Thật
Tướng. Nếu có chúng sanh tương xứng căn tánh ấy, sẽ sanh lòng vui thích, phát
khởi thiện căn; tức là từ môn này mà thành tựu hạnh thù thắng, trụ trong hạnh
an lạc của Như Lai.
(Kinh)
Như thị thuyết dĩ, chư Chấp Kim Cang vị Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn tác lễ: “Như thị,
pháp chủ! Y sở giáo sắc”. Phục thỉnh Phật ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn ngã
đẳng, thị hiện Tất Địa lưu xuất cú, hà dĩ cố? Ư tôn giả Bạc Già Phạm tiền, nhi
tự tuyên thị sở thông đạt pháp, phi thị sở nghi. Thiện tai Thế Tôn! Duy nguyện
lợi ích an lạc vị lai chúng sanh cố”.
(經)如是說已,諸執金剛為毘盧遮那世尊作禮:如是。法主!依所教勅。復請佛言:惟願世尊哀愍我等,示現悉地流出句。何以故?於尊者薄伽梵前而自宣示所通達法,非是所宜。善哉世尊!惟願利益安樂未來眾生故。
(Kinh:
Nói như thế xong, các vị Chấp Kim Cang đảnh lễ đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn: “Thưa
pháp chủ, đúng như thế! Chúng con kính vâng lời truyền dạy”. Lại thỉnh đức Phật
rằng: “Kính xin đức Thế Tôn thương xót chúng con, thị hiện câu lưu xuất từ Tất
Địa. Vì sao vậy? Đối trước đức Bạc Già Phạm tôn kính mà tự tuyên nói, chỉ bày
pháp do chính mình thông đạt thì chẳng phải là điều hợp lẽ. Lành thay đức Thế
Tôn! Kính mong hãy lợi ích, an lạc chúng sanh trong đời vị lai”).
Khi
đó, các vị Chấp Kim Cang đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, thưa: “Như thị pháp
chủ! Y sở giáo sắc”, tức là tuân theo mệnh lệnh của đức Phật, chẳng dám
trái nghịch. Nhưng Như Lai là pháp chủ, nếu ai nấy đối trước đức pháp chủ mà
nói sai khác, thì là điều chẳng nên. Do vậy, thỉnh đức Phật tự nói để hết thảy
mọi người được nghe. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn! Chúng con đối trước đức Thế Tôn
nói pháp do chính mình thông đạt chẳng phải là điều đáng nên. Đó là lời đáp.
Khi đó, các vị Kim Cang lại thỉnh đức Phật rằng: “Kính mong đức Thế Tôn thương
xót chúng con, thị hiện câu lưu xuất từ Tất Địa. Vì lẽ nào? Đối trước đức Thế
Tôn đáng tôn trọng mà tự tuyên nói, chỉ bày pháp do chính mình thông đạt, chẳng
phải là điều đáng nên”. Điều này có ý nghĩa như thế nào? Như Lai pháp vương tôn
quý, thù thắng vô thượng đã hiện tiền thông đạt pháp này, thấy thấu suốt rõ
ràng chẳng thừa sót. Chúng con do ân lực của Phật, đều từ một môn, thuận theo
tâm lượng của chính mình mà được thông đạt. Nếu chúng con đối trước bậc đại
pháp chủ như thế mà tự xưng nói thì chẳng đúng lẽ! Đấy là ý hổ thẹn, khiêm
nhượng vậy. [Các vị Kim Cang] trần thuật ý nghĩa như thế, nguyện Phật hãy tự
nói. Vì lẽ nào vậy? Vì chúng sanh trong đời vị lai gặp được pháp này, sẽ đạt
được lợi ích to lớn, khai tri kiến của Phật, mau chóng thực hiện hoàn thành
hạnh an lạc của Như Lai.
(Kinh)
Thời Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na cáo nhất thiết chư Chấp Kim Cang ngôn: - Thiện
tai, thiện tai, thiện nam tử! Như Lai sở thuyết pháp Tỳ Nại Da xưng tán nhất
pháp, sở vị hữu tu. Nhược hữu tu thiện nam tử, thiện nữ nhân, kiến như thị
pháp, tốc sanh nhị sự, vị bất tác sở bất ưng tác, chúng sở xưng tán.
(經)時薄伽梵毘盧遮那告一切諸執金剛言:善哉善哉!善男子!如來所說法毘柰耶稱讚一法,所謂有羞。若有羞善男子善女人,見如是法速生二事,謂不作所不應作、眾所稱讚。
(Kinh:
Khi đó, đức Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na bảo hết thảy các vị Chấp Kim Cang rằng: -
Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Trong pháp Tỳ Nại Da do Như Lai nói, đã
khen ngợi một pháp, chính là “có hổ thẹn”. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân có
lòng hổ thẹn, thấy pháp như thế, sẽ nhanh chóng sanh khởi hai chuyện, tức là
chẳng làm chuyện không nên làm, và được đại chúng khen ngợi).
Ý
đức Phật là ca ngợi: Các vị thiện sĩ ấy tuy đã khéo thông đạt pháp môn mà họ đã
nhập, nhưng do kính ngưỡng Như Lai mà sanh lòng hổ thẹn, chẳng dám trần thuật
[pháp môn ấy]. Hãy nên biết đấy là tướng trạng của bậc thiện sĩ, nên [đức Phật]
bảo “Lành thay! Lành thay!” Kế đó, [đức Phật] liền dùng ngay điều các vị ấy đã
làm để tiếp dẫn, cho nên nói “trong luật thuộc về pháp do đức Như Lai đã dạy,
chỉ thường khen ngợi một pháp, tức là hổ thẹn”. Trong tiếng Phạn, [“hổ thẹn”
(Lajja)] khác với “tàm
quý” (Hrīapatrāpya). Giải thích tàm quý là
như thế nào? Chính là có lòng hổ thẹn. Nếu người có lòng hổ thẹn, chính là có
tàm quý. Như Lai thường khen ngợi pháp này. Nếu ai có tâm hổ thẹn, sẽ thành tựu
hạnh bí mật. Hãy nên biết đó là chỗ phát khởi dấu tích (tức là hiện ra cách
hành trì như thế để tiếp dẫn chúng sanh). Do có lòng hổ thẹn, sẽ trọn đủ hai
pháp:
-
Một là đối với các sự nghiệp chẳng nên làm, sẽ đều chẳng làm. Thế nào là “chẳng
nên làm”? Như người trong thế gian, ai nấy hãy nên quán sát chuyện chẳng nên
làm trong chủng tánh của chính mình liền chẳng dám làm; thế gian gọi [người ấy]
là người biết hổ thẹn. Nay thiện nam tử này cũng thế, tự quán sát chủng tánh
của Như Lai, biết hết thảy các ác nghiệp trong pháp ấy thảy đều chẳng nên làm.
Đấy chính là pháp thứ nhất.
-
Hai, do chẳng làm ác, sẽ được Như Lai khen ngợi. Không chỉ riêng Như Lai, mà
còn được các hàng trời, người, A Tu La, sa-môn, Bà-la-môn và đại chúng thánh
phàm trong mười phương đều thường khen ngợi, truyền nói. Đấy chính là quả báo
do chẳng làm các điều ác. Lại nữa, điều được đại chúng khen ngợi chính là “đều
hành hết thảy các điều thiện”. Do trọn đủ hết thảy các điều thiện, bèn
được đại chúng khen ngợi.
(Kinh)
Phục hữu nhị sự, vị sở vị chí linh chí, đắc dữ Phật, Bồ Tát đồng xử.
(經)復有二事,謂所未至令至,得與佛菩薩同處。
(Kinh:
Lại có hai chuyện, tức là: Khiến đạt được điều chưa đạt đến, và được ở cùng chỗ
với Phật, Bồ Tát).
Nói “khiến
cho đạt được điều chưa đạt được” chính là đạt được bến bãi có vật báu
trí Nhất Thiết Trí. Do có lòng hổ thẹn, nên có thể hành hai pháp. Do hai pháp
trên đây mà có thể đạt tới chỗ đáng nên đạt tới, trước kia chưa ngộ mà nay đắc
ngộ, trước kia chưa nghe mà nay được nghe. Đó là một pháp.
Điều
thứ hai là do đạt tới điều trước kia chưa đạt, bèn sanh trong chủng tánh của
Như Lai, ở cùng một chỗ với hết thảy Phật, Bồ Tát, thường chẳng lìa bỏ sự thắng
tấn vi diệu. Đấy chính là điều thứ hai.
(Kinh)
Phục hữu nhị sự, vị trụ Thi La, sanh ư nhân thiên.
(經)復有二事,謂住尸羅、生於人天。
(Kinh:
Lại có hai chuyện là trụ trong Thi La và sanh trong trời người).
“Trừ
nóng bức, được mát mẻ” chính là ý nghĩa của Thi La. Như người nóng
bức, nghĩ tưởng cái ao trong mát, hay căn nhà mát mẻ, kẻ khéo nhập liền lìa các
ương hoạn nhiệt não. Lại như người bệnh nhiệt được trừ bệnh nhiệt độc, thân tâm
liền mát mẻ, khéo được an vui, có ý nghĩa giống như thanh lương. Bậc Bồ Tát
tánh giới thành tựu, chẳng do [vâng giữ] giới [do đức Phật] chế định mà tùy ý
đều trọn đủ giới. Ví như biển cả, tánh nó vốn tự chẳng chứa đựng tử thi, chẳng có
người hay vật nào có thể khiến cho nó như thế, chẳng giống như giới Thanh Văn.
Pháp
thứ hai là do trọn đủ giới, thường được sanh trong trời người. Đây là nói người
chưa đạt đến địa vị đắc Pháp Thân, đời đời thường sanh trong nhân gian hay cõi trời,
được lìa chướng, thấy Phật, nghe pháp. Đấy chính là lợi ích to lớn.
(Kinh)
Thiện tai, đế thính, thiện tư niệm chi, ngã đương tuyên thuyết chân ngôn thành
tựu lưu xuất tương ứng cú. Chư lưu xuất tương ứng cú, Chân Ngôn môn tu Bồ Đề
chư Bồ Tát, tốc ư thị trung, đương đắc Chân Ngôn Tất Địa.
(經)善哉諦聽,善思念之,我當宣說真言成就流出相應句。諸流出相應句,真言門修菩提諸菩薩,速於是中當得真言悉地。
(Kinh:
Lành thay, lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy. Ta sẽ tuyên nói câu tương ứng với sự
lưu xuất bởi chân ngôn thành tựu. Do các câu lưu xuất tương ứng ấy, các vị Bồ
Tát tu Bồ Đề trong Chân Ngôn môn sẽ nhanh chóng đạt được Chân Ngôn Tất Địa
trong ấy).
Trong
từ ngữ “thiện tai” (lành thay) ở đây có hai nghĩa, tức là đức
Phật tán thán phẩm đức hiền thiện của các vị ấy, hoặc là [nói “lành thay”] để
bảo họ hãy khéo nghe. “Lưu xuất” là như đức Phật phóng quang,
trước là có chỗ phát ra, tức là các chỗ như diện môn, hào tướng (tướng bạch hào
giữa hai chân mày), đỉnh đầu v.v… Phóng ra làm Phật sự rộng khắp xong, lại trở
vào [chỗ phát ra quang minh ấy]. Sự lưu xuất này của chân ngôn cũng giống như
thế. Hãy nên biết từ chân ngôn lưu xuất chính là “lưu xuất cái quả Tất
Địa”. Chân ngôn này vốn từ công đức tự chứng của Như Lai, từ tâm địa
của đức Phật mà xuất hiện, tạo tác vô lượng pháp môn, thực hiện Phật sự to lớn.
Thực hiện Phật sự xong, khiến cho chúng sanh đáng được độ sẽ do môn ấy mà nhập
pháp giới của Phật, nên gọi là “lưu xuất”. Vì thế, kế đó
nói “do câu tương ứng ấy, các vị Bồ Tát tu Bồ Đề trong Chân Ngôn môn sẽ
nhanh chóng đạt được cái quả Chân Ngôn Tất Địa”. Cái quả trong ấy
chính là cái quả trí Nhất Thiết Trí chẳng thể nghĩ bàn.
(Kinh)
Nhược hành giả kiến Mạn-đồ-la tôn sở ấn khả, thành tựu chân ngữ, phát Bồ Đề
tâm, thâm tín từ bi, vô hữu xan lận, trụ ư điều phục, năng thiện phân biệt tùng
duyên sở sanh, thọ trì cấm giới, thiện trụ chúng học, cụ xảo phương tiện dũng
kiện, tri thời, phi thời, hiếu hành huệ xả, tâm vô bố úy, cần tu Chân Ngôn hành
pháp, thông đạt Chân Ngôn thật nghĩa, thường nhạo tọa Thiền, nhạo tác thành
tựu.
(經)若行者見漫荼羅尊所印可成就真語發菩提心、深信慈悲、無有慳悋、住於調伏,能善分別從緣所生,受持禁戒善住眾學,具巧方便勇健,知時非時,好行惠捨心無怖畏,勤修真言行法,通達真言實義,常樂坐禪、樂作成就。
(Kinh:
Nếu hành giả thấy lời chân thật được bậc tôn quý trong Mạn-đồ-la ấn khả, thành
tựu, sẽ phát tâm Bồ Đề, tin sâu từ bi, chẳng hề keo tiếc, trụ trong điều phục,
có thể khéo phân biệt [các pháp] từ duyên sanh ra, thọ trì giới cấm, khéo trụ
trong các điều học (các tướng thành tựu), trọn đủ phương tiện khéo léo, mạnh
mẽ, biết đúng thời và chẳng đúng thời, thích hành xả thí rộng rãi, tâm chẳng sợ
hãi, siêng tu hành pháp Chân Ngôn, thông đạt thật nghĩa Chân Ngôn, thường thích
tọa Thiền, thích tạo thành tựu).
Kế
đến là điều đầu tiên [trong Chân Ngôn Tất Địa], từ “nhược hành giả kiến
Mạn-đồ-la tôn sở ấn khả thành tựu chân ngữ” (nếu hành giả thấy bậc tôn
quý trong Mạn-đồ-la ấn khả, thành tựu lời chân thật) trở đi là nói về thứ tự
trong pháp cúng dường. Trước hết, được thấy Mạn-đồ-la. Không chỉ được trông
thấy mà thôi, cần phải được thầy thực hiện pháp gia trì, dẫn vào [Mạn-đồ-la]
như trong phần trước đã nói. Không chỉ được vào mà thôi, [lại còn phải] theo
thứ tự tu hành. Do thuận theo pháp tu hành, được A-xà-lê ấn khả, truyền pháp.
Do được ấn khả, quán đảnh; kế đó, nói tới chuyện thành tựu Chân Ngôn.
Lại
nữa, trong phẩm Thế Gian Trì Tụng, trước hết là nói về cách quán viên minh, có
cách niệm tụng hoàn nhiễu chân ngôn tự luân (đầu đuôi tiếp nối)[4]. Khi đó, chữ thứ nhất từ trong
miệng tuôn ra, nhập vào thân, giống như hơi thở hít vào trọn khắp thân phần.
Đấy là do thần lực tự tại của Như Lai gia trì. Người niệm như thế có thể trừ
hết thảy nghiệp cấu của chúng sanh. [Chữ ấy] trọn khắp thân thể như thế xong,
lại từ miệng [của hành giả] thoát ra, nhập vào chân Bổn Tôn, tới trọn khắp bổn
xứ (tức là tưởng chữ ấy tới trọn khắp các thân phần của Bổn Tôn). Khi mỗi chữ
lưu xuất như thế, từng chữ kế tiếp liên tục theo thứ tự liên hoàn chẳng ngừng.
Nếu như người sơ học sợ tâm tán loạn, chẳng thể thành tựu như thế, hãy nên chỉ
quán chữ chủng tử [của chân ngôn] để làm như trên, cho đến khi tâm đã quen
thuộc, sẽ dần dần [quán tưởng] thêm chữ khác. Dời đoạn này thêm vào phẩm trước,
như trong phần trước nói đã được thấy Mạn-đồ-la, lại được nhập vào đó, thực
hiện các pháp sự cho đến quán đảnh. Đã được thọ pháp, tu hành đúng như pháp,
khéo hiểu rành rẽ vô ngại pháp dụng theo thứ tự của chân ngôn, sẽ kham có thể
truyền pháp, được thầy ấn khả. Chữ “tôn giả” trong chánh kinh
chính là thầy.
Lại
còn có thể “phát Bồ Đề tâm”; đó chính là vì cầu nghiệp tự tại
của Như Lai, phổ môn lợi ích hết thảy chúng sanh mà làm chuyện này, chẳng phải
vì chuyện nào khác. “Thâm tín từ bi, vô hữu xan lận” (tin sâu
từ bi, chẳng hề keo tiếc) tức là tin tưởng sâu xa pháp rộng lớn chẳng thể nghĩ
bàn, quyết định chánh tín, chẳng có lòng nghi ngờ. Lại còn đối với tài và pháp,
đều chẳng có lòng keo tiếc. Do tâm đại từ bi mà xót thương hết thảy, thường
hành hạnh lợi tha, chẳng cầu tự lợi. “Trụ ư điều phục” (trụ
trong điều phục) tức là điều phục các căn thuộc lục tình; đấy chính là tánh
giới[5]. “Năng
thiện phân biệt tùng duyên sở sanh pháp” (khéo có thể phân biệt các
pháp sanh bởi duyên): Ví như gương sáng, chiếu soi hiện bóng rành rẽ các vật
đối trước nó. Các pháp như thế chẳng phải là có sẵn trong kính từ trước, chẳng
phải do sắc
đến từ bên ngoài. Hãy nên biết hai pháp hòa hợp cũng chẳng thể sanh, nhưng rành
rành hiện rõ trong ấy, chẳng thể chấp giữ, chẳng thể cầu được, mà cũng chẳng
phải là có, chẳng phải là không, chỉ do các duyên hòa hợp mà có thể trông thấy.
Hãy nên biết hết thảy các pháp cũng giống như thế, cho đến mười thí dụ [về duyên
sanh, tức như huyễn, như hóa, như thành Càn Thát Bà v.v…] đều có thể thông đạt.
Quán như thế rồi, đối với cái quả Tất Địa của chân ngôn cũng quán như thế. Tướng Tất Địa ấy do nhân
duyên thuộc người trì tụng và chân ngôn của Bổn Tôn hòa hợp mà có hết thảy
chuyện chẳng thể nghĩ bàn. Hình tượng trong tấm gương pháp giới chẳng thể chấp
trước, nhưng có đủ loại thành tựu.
“Thọ
trì cấm giới” tức là [thọ trì] giới cụ túc của Trì Minh, mỗi pháp tắc
trong ấy đều khéo thọ trì. Do nhân duyên ấy, chẳng phạm tam-muội-da giới, đạt
được Tất Địa thành tựu. “Thiện trụ chúng học” tức là đối với
tướng thành tựu thượng, trung, hạ của các pháp trong Chân Ngôn, mỗi chuyện đáng
nên học đều khéo thông đạt, tức là khéo trụ trong các pháp thượng, trung,
hạ. “Cụ xảo phương tiện” (trọn đủ phương tiện khéo léo) tức là
có thể thấu hiểu
tác dụng quyền biến thiện xảo của Như Lai. Như khi tu Chân Ngôn hạnh, nếu đối
với pháp xuất gia và Nhị Thừa có trái phạm, chớ nên sanh mê chấp như thế này:
“Ta do chuyện này mà hủy phạm giới này”. Hãy nên biết bỏ đường ác và tâm ôm ấp
chuyện làm ác sẽ trở ngại sự tu sửa chánh đáng. Vì sao? Tất cả các phương tiện
của Như Lai chỉ vì đại sự nhân duyên như thế đó. Nếu bảo “do chẳng trì phương
tiện thuộc các giới thanh tịnh trong các thừa, sẽ trở ngại hạnh viên mãn trong
Chân Ngôn” thì chẳng có lẽ ấy! Do vậy, nếu có lúc hành giả lỡ hủy phạm, hãy nên nghĩ như
thế này: “Ta nay do chí cầu Vô Thượng Đại Thừa, lợi ích trọn khắp hết
thảy hữu tình, mọi chuyện đều chẳng thể ổn thỏa được. Do vậy, trong ấy có trái
phạm. Đợi cho đến khi ta đã thành tựu cái quả, sẽ nên hối lỗi”. Do
thiện tâm ấy, sẽ chẳng phải là nhân duyên phạm giới, chẳng gọi là “phạm giới”. Ý nghĩa của “dũng mãnh” như
đã nói trong phần thầy trò thuộc phần trước.
“Tri
thời phi thời” (biết đúng thời và chẳng phải thời): Đối với mỗi thứ tự
pháp dụng trong Chân Ngôn Môn, chẳng được đem phần trước ra đằng sau, chuyển
đằng sau ra đằng trước! Hãy nên phần trước thì làm trước, phần nên làm sau cũng
như thế, đó gọi là “đúng thời”. Cho đến đủ loại các hạnh như
ăn uống, ngủ nghê, mỗi mỗi đều có tướng thời và phi thời. Như hành giả Chân
Ngôn mà nếu ban ngày ngủ vùi, suốt đêm chẳng ngủ, các chuyện như thế đều chẳng
phải là tam-muội-da, do chẳng hợp thời vậy! “Hiếu hành huệ xả” (chuộng
hành bố thí rộng rãi): Chân Ngôn hạnh Bồ Tát thường dùng tài thí và pháp thí để
nhiếp thủ chúng sanh, khiến cho họ nhập Phật đạo. Nếu chẳng thể tùy sức làm như
thế, tức là phạm Trì Minh Giới.
“Tâm
vô bố úy” (Tâm chẳng sợ hãi): Nếu ở trong đại chúng, có các chúng sanh
dị giải, dị kiến, sẽ hoặc là đoạn nghi cho họ, hoặc dùng cách thử hỏi sâu hay
cạn để khiến cho họ thưa hỏi. Lúc bấy giờ, [hành giả Chân Ngôn] an trụ trong
pháp, dùng tâm vô úy, tâm không chấp trước, thuận theo lời hỏi để nói, khiến
cho người ấy (người thưa hỏi) nhập trong chánh kiến, tâm chẳng khiếp
nhược. “Cần tu Chân Ngôn hạnh pháp” (siêng tu hạnh pháp Chân
Ngôn): Trong tu hành môn, trọn chẳng gián đoạn giữa chừng, chẳng đình trệ. Nếu
bỏ phế giữa
chừng, sẽ chẳng phải là tướng tinh tấn, chẳng đạt được cái đáng nên đắc, sẽ
thoái thất cái đã đạt được, sẽ trở ngại trong đường đạo. Vì thế, hành giả nhất
tâm tinh tấn như cứu đầu cháy. Do tinh tấn, chẳng buông lung, cho đến có thể
đạt được tri kiến của Phật ngay trong đời này, huống hồ các pháp trợ đạo khác.
Nếu chẳng phải như vậy,
sẽ là phạm pháp tam-muội-da.
“Thông
đạt chân ngôn thật nghĩa” (thông đạt ý nghĩa chân thật của chân ngôn):
Biết lý thú rất sâu trong các thành tựu thượng, trung, hạ. Trong mỗi từ ngữ, âm
thanh nam, nữ v.v… từ nhập môn cho tới khi thành Phật, đều khéo phân biệt, biết
các tướng thông, tắc trong đó. Vì lẽ nào vậy? Các chân ngôn ấy chính là công
đức tự chứng của Như Lai, dùng đó để trang nghiêm Pháp Thân, khiến cho các
chúng sanh ai nấy đều từ môn hữu duyên mà thấy Thật Tướng. Nếu lúc nhập một
chữ, sẽ trọn đủ vô lượng môn công đức, chẳng hai, chẳng khác! “Thường
nhạo tọa Thiền, nhạo tác thành tựu” (thường thích tọa Thiền, thích làm
pháp thành tựu): Trong Chân Ngôn môn, tâm trụ trong một cảnh mà chẳng tán loạn. Như quán chữ, quán
thanh, quán chủng tử của Bổn Tôn, tùy thuộc chuyện nào, tâm cũng đều chẳng
duyên theo bên ngoài, sẽ có thể đạt được thành tựu to lớn. Nếu cái tâm tán
loạn, dẫu trải qua vô lượng kiếp mong cầu thành tựu, vẫn chẳng thể được! Huống
hồ là ngay trong một đời này mà đạt được pháp lợi ư?
Kế
đó, nói về tướng Chân Ngôn thành tựu. Chắc là có kẻ ngờ rằng: “Trong pháp vô vi
thuộc về Thật Tướng của các pháp, cớ sao cũng có đủ loại sự tướng như thế vậy?”
Nay muốn khiến cho họ ngộ, bèn đáp rằng: “Chuyện ấy thật sự có, chớ nên sanh
nghi”. Lại còn dùng chuyện trong thế gian để làm thí dụ!
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Thí như Dục Giới hữu Tự Tại Duyệt Mãn Ý minh, nãi chí nhất thiết
Dục Xứ thiên tử ư thử mê túy, xuất chúng diệu tạp loại hý tiếu, cập hiện chủng
chủng tạp loại thọ dụng, biến thọ dụng, thọ dữ tự sở biến hóa,
Tha Hóa Tự Tại Thiên đẳng nhi diệc tự thọ dụng chi.
(經)祕密主!譬如欲界有自在悅滿意明,乃至一切欲處天子於此迷醉,出眾妙雜類戲笑及現種種雜類受用遍受用,授與自所變化、他化自在天等而亦自受用之。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Ví như Dục Giới có minh chú tên là Tự Tại Duyệt Mãn Ý, cho tới hết
thảy các thiên tử thuộc Dục Xứ đều mê say trong đó, hiện ra các thứ vui cười
mầu nhiệm đủ loại, và hiện các thứ thọ dụng đủ loại để thọ dụng trọn khắp, hoặc
trao cho nhau các [thứ thọ dụng] do chính mình biến hóa. Các vị Tha Hóa Tự Tại
Thiên cũng tự thọ dụng).
Như
trong Đại Thừa nói, Dục Giới có ba mươi sáu chỗ, tức là [tám] hàn nhiệt địa
ngục, mỗi nơi đều có hai chỗ, hợp thành mười sáu chỗ. Lại có bốn đại châu, mỗi
đại châu lại đều có hai tùy châu (hợp thành mười hai châu[6], cộng với [các địa ngục] trên đây
thành hai mươi tám chỗ), cùng với sáu tầng trời (Tứ Vương Thiên, Đao Lợi, Đâu
Suất, Dạ Ma, Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại), bàng sanh (súc sanh) và quỷ đạo (hợp
thành ba mươi sáu chỗ). Tự Tại Thiên Chúa do sức của Duyệt Mãn Ý Minh này, hiện
ra đủ loại các vật lạc dục nhiều hình sắc, có thể cùng lúc trọn khắp ba mươi
sáu chỗ. Lại còn nói “ư thử mê túy, xuất chúng diệu tạp loại thọ dụng
biến thọ dụng, thọ dữ tự sở biến hóa, Tha Hóa Tự Tại Thiên đẳng nhi diệc tự thọ
dụng chi” (đều
mê say trong đó, hiện ra các thứ thọ dụng đủ loại để thọ dụng trọn khắp, hoặc
trao cho nhau các [thứ thọ dụng] do chính mình biến hóa, các vị Tha Hóa Tự Tại Thiên cũng tự thọ dụng), [tức là] hóa hiện ra các thiên tử, thiên
nữ v.v… thị hiện cảnh hữu tình và vô tình trong lẫn ngoài. Như hiện ra các thức
ăn ngon lành,
âm nhạc v.v… mỗi mỗi đều có thể hiện tiền thọ dụng. Nếu thấy các thân nữ sắc
v.v… [chư thiên] cũng có thể tự hưởng vui ngũ dục, mỗi mỗi đều thuận theo lòng
ham muốn. Do gặp cảnh ngũ dục cực diệu, tâm đều say mê, [chú ngữ của Dục Giới
mà còn có tác dụng to lớn như thế], huống hồ chân ngôn của Như Lai mà chẳng thể
hiện trọn khắp các sắc thân thực hiện Phật sự ư?
(Kinh)
Hựu thiện nam tử! Như Ma Hê Thủ La thiên hữu Thắng Ý Sanh Minh, năng tác tam
thiên đại thiên thế giới chúng sanh lợi ích, hóa nhất thiết thọ dụng, biến thọ
dụng, thọ dữ Tịnh Cư chư thiên, diệc phục tự thọ dụng chi.
(經)又善男子!如摩醯首羅天有勝意生明,能作三千大千世界眾生利益,化一切受用、遍受用、授與淨居諸天亦復自受用之。
(Kinh:
Lại này thiện nam tử! Như Ma Hê Thủ La Thiên có minh chú Thắng Ý Sanh, có thể
làm lợi ích cho chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới, hóa hiện hết
thảy các thọ dụng, thọ dụng trọn khắp, [lại còn] trao cho các Tịnh Cư Thiên để
họ cũng được tự thọ dụng).
Như
Ma Hê Thủ La thiên vương có một minh chú tên là Thắng Ý Sanh Minh. Do sức của
chân ngôn này, có thể đồng thời tạo sự biến hóa to lớn, hóa hiện trọn khắp tam
thiên đại thiên thế giới này, vì mỗi chúng sanh hiện ra các chuyện lợi ích đáng
ưa thích, để họ đều thọ dụng chân thật, chẳng dối. Lại còn hóa hiện thân Tịnh
Cư Thiên và các sự thọ dụng vi diệu như trong kinh đã nói, huống hồ sức chân
ngôn của Như Lai [mà chẳng có tác dụng to lớn hơn vậy] ư?
(Kinh)
Hựu như huyễn thuật chân ngôn năng hiện chủng chủng viên lâm, nhân vật, như A
Tu La chân ngôn hiện huyễn hóa sự. Như thế chú thuật nhiếp độc, cập hàn nhiệt
đẳng. Ma Đát Rị thần chân ngôn năng tác chúng sanh tật dịch tai lệ, cập thế
gian chú thuật nhiếp trừ chúng độc, cập hàn nhiệt đẳng, năng biến xí hỏa nhi
sanh thanh lương.
(經)又如幻術真言能現種種園林人物,如阿修羅真言現幻化事。如世呪術攝毒及寒熱等,摩怛哩神真言能作眾生疾疫災厲,及世間呪術攝除眾毒及寒熱等,能變熾火而生清涼。
(Kinh:
Lại như huyễn thuật chân ngôn có thể hóa hiện đủ loại vườn rừng, người, vật.
Như chân ngôn của A Tu La hiện ra chuyện huyễn hóa. Như chú thuật của thế gian
nhiếp trừ chất độc, bệnh hàn nhiệt v.v… Chân ngôn của thần Ma Đát Rị có thể gây
bệnh dịch, tai ương cho chúng sanh, và chú thuật thế gian có thể nhiếp trừ các
chất độc và bệnh hàn, nhiệt v.v…, có thể biến lửa mạnh thành mát mẻ).
Hãy
gác chuyện ấy lại, như huyễn thuật sư trong cõi đời còn có thể dùng chân
ngôn của họ để
hiện ra các thứ vườn quả và xe cộ, người, súc vật v.v… Lại như A Tu La tự có chân ngôn, có thể hiện thân giống
như Đế Thích, ngồi trong Thiện Pháp Đường trên Tam Thập Tam Thiên, khiến cho
hết thảy chư thiên đều sanh lòng ngờ vực, quái lạ. Lại như người đời có chân
ngôn, có thể nhiếp thọ các độc, và các bệnh hàn, nhiệt. Lại có chân ngôn của Ma
Đát Rị Thiên (Mātṛ)[7] có thể gây ra tật dịch to
lớn cho hết thảy mọi người, cho tới trong thế gian hiện thời có người do chân
ngôn mà biến lửa thành lạnh, biến băng thành nóng, huống hồ chân ngôn được thần
lực tự tại của Như Lai gia trì mà chẳng thực hiện Phật sự to lớn trọn
khắp pháp giới ư?
(Kinh)
Thị cố thiện nam tử! Đương tín như thị lưu xuất cú chân ngôn oai đức. Thử chân
ngôn oai đức phi tùng chân ngôn trung xuất, diệc bất nhập chúng sanh, bất ư trì
tụng giả xứ nhi hữu khả đắc.
(經)是故善男子!當信如是流出句真言威德。此真言威德非從真言中出亦不入眾生,不於持誦者處而有可得。
(Kinh:
Vì thế, thiện nam tử! Hãy nên tin oai đức của câu chân ngôn lưu xuất như
thế. Oai đức của chân ngôn ấy chẳng phát xuất từ trong chân ngôn, cũng chẳng
vào trong chúng sanh, chẳng thể có đạt được từ nơi người trì tụng).
Vì
thế, hãy nên sanh tín tâm, tin tưởng lực dụng và oai đức ấy chân thật chẳng
dối. Người trì tụng do chưa đạt được Tất Địa, sẽ sanh tâm nghi ngờ thật sự có
chuyện ấy, hay là chắc chắn chẳng có! Cái quả chẳng thể nghĩ bàn như thế, nếu
dùng tâm lượng để phân biệt, sẽ trọn chẳng thấu đạt lý. Vì trừ mối nghi này, [đức Thế Tôn] liền
nói các thí dụ trên đây. Nhưng oai lực của chân ngôn chẳng từ chân ngôn phát
ra, cũng chẳng từ chỗ người trì tụng, cũng chẳng nhập vào thân và miệng của
người được gia trì đó. Tìm cầu tánh lẫn tướng đều trọn chẳng thể được, mà có
thể thực hiện hết thảy các sự thuận theo lẽ đáng nên, khéo léo thành tựu. Đấy
chính là duyên khởi rất sâu. Pháp tánh từ các duyên mà có, như trăng trong
nước, như hình
bóng trong gương, là duyên khởi chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh)
Thiện nam tử! Chân ngôn gia trì lực cố, pháp nhĩ nhi sanh, vô sở quá việt. Dĩ
tam thời bất việt cố, thậm thâm bất tư nghị duyên sanh lý cố. Thị cố, thiện nam
tử! Đương tùy thuận thông đạt bất tư nghị pháp tánh, thường bất đoạn tuyệt chân
ngôn đạo.
(經)善男子!真言加持力故,法爾而生,無所過越,以三時不越故、甚深不思議緣生理故。是故善男子!當隨順通達不思議法性,常不斷絕真言道。
(Kinh:
Thiện nam tử! Do sức gia trì của chân ngôn, pháp vốn sẵn như vậy mà sanh, không
vượt qua. Do chẳng vượt ngoài ba thời, do lý duyên sanh rất sâu chẳng thể nghĩ
bàn. Vì thế, này thiện nam tử! Hãy nên tùy thuận thông đạt pháp tánh chẳng thể
nghĩ bàn để thường tu đạo chân ngôn chẳng đoạn tuyệt).
Đó
là nói Chân Ngôn Tất Địa vốn sẵn thành tựu. Vì lẽ nào vậy? Như Lai hiện chứng
pháp chẳng thể nghĩ bàn như thế, tức là tự thể của chữ A từ cái gốc vốn đã sẵn
trọn đủ vô lượng sức tự tại chẳng thể nghĩ bàn. Thể của Tất Địa là thường trụ
bất biến, chỉ do hành nhân chẳng tự biết rõ, nên
chẳng đạt được cái quả như thế. Nay dùng hạnh này để tịnh hóa thân, khẩu, ý
nghiệp, nếu có thể tương ứng với pháp, sẽ tự thành tựu. Các pháp vốn tự như
thế, trọn chẳng hư dối. Cái quả chẳng nghĩ bàn ấy, khi các duyên tụ hội sẽ tự
sanh khởi, giống như sóng trong biển cả trọn chẳng lỡ thời. Hơn nữa, chân ngôn
này, tự không có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Nếu có khởi đầu và kết thúc thì
sẽ có cùng tận, tức là pháp vô thường, bại hoại, sao có thể gọi là “sức tự tại của Như Lai” cho được? Do pháp thể này vượt ngoài
ba đời, thường ở trong ba đời; vì thế, trong ba đời tự nhiên thường làm Phật
sự, chẳng phế bỏ, chẳng lỡ kỳ hạn. Như nước trong biển cả, nếu nhằm lúc trăng
tròn, tự nhiên [sóng mòi] bủa trào, chẳng lỡ thời.
“Thậm
thâm bất tư nghị duyên sanh lý” (lý duyên sanh chẳng nghĩ bàn rất
sâu): Nếu bản thể của chân ngôn trước đó đã chẳng thành tựu, sẽ chẳng thể thuận
theo cảm mà ứng chẳng lỡ kỳ hạn! Tuy chân ngôn có sức ấy, nhưng nếu tâm hạnh của hành nhân chưa tương ứng, cũng
sẽ chẳng thể khiến cho sự gia trì đó hiển hiện được! Nhưng duyên tụ hội sẽ tự
thành; vì thế biết là chẳng từ nơi kia mà tới, chẳng từ nơi này mà đi, cũng
chẳng phải ở hai nơi ấy. Vô tánh mà có duyên tụ hội thì cũng thành cái quả Tất
Địa, cũng chẳng phải là tự nhiên mà có. Hãy nên biết: Đấy là cái quả pháp giới chẳng thể nghĩ bàn rất
sâu! Từ duyên mà khởi, thường tự vô tánh, chẳng thể nghĩ bàn. Nếu hành nhân tu
hành chẳng dứt, ắt sẽ là cực quả khế hợp chí lý. Chí lý (lý cùng tột) như
thế, chẳng thể do suy lường mà có thể biết rõ được. Đó là [lý do đức Phật]
nêu ra các
thí dụ trên đây để khuyến tín. “Thị cố, thiện nam tử! Tùy thuận thông
đạt bất tư nghị pháp tánh, thường bất đoạn tuyệt chân ngôn đạo” (Vì
thế, thiện nam tử! Hãy tùy thuận thông đạt pháp tánh chẳng nghĩ bàn để thường
tu đạo chân ngôn chẳng đoạn tuyệt): Cái quả chân ngôn chẳng thể nghĩ bàn ấy đã
chẳng do phân biệt mà có thể biết được, chẳng do thuận theo sức chấp trước hành
xứ, hoặc hạnh đối trị nhỏ nhoi mà có thể thủ chứng được! Do vậy, chỉ những ai có tín lực kiên cố thì
mới có thể tiến nhập! Vì thế, trước hết nêu thí dụ; kế đó, nêu ra chí lý,
khuyên [thính chúng] hãy nương vào môn này, quán chí lý duyên sanh chẳng thể
nghĩ bàn, thường cầu thông đạt pháp tánh chẳng nghĩ bàn như thế, tùy thuận lý
ấy để tu hạnh Chân Ngôn sao cho chẳng gián đoạn, sẽ tự nhiên thành Phật.
Đạo chân ngôn này chính là chỗ sanh khởi của pháp chẳng thể nghĩ bàn. Do cái
nhân chẳng thể nghĩ bàn mà đạt được cái quả chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn phục trụ tam thế vô ngại lực, y Như Lai gia trì bất tư nghị
lực, y Trang Nghiêm Thanh Tịnh Tạng tam-muội.
(經)爾時世尊復住三世無礙力,依如來加持不思議力,依莊嚴清淨藏三昧。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn lại trụ trong sức ba đời vô ngại, nương vào sức gia trì
chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, nương vào Trang Nghiêm Thanh Tịnh Tạng
tam-muội).
Nương
vào sức tam thế vô ngại, nương vào sức chẳng thể nghĩ bàn của Phật; ở đây, có
hai loại nương cậy ấy. Tam-muội ở đây chính là chỗ y chỉ của lực dụng gia trì
ba đời không chướng ngại chẳng thể nghĩ bàn. Nương vào pháp thể ấy để có thể
thành tựu nghiệp chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tức là trọn khắp mười phương
ba đời, lợi ích trọn khắp hết thảy các chúng sanh, thảy đều khiến cho họ rốt
ráo trụ trong địa vị của trí Nhất Thiết Trí. Đấy chính là Như Lai nương vào
pháp tự chứng chẳng thể nghĩ bàn, dùng vô lượng các sức định trí để tự trang
nghiêm thanh tịnh. Đó chính là cái Thể của chân ngôn vậy. Đấy cũng là tạng các
công đức của Như Lai, vô tận trang nghiêm, chẳng có khuyết giảm, thành tựu
trọn vẹn các tướng.
(Kinh)
Tức thời Thế Tôn tùng Tam Ma Bát Để trung, xuất vô tận giới, vô tận ngữ biểu, y
pháp giới lực, vô đẳng lực, chánh đẳng giác tín giải, dĩ nhất âm thanh tứ xứ
lưu xuất, phổ biến nhất thiết pháp giới, dữ hư không đẳng, vô sở bất chí. Chân
ngôn viết: - Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế phiêu, vi thấp phạ mục khế tệ, tát bà tha, a a ám á.
(經)即時世尊從三摩鉢底中,出無盡界無盡語表。依法界力、無等力、正等覺信解、以一音聲四處流出、普遍一切法界、與虛空等,無所不至。真言曰:南麼薩婆怛他蘖帝驃。微濕嚩目契弊。薩婆他。阿阿闇噁。
(Kinh:
Lập tức, đức Thế Tôn từ trong Tam Ma Bát Để (Samāpatti)[8], phát ra ngữ biểu[9] vô tận của vô tận giới,
nương vào sức pháp giới, sức không sánh bằng, chánh đẳng giác tín giải, dùng
một âm thanh lưu xuất bốn xứ, trọn khắp hết thảy các pháp giới, giống như
hư không, không đâu chẳng thấu đến. Chân ngôn rằng: - Nam ma tát bà đát tha
nghiệt đế phiêu, vi thấp phạ mục khế tệ, tát bà tha, a a ám á).
Ý
nói từ chữ A phát ra ba chữ (A (âm dài), Ám, Á), [cộng với chính chữ A] thành
bốn chữ. Bốn chữ ấy hợp thành một, trọn khắp hết thảy các chốn. Âm thanh của
các tự môn ấy cũng trọn khắp hết thảy. “Phổ biến nhất thiết pháp giới,
dữ hư không đẳng vô sở bất chí” (trọn khắp hết thảy pháp giới, bằng
với hư không, không đâu chẳng đến): Khi đức Phật trụ trong tam-muội, sanh khởi
biểu nghiệp này, “biểu” (表)
tức là nêu ra. Âm thanh ấy có thể trọn khắp hết thảy, được gọi là “chư
Phật ấn khả, thành tựu”. “Ấn” có nghĩa là “tiêu biểu”,
tức là ngữ biểu của Như Lai, nghĩa là từ sức tín giải của Như Lai (trong phần
Tự đã giải thích điều này). Chỗ âm thanh của Thanh Văn phát ra được gọi là Môn,
Thanh Văn ở đây chính là bốn chữ như A, Ám, Á v.v… Do từ chữ A ấy mà phát ra âm
thanh; do vậy gọi là Môn.
Chữ A ấy chính là Phật khẩu, chính là Phật tâm, chính là người nói, chính là
người nghe, là sức nương vào pháp giới, là sức không gì sánh bằng để sanh khởi
ngữ biểu bình đẳng, vô ngại, phát ra vô lượng âm thanh, tức là tác dụng hướng
dẫn, lợi lạc trọn khắp
nơi ngữ nghiệp của Như Lai. Từ tâm Như Lai, lưu xuất diệu âm bình đẳng ấy, chia
thành bốn chỗ, như từ ao lớn Vô Nhiệt[10] tuôn chảy bốn con sông lớn
chẳng khô cạn. Chỗ nương vào của chân ngôn này cũng giống như thế: Do một diệu
âm, có thể biểu thị vô tận pháp giới, xoay vần sanh khởi, chẳng có cùng
tận. “Tứ xứ” ở đây chính là bốn chữ (A, Ā, Aṃ, Aḥ), Tứ
Đức, bốn màu, bốn thỏa nguyện, từ Tứ Đức trong tâm Phật mà nở xòe. Trong ấy,
dùng Sự để biểu thị lý nội chứng, tức là bốn chữ bất đồng, bốn màu có công dụng khác biệt, nguyện
được thỏa cũng lại bất đồng. Tứ Đức ấy phổ biến hư không giới, như hư không vô
lượng, chẳng có phân biệt, lìa chính giữa và bờ mé, chẳng có cùng tận. Chân
ngôn này thị hiện cũng lại giống như thế.
Kế
đó, [chánh kinh] nói trong tâm Phật chia thành bốn chỗ. Trước hết, chân ngôn nói “quy
mạng hết thảy các Như Lai” (tức câu “Nam ma tát bà đát tha
nghiệt đế phiêu” - Namaḥ sarvatathāgatebhyo). Câu kế đó là các thứ môn. Vi Thấp Phạ
(Viśva) là “các thứ nghĩa”, mà cũng là nghĩa “hay khéo”. Mục Khế Tệ
(Mukhebhyaḥ) nghĩa là
môn, tức là Phổ Môn thị hiện các loại trí nghiệp xảo độ môn. Tát Phạ Tha
(Sarvathā) là hết thảy. Không chỉ là thân và miệng dốc lòng lễ kính, mà thậm chí ba nghiệp
cũng đều quy mạng trọn khắp. Như thân biểu thị điều chất chứa trong tâm, mỗi
chi phần của thân ở bên ngoài đều lễ khắp hết thảy các đức Như Lai.
(Kinh)
Chánh Đẳng Giác tâm tùng thị phổ biến, tức thời, nhất thiết pháp giới chư thanh
môn tùng Chánh Đẳng Giác tiêu xí chi âm, nhi hỗ xuất thanh. Chư Bồ Tát văn thị
dĩ, đắc vị tằng hữu khai phu nhãn, phát mỹ diệu ngôn âm, ư Nhất Thiết Trí ly
nhiệt giả tiền, nhi thuyết tụng viết.
(經)正等覺心從是普遍,即時一切法界諸聲門從正等覺幖幟之音而互出聲。諸菩薩聞是已,得未曾有開敷眼,發美妙言音,於一切智離熱者前而說頌曰:
(Kinh: Từ đó (từ
chân ngôn đó), tâm Chánh Đẳng Giác trọn khắp. Ngay lập tức, hết thảy các thanh
môn trong pháp giới từ âm thanh tiêu biểu cho Chánh Đẳng Giác bèn lần lượt phát
ra. Các Bồ Tát nghe các âm thanh ấy xong, được mở bừng mắt chưa từng có, thốt
ra âm thanh đẹp đẽ, nhiệm mầu, đối trước đấng Nhất Thiết Trí lìa nhiệt não mà
nói kệ tụng rằng).
Kế
đó, nói về cái Thể của chân ngôn, ý nghĩa của bốn chữ A, A, Ám, Á (A, Ā,
Aṃ, Aḥ) như đã nói. “Tùng thị phổ biến, Chánh Đẳng Giác tâm” (từ [chân ngôn] ấy mà tâm Chánh Đẳng Giác trọn khắp), “tùng” là
phổ biến. Tức thời, các môn âm thanh trong pháp giới từ âm thanh biểu trưng của
Chánh Đẳng Giác, tức là từ Tứ Đức của chân ngôn bèn trọn khắp tâm của hết thảy
chư Như Lai. Như từ một chữ sanh ra hai chữ, hai chữ sanh ra bốn chữ, bốn chữ
sanh ra tám, tám sanh ra mười sáu, xoay vần vô cùng như thế. Nhưng chữ ban đầu
giống như chữ thứ hai. Chữ thứ hai cũng bình đẳng chẳng sai biệt với chữ thứ
ba. Bốn chữ ấy chính là cái Thể được đề cao chánh yếu trong bộ kinh này, hết
thảy bí tạng đều sanh từ đó, chính là tâm của Tỳ Lô Giá Na Phật. Điều này biểu
thị các âm thanh hỗ tương phát ra tiếng, như trong phần trên [vừa mới nói] từ
một phát ra bốn, từ bốn phát ra vô lượng chữ và âm thanh trọn khắp pháp giới.
Âm thanh của mỗi chữ đều phát ra lẫn nhau, [nghĩa là] trong âm thanh của một
chữ, phát ra âm thanh của hết thảy các chữ khác. Các chữ khác cũng thế. Đấy
chính là tác dụng tiêu biểu của Phật. Các âm thanh chẳng nghĩ bàn ấy thông đạt
lẫn nhau, biểu thị hết thảy vô lượng tự đức và tha đức của hết thảy Như Lai.
Trong một âm thanh, đều phát ra vô
lượng các thứ âm thanh cú nghĩa. Vì thế nói là “nhi hỗ xuất
thanh” (hỗ tương phát ra tiếng). “Chư Bồ Tát kiến văn thị dĩ,
đắc vị tằng hữu” (các Bồ Tát thấy, nghe âm thanh ấy rồi, đạt được điều
chưa từng có) cho nên nói là “hy hữu”. “Khai phu nhãn” (mắt
mở bừng): Khi tâm đã định thì mắt chẳng mở, chẳng nhắm. Nay thấy chuyện ấy,
kinh ngạc, cho là
chưa từng có, cho nên mở bừng mắt. Nay tôi riêng cho rằng: Như hoa sen chưa nở,
do ánh nắng mặt trời mà được nở xòe. Tâm mục của các vị Bồ Tát này cũng thế, do
Phật gia trì thị hiện, cho nên mở to. “Phát mỹ diệu ngôn âm, ư Nhất
Thiết Trí ly nhiệt não giả tiền, nhi thuyết tụng viết” (thốt ra tiếng
nói đẹp đẽ, mầu nhiệm, đối trước bậc Nhất Thiết Trí đã lìa nhiệt não mà nói kệ
tụng rằng), tức là đối trước các bậc đã đạt được Nhất Thiết Trí lìa nhiệt não
mà ca ngợi.
(Kinh)
Kỳ tai Chân Ngôn hạnh, năng cụ quảng đại trí.
(經)奇哉真言行,能具廣大智。
(Kinh:
Lạ thay hạnh Chân Ngôn, trọn đủ trí rộng lớn).
Tán
thán hạnh Chân Ngôn này hết sức kỳ đặc: Từ Như Lai tâm mà có thể hiện ra Tứ
Đức. Từ đấy, mỗi đức đều phát xuất vô lượng âm thanh bí diệu chẳng nghĩ bàn
trọn khắp pháp giới. Mỗi âm thanh lại lần lượt phát ra hết thảy các âm thanh
chẳng hai, chẳng khác, nhưng có tác dụng sai biệt để hoàn thành Phật sự, tức là
biểu lộ Pháp Thân bí mật trong tạng diệu nghiêm của Như Lai trọn đủ vô lượng
công đức trang nghiêm. Do vậy nói “năng cụ quảng đại trí” (có
thể trọn đủ trí rộng lớn). Trí ấy chẳng có ngằn mé, giống như thái hư chứa đựng
muôn vàn hình tượng, cho nên nói là “quảng”. Do vậy, quảng trí
tức là vô đẳng trí (trí không gì bằng), vô tỷ trí (trí khôn sánh). Do trí cú (câu trí huệ) ấy, sẽ có thể thành Phật.
(Kinh)
Nhược biến bố thử giả, thành Phật Lưỡng Túc Tôn.
(經)若遍布此者,成佛兩足尊。
(Kinh: Nếu
phổ biến chú ấy, thành Phật Lưỡng Túc Tôn).
“Nhược
biến bố thử giả” tức là đem chân ngôn ấy phổ biến trong hết thảy các
thế giới, tức là môn chữ A. “Thành Phật Lưỡng Túc Tôn”: Trong chữ
chân ngôn, dùng diệu âm ấy để phổ biến trong các thế giới, có thể khiến cho
người nghe nhất định đắc Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế nói là “thành Phật
Lưỡng Túc Tôn”.
(Kinh) Thị
cố, cần tinh tấn, ư chư Phật ngữ tâm, thường tác vô gián tu, tịnh tâm ly ư ngã.
(經)是故勤精進,於諸佛語心,常作無間修,淨心離於我。
(Kinh:
Do vậy, siêng tinh tấn, với chư Phật ngữ tâm, thường tu chẳng gián đoạn, tịnh
tâm lìa khỏi ngã).
Có
hai thứ siêng năng: Loại siêng năng trước chính là tinh tấn chẳng gián đoạn.
Loại siêng năng thứ hai là thường tu chẳng gián đoạn. [Hai loại siêng năng ấy,
nói theo] âm tiếng Phạn sẽ sai khác. Tức là trong tâm chân ngôn do hết thảy các
đức Như Lai đã nói đó, dùng bốn chữ trên đây để khuyên các chúng sanh hãy nên
lắng lòng siêng năng tu học tâm chân ngôn đã nói như thế sao cho đừng gián
đoạn, thường nên dùng tâm chân ngôn ấy để tịnh cái tâm. “Tịnh” tức
là tịnh trừ hết thảy các vọng nghiệp, các chướng trong và ngoài. “Ly
ngã” là lìa hai món Nhân Ngã và Pháp Ngã. Hãy nên biết cái tâm ấy
chính là Phật tâm. Phật tâm chính là chân ngôn tâm.
(Kinh)
Nhĩ thời, Bạc Già Phạm, phục thuyết thử pháp cú: - Ư Chánh Đẳng Giác tâm, nhi
tác thành tựu giả.
(經)爾時薄伽梵,復說此法句,於正等覺心,而作成就者。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm lại nói pháp cú này: - Trong tâm Chánh Đẳng Giác,
mà thực hiện thành tựu).
Phẩm
trước đã nói sự thành tựu trong thế gian giúp hành nhân đạt tới thành tựu xuất
thế gian. Do vậy, ở đây nói dùng Phật tâm để làm nghiệp thành tựu xuất thế
gian. “Phật tâm” tức là bốn chữ chân ngôn trên đây, tùy ý lấy
một chữ nào để thực hiện cũng đều được. Thực hiện thành tựu cái quả ấy, sẽ đạt
được cái quả xuất thế. “Chánh Đẳng Giác tâm” chính là chân
ngôn tâm.
(Kinh)
Ư viên uyển, tăng phường, nhược tại nham quật trung, hoặc ý sở nhạo xứ, quán bỉ
Bồ Đề tâm, nãi chí sơ an trụ, bất sanh nghi lự ý.
(經)於園苑僧坊,若在巖窟中,或意所樂處,觀彼菩提心,乃至初安住,不生疑慮意。
(Kinh:
Nơi vườn hoa, tăng phường, hoặc nơi vách núi, hang, hoặc chỗ mình yêu
thích, quán tâm Bồ Đề ấy, cho đến mới an trụ, chẳng sanh ý ngờ, lo).
Muốn
thực hiện pháp thành tựu ấy, hãy nên chọn nơi chốn trước. “Viên uyển” là
chỗ [cây cối] do con người vun trồng, cắt xén, thì mới là viên uyển. Nếu không
trồng mà tự mọc thì là đồng hoang, chẳng phải là viên uyển. “Tự” trong
tiếng Phạn là Tỳ Ha La (Vihāra),
phương này dịch là Trụ Xứ. “Quật” (窟)
là hang đá tự nhiên trong núi, hoặc do sức người đào khoét. Hoặc là chỗ
hành nhân yêu thích, thì cũng là nơi thích hợp để tu đạo. Nếu nói theo ý nghĩa
bí mật, “viên uyển” chính là Đại Bồ Đề tâm. Chỗ ấy rộng rãi,
không gì chẳng có. Nương vào đấy để tu đạo, sẽ là chỗ tốt nhất. “Trụ” là
Tứ Phạm Trụ, hoặc nói là đại bi, do hết thảy Bồ Tát thường thích trụ trong
ấy. “Quật” là chỗ sâu thẳm, thanh nhàn, tức là hang Thiền Định
rất sâu, sư tử là vua các loài thú cũng ngự trong đó. Hoặc “chỗ yêu
thích” tức là đối với các pháp môn, tùy thuộc pháp nào thuận tiện, sẽ
hệ niệm một môn mà hành, chẳng hạn như Lục Độ v.v… như kinh Bát Nhã đã nói, từ
trong đó mà tùy ý tự tu.
“Quán
bỉ Bồ Đề tâm, nãi chí sơ an trụ, bất sanh nghi lự ý” (Quán cái tâm Bồ
Đề ấy, cho đến khi mới an trụ, chẳng sanh ý niệm ngờ vực, lo ngại) tức là dùng
tâm để quán Bồ Đề tâm của chính mình. Đấy là chánh hạnh xuất thế. Trụ trong ấy, chẳng duyên theo điều gì khác, tức là
tam-muội. Ở trong pháp Quán ấy, do thường tự giác, hết thảy các lưới nghi
sẽ dần dần trừ sạch, thậm chí đạt đến chỗ “không nghi ngờ”. Các mối nghi chẳng sanh,
tức là thật sự trụ trong Bồ Đề tâm. Khi ấy, có đủ loại tướng mạo v.v… chớ
nên sanh lòng lo ngờ, sẽ dần dần thấy Chân Thật Như. Nhưng khi hành điều
đó, đại lược có hai địa vị: Một là chẳng phải là địa vị Tam-ma-hế-đa, và hai là
địa vị Tam-ma-hế-đa (Samāhita, dịch
là Đẳng Dẫn). Trong lúc chưa thành tựu mà đã có tướng thành tựu trước, cho đến
khi sắp thành tựu, cũng có tướng sắp thành tựu. Đấy đều chẳng phải là địa vị
Tam-ma-hế-đa. Tức là khi mới đạt được thành tựu thế gian, các thứ được gia
trì như dược vật v.v… đều có lực dụng chẳng thể nghĩ bàn. Thậm chí [nhờ vào lực
dụng của các dược vật ấy], có thể dạo chơi các cõi Phật. Tuy là tướng chưa
thành tựu, mà giống như đã đạt được chuyện ứng nghiệm chẳng thể nghĩ bàn trong
hiện tại. Tâm quyết định tín càng thêm tăng tấn thù thắng, được nhập vào địa vị
Đẳng Dẫn. Khi hành giả mới tu phương tiện xuất thế gian quán, trước hết quán
Bổn Tôn, nương vào tượng vẽ để khéo quán xong. Thoạt đầu, khi nhắm mắt bèn thấy
rành rẽ; sau đó, dần dần mở mắt cũng thấy, [tướng đã quán] hiển hiện rành rẽ,
chẳng bị ẩn lấp, mù mờ. Đấy chưa phải là Đẳng Dẫn. Nếu do đạt được chuyện như
thế, cái tâm sanh tin tưởng, vui sướng gấp bội. Do lòng tin ấy mà cái tâm thanh
tịnh, tâm sẽ dần dần chẳng chấp trước, bình đẳng bất nhị. Sự bất nhị ấy cũng
trừ bỏ,
chẳng có cái thấy “trung biên” (chính giữa hay bờ mé, tức là
chẳng thấy có nhị biên, chẳng thấy chính
mình chẳng chấp vào hai bên) sai khác, trừ các tâm duyên, vạn pháp
bình đẳng. Khi đó, gọi là tướng Đẳng Chí. Do khi các tướng hiện, tuy chưa thành
tựu, nhưng do vậy mà có thể dần dần được thành, nên nói “đấy chưa phải
là địa vị Đẳng Dẫn” (tôi cho rằng là như thế gian chưa đạt tới môn
Định thuộc mỗi địa vị vậy).
(Kinh) Tùy
thủ bỉ nhất tâm, dĩ tâm trí ư tâm, chứng ư cực tịnh cú. Vô cấu an bất động, bất
phân biệt như kính, hiện tiền thậm vi tế. Nhược bỉ thường quán sát, tu tập nhi
tương ứng, nãi chí bổn sở tôn, tự thân tượng giai hiện.
(經)隨取彼一心,以心置於心,證於極淨句,無垢安不動,不分別如鏡,現前甚微細。若彼常觀察,修習而相應,乃至本所尊,自身像皆現。
(Kinh: Tùy
chọn một tâm ấy, đem tâm đặt nơi tâm, chứng biết câu cực tịnh. Vô cấu, an, bất
động, chẳng phân biệt như gương, hiện tiền, rất vi tế. Nếu như thường quán sát,
tu tập đạt tương ứng, thậm chí đức Bổn Tôn, tự thân Ngài đều hiện).
Trước
hết là quán Bổn Tôn đã hiện rành rẽ. Trong bốn chữ, tùy ý chọn một chữ đặt trên
tâm của Bổn Tôn, chánh kinh nói điều này là “dữ tâm tương ứng” (tương
ứng với tâm), tức là dùng chữ của Phật tâm để đặt trên tâm của Bổn Tôn (“Thủ
tâm” chính là lấy chữ thuộc Phật tâm, đặt ở trên Phật tâm, thì gọi là “dữ
tâm”). Tùy ý chọn lấy một chân ngôn tâm, tưởng đặt chân ngôn tâm nơi tâm
của Bổn Tôn. Hoặc tưởng thân của chính mình là Bổn Tôn để đặt tâm chân ngôn
nơi tim của chính mình. Vì thế nói là “dĩ tâm trí ư tâm” (dùng
tâm chân ngôn đặt nơi tâm) v.v… Khi quán như thế, hãy quán vô cấu cực tịnh, do
hết thảy Bổn Tôn nơi tâm thường là như thế. Khi quán tịnh như vậy, do chẳng
duyên theo bên ngoài, an trụ bất động, chẳng phân biệt hết thảy pháp
tướng để rồi nẩy
sanh vọng tưởng. Khi đó, tương ứng với Quán Phật tam-muội v.v… Ví như người
có con mắt
thanh tịnh, đối diện gương
sáng. “Gương” ở đây chính là quán sự viên minh, thanh tịnh vô
cấu nơi tâm của Bổn Tôn. Nói “cực vi” tức là thoạt đầu quán
chữ chủng tử sao cho cực nhỏ bé, do đó là chủng tử của tâm vậy. Trước là đã
quán thấy hình tượng Bổn Tôn rồi, nơi tâm Bổn Tôn, quán cái gương sáng sạch ấy,
trong gương có chữ ấy. Nhất tâm quán chữ ấy, tức là từ trong ấy mà được thấy hình tướng chân thật của Bổn Tôn,
mà cũng là từ
trong cái gương tròn sáng ấy, tự thấy thân mình. Đấy vẫn chưa phải là tướng
Đẳng Dẫn. Chỉ trụ trong một cảnh như thế, chẳng bị cấu chướng lay động. Do
thường tu tập như thế, khi hình bóng của chính mình hiện ra, nơi tim cũng có
viên minh (vòng tròn sáng suốt thanh tịnh như cái gương) và chữ. Lúc mới quán,
hễ thấy một chữ thì ba sự đều tự nhiên hiện. Lúc sau, từ trên viên minh nơi
tâm, trông thấy Bổn Tôn. Nơi viên minh của Bổn Tôn, lại thấy thân mình. Soi tỏ
lẫn nhau như thế chẳng có chướng ngại, gọi là “ảnh tượng thành tựu”. Đấy
vẫn chẳng phải là địa vị Đẳng Dẫn!
(Kinh)
Đệ nhị Chánh Giác cú, ư kính Mạn-noa-la, đại liên hoa vương tòa, thâm thúy trụ
tam-muội.
(經)第二正覺句,於鏡漫拏羅,大蓮華王座,深邃住三昧。
(Kinh: Câu
Chánh Giác thứ hai, nơi kính Mạn-noa-la, tòa đại liên hoa vương, sâu thẳm trụ
tam-muội).
Thoạt
đầu là quán Bổn Tôn, nay thì chỉ quán Phật. Vì lẽ nào vậy? Do hết thảy các hình
tượng tôn thánh đều là các môn để thấy Pháp Thân. “Ư kính Mạn-noa-la,
đại liên hoa vương tòa, thâm thúy trụ tam-muội”: Trong gương ấy, lại có
hình tượng hang động. Quán hang động ấy rất sâu, trong đó có Như Lai ngồi lặng
lẽ trong cái hang ấy.
(Kinh)
Tổng trì phát kế quan, vô lượng quang vi nhiễu, ly vọng chấp phân biệt, bổn
tịch như hư không. Ư bỉ trung tư duy, tác nhiếp ý niệm tụng, nhất nguyệt tu
Đẳng Dẫn, trì mãn nhất lạc-xoa. Thị vi tối sơ nguyệt, trì chân ngôn pháp tắc.
(經)總持髮髻冠,無量光圍繞,離妄執分別,本寂如虛空。於彼中思惟,作攝意念誦,一月修等引,持滿一落叉。是為最初月,持真言法則。
(Kinh:
Mão che tóc Tổng Trì, vô lượng quang vây quanh. Lìa vọng chấp phân biệt, vốn
tịch như hư không. Tư duy ở trong ấy, nhiếp ý để niệm tụng, một tháng tu Đẳng
Dẫn, trì đủ một lạc-xoa. Đó là tháng đầu tiên, trì pháp tắc chân ngôn).
Ở
trong ấy, quán như thế, đó gọi là “thật sự thấy Phật”. Khi
thấy như thế, tưởng nơi tâm đức Phật ấy có chữ, nhất tâm tụng chữ chân ngôn ấy.
Đó là một mực nhiếp ý nơi một cảnh, chẳng có một ngoại duyên nào. Tâm tâm niệm
tụng, chẳng để cho người khác nghe thấy, nhưng trong Định tự nhiên có âm thanh
lưu xuất như nước chảy không ngừng. Nói “một lạc-xoa”, phương
này dịch [lạc-xoa] là “thấy”, nghĩa là tâm trụ nơi một duyên, hiện tiền rành
rẽ. Nếu nói theo ngôn ngữ thế gian thì [lạc-xoa] sẽ là mười vạn lần. “Nhất
nguyệt tụng” thì “nhất nguyệt” chính là Đẳng Dẫn viên
mãn, nhập Sơ Địa. Trong bí tạng, Sơ Địa là tháng thứ nhất; đó chính là địa vị
Đẳng Dẫn. Trong phần trước đã nói ba câu: “Bồ Đề tâm là chủng tử, đại
bi là căn, phương tiện là sau cùng”. Ở đây nói cặn kẽ về hành pháp.
Câu
thứ hai là quán Phật trong hang sâu nơi tâm kính (cái gương nơi tâm), cho đến quán thân chính mình là Bổn Tôn.
Trước hết, quán cái gương tròn
sáng tròn sạch nơi
tâm Bổn Tôn, trong gương có hình dạng hang đá, trong ấy có Bổn Tôn, tức là thật
sự thấy Phật. Đã thấy Phật rồi, trong tâm vị Phật ấy lại có [tấm gương] tròn,
sáng, viên mãn, thanh tịnh. Thoạt đầu, tâm kính cực tịnh ấy rất nhỏ bé; sau đó lớn dần, đối diện rành rành,
nên nói là “hiện tiền”. Trong [tâm kính] thanh tịnh khôn sánh
ấy, có chữ chủng tử. Nhất tâm chánh quán chữ chủng tử ấy, tức là tụng chữ ấy.
Từ đấy trở đi, được thấy cái tâm đó, lại thấy thân chính mình giống như thể
tướng của Bổn Tôn ở trong tâm Phật. Nếu quán [tâm kính] viên minh nơi tự tâm,
thì cũng là [trông thấy] Như Lai Bổn Tôn ở trong ấy. Xoay vần hiển hiện lẫn
nhau như thế chẳng trở ngại lẫn nhau. Bổn Tôn thanh tịnh, lìa các phân biệt.
Đạt được như thế, gọi là “thấy Bồ Đề tâm”, là chủng tử Phật
vừa mới thành. Đấy cũng gọi là “vừa thấy một cảnh”, nên gọi
là “một lạc-xoa”. Đấy chính là pháp thừa sự trước hết trong
hạnh xuất thế. Người thành tựu như thế tức là nhập Tín Địa (Đó là [giải đáp]
cho câu hỏi về hành tướng của Bồ Đề tâm). Kế đó, nói “nhiếp ý” từ
một đến mười cũng như thế, từ một cho đến một trăm, một ngàn, một vạn v.v… cũng
đều giống hệt như nhau. Do trọn khắp nhiều lúc, sẽ có thể tự thấy trong nhiều
lúc. Tiếng Phạn gọi là Tam-ma-hế-đa, có nghĩa là Đẳng Dẫn, cũng chính là ý
nghĩa “nhiếp tâm nơi một cảnh”, tức là ý nghĩa “nhất tâm” vậy.
(Kinh)
Thứ ư đệ nhị nguyệt, phụng đồ hương, hoa đẳng, nhi dĩ tác nhiêu ích, chủng
chủng chúng sanh loại. Hựu phục ư tha nguyệt, khí xả chư lợi dưỡng.
(經)次於第二月,奉塗香花等,而以作饒益,種種眾生類。又復於他月,捨棄諸利養。
(Kinh:
Kế đó, tháng thứ hai, dâng hương bôi, hoa thảy, để làm chuyện lợi ích, cho các
loài chúng sanh. Lại ở trong tháng khác, vứt bỏ các lợi dưỡng).
Như
hạnh thế gian trong phần trước, cũng có nói “cúng dường hương bôi, hoa” v.v…
Ở đây lại nhắc tới, nhưng có ý nghĩa khác với phần trước. Do ở đây, [hành nhân]
đã đắc Đẳng Dẫn, do thanh tịnh, điều nhu, chuyện gì cũng đều có thể thành tựu.
Hễ dâng một hương, liền có thể đúng như thật trọn khắp pháp giới, trọn khắp hết
thảy chúng sanh giới, làm đủ loại lợi ích, chuyện gì cũng đều thành tựu. Như
phẩm Hồi Hướng trong kinh Hoa Nghiêm đã nói rộng tướng này. Giống như hương,
hoa, hễ làm hết thảy điều gì, cũng lại giống như thế, không gì chẳng thực hiện
thành tựu Phật sự to lớn. Lại nữa, [kinh văn nói] “tha nguyệt” (tháng
khác), tức là ở đây, thực hành hai tháng, đã đạt tới Sơ Địa, liền vứt bỏ các
lợi dưỡng. Hiểu theo mặt văn tự, tức là lìa bỏ các chuyện thuộc tám pháp nghịch
thuận, vì chúng gây trở ngại cho đạo.
Nếu
nói theo ý nghĩa bí mật, đấy là bậc đại Bồ Tát gieo thiện căn to lớn, quả báo
[của thiện căn ấy] vô tận, chẳng hiện, đạt được của báu công đức là vô lượng
pháp môn, nhưng chớ nên sanh chấp trước trong ấy. Nếu sanh tâm chấp trước lợi
dưỡng, sẽ chẳng nhanh chóng nhập chánh vị. Vì thế, cần phải bỏ lợi dưỡng ấy! Lúc
đó, hành giả lại nên đúng như lý tư duy, từ ngay cái Bồ Đề tâm ấy mà phát bi
nguyện, nhiếp theo lý để khởi lên. Vì thế nói là “như lý tư duy” (suy nghĩ đúng như lý). Ý
nghĩa “tư duy” trong ấy chính là “ta sẽ tư duy tương
ứng lý như thế để được tự tại”.
(Kinh)
Thời bỉ ư Du Già, tư duy nhi tự tại, nguyện nhất thiết vô chướng, an lạc chư
quần sanh.
(經)時彼於瑜伽,思惟而自在。願一切無障,安樂諸群生。 (Kinh:
Khi ấy, trong Du Già, tư duy được tự tại, nguyện hết thảy chẳng chướng, an lạc
các quần sanh).
Đấy
chính là phát ra bi nguyện quyết định. Cớ sao chúng sanh cùng có giác tánh như
thế mà chẳng tự thấu hiểu, phải hứng trọn đại khổ não? Liền sanh tâm đại dũng
mãnh, phải nên dùng vô số phương tiện để thành tựu [các chúng sanh ấy], nhất
định sẽ đều khiến cho [các chúng sanh] đạt đến địa vị Nhất Thiết Trí, trừ khử
hết thảy cấu chướng, khiến cho chẳng còn sót.
(Kinh)
Nhạo dục thành Như Lai, sở xưng tán viên quả.
(經)樂欲成如來,所稱讚圓果。
(Kinh:
Ưa muốn thành Như Lai, viên quả đáng ca ngợi).
Tức
là Như Lai vô lượng tri kiến, rốt ráo thành tựu phương tiện quyền biến mầu
nhiệm, khéo độ chúng sanh. Nếu chẳng đạt được điều ấy, sao có thể do một đại sự
nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời? Ta sẽ mau chóng thành tựu phương tiện
mầu nhiệm được chư Phật khen ngợi như thế!
(Kinh)
Hoặc mãn túc nhất thiết, hữu tình chúng hy nguyện, ứng lý vô chướng cái, nhi
sanh thị phan duyên.
(經)或滿足一切,有情眾希願,應理無障蓋,而生是攀緣。
(Kinh:
Hoặc thỏa hết thảy nguyện, của hữu tình chúng sanh, đúng lý, chẳng ngăn chướng,
nẩy sanh các nắm níu).
Chẳng
có chướng ngại như thế, dùng sự phan duyên (nắm níu) như thế để niệm tụng. Dùng
công đức của ta để dẹp tan hết thảy các khổ. Dùng tâm đại bi để thỏa mãn hết
thảy mong nguyện của chúng sanh, cũng có thể thành tựu chuyện dẹp trừ nỗi khổ
to lớn của họ, ban cho niềm vui trong hiện tại. Vì lẽ nào vậy? Do tự tâm của
hành giả chẳng có cấu chướng, tức là có năng lực và thế lực to lớn. Lại vì
chúng sanh mà tùy phần trừ chướng, do không có nhân duyên gây chướng ngại giữa
người khác và ta, liền có thể bất cứ chuyện gì cũng đều thành tựu. Đây chính
hạnh nguyện Phổ Hiền. Tướng ấy như thế nào? Tức là sanh nguyện đại bi như thế
đó.
(Kinh)
Bàng sanh tương đạm thực, sở hữu khổ vĩnh trừ. Thường linh chư quỷ giới, ẩm
thực giai sung mãn. Địa ngục trung thọ khổ, chủng chủng chư sở độc, đương
nguyện tốc trừ diệt. Dĩ ngã công đức cố, cập dư vô lượng môn, sổ sổ tâm tư duy,
phát quảng đại bi mẫn, tam chủng gia trì cú, tưởng niệm ư nhất thiết, tâm tụng
trì chân ngôn.
(經)傍生相噉食,所有苦永除。常令諸鬼界,飲食皆充滿。地獄中受苦,種種諸楚毒,當願速除滅,以我功德故。及餘無量門,數數心思惟,發廣大悲愍,三種加持句,想念於一切,心誦持真言。
(Kinh:
Bàng sanh ăn nuốt nhau, tất cả khổ mãi trừ. Thường khiến các quỷ giới, uống ăn
đều sung mãn. Chịu khổ trong địa ngục, đủ loại khổ sở ngặt, đều nguyện mau trừ
diệt. Do công đức của tôi, và vô lượng môn khác, tâm nhiều lượt tư duy, phát bi
mẫn rộng lớn. Ba loại câu gia trì, nghĩ tưởng đến hết thảy, tâm tụng trì chân
ngôn).
Do
ta đã sanh khởi vô lượng phước thù thắng, trong tháng khác, tức là tháng thứ ba
đã xả lợi dưỡng. Đối với trong và ngoài, đều chẳng tham chấp, thì gọi là “xả
lợi dưỡng”, nhưng đối với chuyện bên ngoài, chẳng cầu, chẳng nhận bố thí.
Xả lợi dưỡng, nhưng chẳng xả chúng sanh, do hạnh chân ngôn mà đều được thành
tựu. “Cập dư vô lượng môn, sổ sổ tâm tư duy, phát quảng đại bi mẫn. Tam
chủng gia trì cú, tưởng niệm ư nhất thiết, tâm trì tụng chân ngôn” (cùng
vô lượng môn khác, nhiều lượt tâm tư duy, phát bi mẫn rộng lớn. Ba loại câu gia
trì, nghĩ tưởng tới hết thảy, tâm trì tụng chân ngôn): Các bi nguyện ấy cũng có
vô lượng thứ, chẳng thể do trì tụng trong tháng đầu tiên và tháng thứ hai mà
cũng nói là “có thể phát nguyện như thế”. Nhưng trong hai tháng đầu, do tâm tín
giải mà thực hiện, nhưng chưa thể thành tựu. Tháng thứ ba, sở nguyện đều thành;
do vậy, hồi hướng cho mình lẫn người
khác.
Nếu lúc hành giả Chân Ngôn hiểu ý, tùy theo sự mà làm, nhiều lượt dùng nước đại
bi để gột rửa cái tâm như thế, dần dần khiến cho tâm Bồ Đề này có oai thế to
lớn. Cho tới địa vị thứ mười một trở đi, lực dụng dần dần tăng trưởng, đều do điều
này viên mãn. Tháng thứ nhất là Bồ Đề tâm, tháng kế đó là quán hình tượng của
Phật thì gọi là “câu Chánh Giác”. Tháng thứ ba, trụ trong Chân
Ngôn, lìa hết thảy các tướng, gọi là “tháng thứ ba”, cũng gọi
là “ba lạc-xoa”. Lại do được gia trì rộng lớn, tức là thần lực
gia trì của Như Lai do ba câu mà được thành.
(Kinh)
Dĩ ngã công đức lực, Như Lai gia trì lực, cập dữ pháp giới lực, châu biến chúng
sanh giới.
(經)以我功德力,如來加持力,及與法界力,周遍眾生界。
(Kinh:
Do sức công đức tôi, sức Như Lai gia trì, cùng với sức pháp giới, trọn khắp
chúng sanh giới).
Nay
do muốn hành Như Lai sự, bèn suy tưởng, tâm niệm ba câu ấy. Vì thế, kinh
nói: “Dĩ ngã công đức lực, Như Lai gia trì lực, cập dữ pháp giới lực,
châu biến chúng sanh giới” (dùng sức công đức của tôi, sức gia trì của Như Lai, cùng với sức pháp giới, trọn khắp
chúng sanh giới). Ba câu này hòa hợp, bèn
có sức gia trì rộng lớn sanh khởi. Niệm như thế rồi, hãy nên tụng niệm câu này.
Đấy chính là hết thảy chân ngôn tâm. Dùng công đức của ba câu, tùy ý lấy hoa,
hương v.v… dùng tâm niệm gia trì, như đối với hoa bèn dùng Hoa Chân Ngôn, đối
với hương bèn dùng Hương Chân Ngôn để gia trì, cho đến dẹp khổ ban vui trong
hết thảy mọi nơi, dâng hiến Phật, Bồ Tát
v.v… sẽ đều được thành. Nếu chẳng dùng bổn chân ngôn (tức Hoa chân ngôn khi
dâng hoa, Hương chân ngôn khi dâng hương v.v…) để gia trì, mà dùng minh phi [sẽ
được nói] trong phần sau thì cũng thành tựu, do sức công đức của ta trọn khắp chúng
sanh giới, do sức gia trì của Như Lai, do sức pháp giới bình đẳng.
(Kinh)
Chư niệm cầu nghĩa lợi, giai tất nhiêu ích chi. Bỉ nhất thiết như lý, sở niệm
giai thành tựu.
(經)諸念求義利,皆悉饒益之。彼一切如理,所念皆成就。
(Kinh:
Các niệm cầu nghĩa lợi, thảy đều tạo lợi ích. Hết thảy đúng như lý, sở niệm đều
thành tựu).
Do
trụ trong lý, tùy theo điều [hành nhân] hệ niệm mà thành tựu. Cho đến trừ khổ,
khổ liền trừ diệt v.v... Do sức công đức của ta, do sức gia trì của Như Lai, do
sức pháp giới bình đẳng, do ba duyên ấy hòa hợp, sẽ có thể thành tựu nghiệp
chẳng thể nghĩ bàn. Làm như thế, hãy nên biết là rộng tương ứng với lý, nên nói
là “đương đắc như lý” (sẽ được đúng như lý). Do sức bằng với
hư không, chân ngôn Hư Không Tạng Minh Phi sẽ được nói tiếp đó.
(Kinh)
Nhĩ thời, Như Lai phục thuyết Hư Không Đẳng Lực Hư Không Tạng Chuyển Minh Phi
chân ngôn viết:
(經)爾時如來復說虛空等力虛空藏轉明妃真言曰。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Như Lai lại nói chân ngôn Hư Không Đẳng Lực Hư Không Tạng Chuyển
Minh Phi rằng).
Như
hư không chẳng thể phá hoại, hết thảy chẳng thể thắng được, nên gọi là Hư Không
Đẳng Lực (sức bằng với hư
không).
Hơn nữa, Tạng là như người có kho báu lớn, thí cho người mong muốn, họ tự tại
lấy mà [người bố thí] chẳng bị nghèo thiếu. Hư không tạng của Như Lai cũng
lại giống như
thế, hết thảy chuyện lợi lạc chúng sanh đều từ trong đó sanh ra vô lượng pháp
bảo, tự tại thọ dụng, chẳng có tướng cùng kiệt, cho nên gọi là Hư Không Tạng.
Chuyển Thuận Minh: “Chuyển thuận” nghĩa là “có thể
sanh ra”. Tạng này có thể sanh ra hết thảy các Phật sự. Như bi nguyện
đã phát trước đó, tức là như khi dùng một bông hoa cúng dường, vận tâm tưởng
trọn khắp hết thảy chư Phật và phàm, thánh, đều
cùng cúng dường xong, liền hồi hướng trí Nhất Thiết Trí, thỉnh rằng: “Các
vị đã tiếp nhận con cúng thí. Nguyện do sức này, sẽ khiến cho con đạt được các
nguyện như trên”. Nguyện như thế xong, dùng chân ngôn này để gia trì,
không gì chẳng thành tựu. Trước hết là kính lễ hết thảy các đức Như Lai.
(Kinh) Nam ma tát phạ đá tha nghiệt đế phiêu, vi
thấp phạ, mục khiết tệ (xảo môn đẳng, diệc thị chủng chủng môn đẳng dã), tát
phạ tha (nhất thiết dã) khiếm (không dã, thông thượng, ngôn Nhất Thiết Trí
Không dã. Thử thị chủng tử tự dã) ổ đặc yết để (sanh dã) tát phán ra hê môn
(phổ biến dã), già già na kiếm (hư không dã), sa ha. Trì thử tam chuyển, tùy bỉ
sở sanh thiện nguyện, giai diệc thành tựu.
(經)南麼薩嚩怛他蘖帝鏢。微濕嚩目喫弊(巧門等,亦是種種門等也)。薩嚩他(一切也)。欠(空也,通上言一切智空也,此是種子字也)。鄔特揭底(生也)。薩泮囉醯門(普遍也)。伽伽那劍(虛空也)。莎訶。持此三轉,隨彼所生善願皆亦成就。
(Kinh: Nam ma tát phạt đá tha nghiệt đế phiêu (Namaḥ
sarva-tathāgatebhyo). Vi thấp-phạ mục khiết tệ
(viśvamukhebhyaḥ, môn hay khéo, cũng là các thứ môn), tát phạ tha
(sarvathā, hết thảy) khiếm (khaṃ, không, thông với Nhất Thiết Trí
Không trong phần trên. Đây là chữ chủng tử). Ổ đặc-yết để (udgate, sanh),
tát-phán ra hê môn (spharahīmaṃ, phổ biến), già già na kiếm
(gaganakaṃ, hư không), sa ha (svāhā). Trì minh chú này, ba lượt
chuyển, các thiện nguyện sanh bởi đó cũng đều được thành tựu).
Đây
là ý nghĩa Hư Không Đẳng Lực của Hư Không Tạng, giống như hết thảy các pháp
đều từ Không
mà sanh ra các vật trọn khắp hết thảy hư không. “Trì thử tam chuyển” (trì
minh chú này, ba lượt chuyển) tức là dùng một hoa để dâng hiến, không gì chẳng
trọn khắp pháp giới. Trên là hiến cúng hết thảy thánh hiền, dưới là thí cho hết
thảy hữu tình. “Tùy bỉ sở sanh thiện nguyện, giai diệc thành tựu” (bất
cứ thiện nguyện nào sanh bởi đó cũng đều thành tựu) tức là dùng chân ngôn này
để gia trì, [hết thảy các thiện nguyện] đều được thành tựu. Như từ trong kho,
tự lấy vật báu, không gì chẳng tùy tâm. Nếu tụng minh chú này ba lượt, hễ nghĩ
đến chuyện gì, chuyện ấy cũng thành tựu. Phàm thứ dâng cúng như hoa, hương v.v…
do ba sức hồi hướng, lại dùng minh chú gia trì, hết thảy đều tùy ý mà thành. Có
nghĩa là dùng Bi hoa để dâng lên hết thảy chư Phật, sẽ tự tại thành tựu.
(Kinh)
Hành nhân ư mãn nguyệt, thứ nhập tác trì tụng.
(經)行人於滿月,次入作持誦。
(Kinh: Hành
nhân ngày trăng tròn, kế đó, vào trì tụng).
Trước
đó đã cúng dường, thừa sự xong, đã đạt được tướng thành tựu. Do tướng trên đây,
sau đó mới trong ngày Mười Lăm của bạch nguyệt, thực hiện pháp trì tụng, tức là [thực hiện] vào ngày trăng
tròn.
(Kinh)
Sơn phong, ngưu lan trung, hàn lâm hoặc hà châu, tứ cù, độc thụ hạ, Mang-đát-rị
thiên thất.
(經)山峯牛欄中,寒林或河洲,四衢獨樹下,忙怛哩天室。
(Kinh:
Đỉnh núi, trong chuồng bò, rừng lạnh, hoặc bãi sông, ngã tư, cội cây lẻ, miếu
thờ Mang-đát-rị[11]).
Tùy
theo chuyện thượng, trung, hạ, mà thực hiện pháp thành tựu. Thượng sự thì [làm trên] đỉnh núi, trung sự
thì làm ở chỗ nhốt trâu, bò, hạ sự thì làm trong rừng, hoặc bến sông, cho tới
ngã tư, miếu thờ trời v.v… đều có thể áp dụng cho các pháp thượng, trung, hạ
thành tựu. Hoặc tùy ý ở chỗ ưa thích mà làm, ở các chỗ như đỉnh núi v.v… mà tạo
Mạn-đồ-la.
(Kinh)
Nhất thiết kim cang sắc, nghiêm tịnh đồng kim cang, bỉ trung chư chướng giả,
nhiếp phục tâm mê loạn.
(經)一切金剛色,嚴淨同金剛,彼中諸障者,攝伏心迷亂。
(Kinh:
Hết thảy kim cang sắc, nghiêm tịnh như kim cang. Kẻ gây chướng trong đó, nhiếp
phục, tâm mê loạn).
Nơi
tầng thứ nhất, giáp vòng đều vẽ hình chày kim cang. Cái đàn ấy được làm gồm ba
lớp, đều dùng [hình chày] kim cang làm ranh giới. Thần thủ hộ các phương, chư
Phật, Bồ Tát v.v… sẽ được nói trong phần sau; ở đây chưa nói phân biệt. Trong
ấy, xếp đặt các vị tôn thánh, nói chung là giống như đã liệt kê trong phần
trước, chỉ dùng thêm hình chày kim cang đặt liên tiếp để làm ranh giới là khác
biệt mà thôi! Nói “nhất thiết kim cang sắc” (hết thảy màu kim
cang) tức là vẽ hình chày kim cang vòng quanh để làm ranh giới, đều vẽ sao cho
thanh tịnh, chẳng sai sót. “Chẳng sai sót” tức là [hình vẽ]
viên mãn, chỉnh tề, đoan nghiêm, đẹp đẽ. “Nghiêm tịnh đồng kim cang”:
Các hình chày kim cang giáp vòng như thế đều có màu vàng. Ở đây, có ba sự giống
như kim cang: Sắc đồng kim cang, thể đồng kim cang, danh đồng kim cang. Vì thế
nói “nghiêm tịnh đồng kim cang” tức là thanh tịnh giống như
kim cang. Nói “bỉ trung chư chướng giả, nhiếp phục tâm mê loạn” (kẻ
gây chướng ở trong ấy sẽ bị nhiếp phục, tâm mê loạn), do ba sự ấy giống như kim
cang, không gì có thể phá hoại được, không thể thắng được, không thể hàng phục
được. Do tạo kim cang giới trọn đủ nghiêm tịnh như thế, khiến cho những kẻ gây
chướng đều bị mê
hoặc, chẳng dám quấy nhiễu. Đã được lìa chướng, tức là dược vật dùng làm pháp
thành tựu đều được thành tựu.
(Kinh)
Tứ phương tương châu táp, nhất môn cập thông đạo, kim cang hỗ liên thuộc, kim
cang kết tương ứng.
(經)四方相周匝,一門及通道,金剛互連屬,金剛結相應。
(Kinh:
Bốn phương đều giáp vòng, một cửa thông lối đi, kim cang xếp liên tiếp, tương
ứng kim cang kết).
Kinh
nói: “Tứ phương tương châu táp” có hai nghĩa, tức là làm đàn
tràng có hình vuông ngay ngắn, và kim cang ấn (hình chày kim cang) cũng được
đặt khắp bốn phía [của đàn] ứng với bốn mặt. Nói “nhất môn cập thông
đạo, kim cang hỗ liên thuộc, kim cang kết tương ứng”: “Kim cang
kết” nghĩa là xếp đặt chày kim cang giáp vòng như trên, đều là đặt
liên tiếp nối đầu nhau; đó chính là ý nghĩa “kim cang kết”. Xếp
đặt sao cho cửa và “duyên” tương ứng (“duyên” là
như trong phần trên đã nói: Mở một đường trống để thông với bên ngoài), tức là
cái cửa ấy tương ứng với từng sự. Thượng thành tựu thì cửa mở hướng về phía
Đông. Trung thành tựu thì mở cửa về hướng Bắc hoặc Tây. Hạ thành tựu thì mở cửa về hướng
Nam. Ranh giới [của cái cửa ấy] tiếp nối với [ranh giới do các chày] kim cang
[hợp lại bao quanh đàn tràng], cũng là ý nghĩa kim cang.
(Kinh)
Môn môn nhị thủ hộ: Bất Khả Việt, Tương Hướng, nghĩ thủ nhi
thượng chỉ, châu mục, phẫn nộ hình. Ân cần họa ngung giác,
Thâu-la diễm quang ấn. Trung diệu kim cang tòa, phương vị chánh tương trực. Kỳ
thượng đại liên hoa, bát diệp tu nhụy phu.
(經)門門二守護,不可越相向,擬手而上指,朱目奮怒形,慇懃畫隅角,輸羅焰光印,中妙金剛座,方位正相直,其上大蓮華,八葉鬚蘂敷。
(Kinh:
Mỗi cửa hai thủ hộ: Bất Khả Việt (Durdharṣa), Tương Hướng (Abhimukha). Giơ tay chỉ lên trên,
mắt đỏ, dáng phẫn nộ. Cẩn trọng vẽ các góc, ấn Thâu-la rực lửa. Giữa: Tòa diệu kim cang. Phương vị đều ngay ngắn.
Trên đặt hoa sen lớn, tám cánh, phô tuy nhụy).
Để
làm vật thành tựu, thủ hộ là quan trọng nhất. Coi chuyện thủ hộ cửa là trọng
yếu, tức là như trong phần trước đã nói: “Oai quang nan thị cập, Tương
Hướng thủ môn giả” (oai quang khó thể nhìn ngó, hai vị Tương Hướng
canh giữ cửa). Mỗi mỗi tướng đều là ấn (ấn sẽ được nói ở phần sau), cả hai [vị
thủ hộ cửa ấy] đều là sắc trắng và đỏ, có hình dạng tột bậc phẫn nộ. “Ân
cần họa ngung giác, Thâu La diễm quang ấn” (Cẩn trọng vẽ hình ấn
Thâu-la có quang minh như ngọn lửa cháy rực [bao quanh] ở mỗi góc đàn),
[Thâu-la (Śūla)] tức là chày kim cang một
nhánh, chỉ đặt ở các góc đàn, có vầng sáng hình ngọn lửa. “Trung diệu
kim cang tòa, phương vị chánh tương trực, kỳ thượng đại liên hoa, bát diệp tu
nhụy phu” nghĩa là: Chính giữa Mạn-đồ-la, đặt tòa kim cang yết-ma chữ
thập[12], sao cho [các
đầu mũi nhọn của chày kim cang] đối diện trực tiếp với bốn phương. Trên đó, vẽ
hoa sen lớn có tám cánh và các tua nhụy (làm bằng chất kim cang). Đấy chính là kim cang tòa, vì thế nói “giống
như kim cang”.
(Kinh)
Đương kết Kim Cang Thủ, kim cang chi huệ ấn. Khể thủ nhất thiết Phật, sổ sổ
kiên thệ nguyện, ưng hộ trì thị xứ, cập tịnh chư dược vật.
(經)當結金剛手,金剛之慧印,稽首一切佛,數數堅誓願。應護持是處,及淨諸藥物。
(Kinh:
Nên kết Kim Cang Thủ, tức Kim Cang huệ ấn. Đảnh lễ hết thảy Phật, thệ nguyện
nhiều lượt vững. Nên hộ trì nơi đó, tịnh hóa các dược vật).
Hãy
nên kết Kim Cang Ngũ Cổ Ấn của ngài Kim Cang Thủ, nên nói là “kim cang
tam-muội huệ kim cang ấn”. Nói “khể thủ nhất thiết Phật” (đảnh
lễ hết thảy Phật), [nghĩa là] ở ngay nơi sẽ thủ hộ dược vật, hoặc tác tịnh,
trong khi làm lễ, hãy nên phát ra bi nguyện rộng lớn như trên đã nói. “Sổ
sổ kiên thệ nguyện” (nhiều lượt phát thệ nguyện vững vàng) tức là tự
thệ vận tâm, thệ nguyện rộng khắp, chẳng vì chính mình, vì hết thảy chúng sanh
mà thành tựu dược vật ấy. Nguyện do sức gia trì sẽ khiến cho mau chóng thành
tựu, vì vật ấy được thành tựu,
sẽ có thể lợi ích hết thảy chúng sanh. “Ưng hộ trì thị xứ, cập tịnh chư
dược vật” (Hãy nên hộ trì nơi ấy, và tịnh trị các dược vật): Có nhiều
pháp, trong Quảng Bổn có nói. Phàm khi thực hiện pháp thành tựu dược vật, cần
phải hiểu thứ tự của pháp dụng. Dẫu cầu thành tựu dược vật để chính mình sử
dụng thì vẫn có phương quỹ (方軌: pháp tắc, khuôn khổ, nghi
thức), cho đến tác hộ (gia trì để thủ hộ), tác tịnh (tịnh trị bản thân và vật
cúng dường, vật muốn làm pháp thành tựu) đều có thứ tự pháp dụng và cách tẩy
rửa v.v… Trong kinh này không nói cặn kẽ, cần phải tìm hiểu thêm [từ các kinh
khác] (hoặc dùng theo phương cách
đã nói trong kinh Tô Tất Địa v.v…)
(Kinh)
Ư thử thời trì tụng, thanh tịnh vô chướng ngại. Hoặc ư trung dạ phần, hoặc ư
nhật xuất thời, bỉ dược vật đương chuyển, viên quang phổ huy diễm. Chân Ngôn
giả tự thủ, du bộ ư đại không, trụ thọ đại oai đức, ư sanh tử tự tại. Hành ư
thế gian đảnh, hiện chủng chủng sắc thân.
(經)於此時持誦,清淨無障礙。或於中夜分,或於日出時。彼藥物當轉,圓光普暉焰,真言者自取,遊步於大空,住壽大威德,於生死自在,行於世界頂,現種種色身。
(Kinh: Lúc
bấy giờ trì tụng, thanh tịnh vô chướng ngại. Hoặc vào lúc giữa đêm, hoặc khi
mặt trời mọc, dược vật ấy sẽ chuyển, viên quang rực sáng khắp. Chân Ngôn giả tự
lấy, dạo bước trên hư không, sống lâu, oai đức lớn, tự tại trong sanh tử. Đi
trên đỉnh thế giới, hiện đủ loại sắc thân).
Tướng
thành tựu có thượng, trung, hạ. Nếu đạt được thành tựu vô chướng ngại, thượng
thành tựu có ba tướng chuyển, tức là đầu đêm thì sanh ra hơi ấm, giữa đêm khói
bốc lên, tới canh năm thì có ngọn lửa xuất hiện. Trung thành tựu thì có hai
tướng, ngoại trừ tướng ngọn lửa xuất hiện. Hạ thành tựu chỉ có một tướng, tức
là chỉ sanh ra hơi ấm. “Chuyển” tức là từ ít mà được nhiều, từ
hơi ấm mà có ngọn lửa v.v… Đã được thành tựu, “Chân Ngôn giả tự thủ, du
bộ ư đại không” (hành giả Chân Ngôn tự lấy [dược vật ấy], bước đi trên
không trung), [tức là hành giả] hoặc ăn, hoặc bôi, chấm [dược vật lên thân]
v.v… sẽ tự tại dạo trong các cõi Phật, từ cõi này sang cõi khác. “Trụ
thọ, đại oai đức”: Liền được thọ trọn vô lượng kiếp số, oai quang tự
tại. “Ư sanh tử tự tại” tức là đủ thứ tự tại trong sanh tử. Đó
gọi là “chân Phật tử” (“đi trên thế giới” (chánh kinh
ghi là “hành ư thế giới đỉnh”) tức là đi qua các thế giới). Vật đã thành tựu rồi, dùng Kim Cang
Ấn để thủ hộ tự thân, thủ hộ Bổn Tôn, thủ hộ vật [thành tựu ấy] rồi mới lấy,
chia thành năm phần, tức là thầy, tiên nhân đã thành tựu trước, trợ bạn (người
giúp đỡ, phụ tá), chính mình, và Phật. Vật được sanh thêm từ đó, nên dùng cho
Tam Bảo. Vật thành tựu trước, nếu có tiên nhân đến lấy, hãy nên cho họ. Nếu
chẳng đến lấy, chia thành hai phần: Một phần cho trợ bạn, một phần cho chính
mình. Vật dành cho thầy, nếu thầy ở phương khác, hãy nên giữ lấy, đợi thầy đến
sẽ đưa cho. Nếu thầy chẳng còn, hãy [dùng vật ấy] làm công đức nơi thầy sanh
ra. Những thứ [dùng làm vật thành tựu] như đao v.v… chẳng thể chia, cũng nên
lắng lòng tưởng chia sẻ. Từ đầu đến cuối, đều dùng Kim Cang để tự thủ hộ và thủ
hộ vật cho đến lúc lấy. Nói “hành ư thế giới đảnh, hiện chủng chủng sắc
thân” (đi trên đỉnh thế giới, hiện đủ loại sắc thân) tức là vì các
chúng sanh mà làm Phật sự to lớn. Cúng dường thuốc cũng có phương pháp, tức là
dâng hiến.
(Kinh)
Cụ đức cát tường giả, triển chuyển nhi cúng dường. Chân ngôn sở thành vật, thị
danh vi Tất Địa. Dĩ phân biệt dược vật, thành tựu vô phân biệt.
(經)具德吉祥者,展轉而供養,真言所成物,是名為悉地。以分別藥物,成就無分別。
(Kinh:
Bậc đủ đức cát tường, xoay vần để cúng dường. Vật do chân ngôn thành, được gọi
là Tất Địa. Do phân biệt dược vật, thành tựu vô phân biệt).
Đã
được thành tựu, mang [vật thành tựu ấy] tới mười phương, tùy ý dâng lên mười
phương Phật. Đối với chư Phật, A-xà-lê, và trợ bạn, đều có phương pháp để phân
chia, hãy nên thưa hỏi [để làm cho đúng pháp tắc]. “Chân ngôn sở thành
vật, thị danh vi Tất Địa” (Vật được thành tựu bởi chân ngôn, đó gọi là
Tất Địa): Nếu đạt được thành tựu như thế thì gọi là “thành tựu có phân
biệt”. Do vì các sự như dược vật ấy, vẫn là pháp có tướng thành tựu,
nên gọi là “thành tựu có phân biệt”. “Dĩ phân biệt dược
vật, thành tựu vô phân biệt” (do phân biệt dược vật, thành tựu chẳng
phân biệt): Do có phân biệt mà đạt được thành tựu vô phân biệt. Cái có thể phân
biệt làm nhân, nương vào cái “có phân biệt” đó mà đạt được cái
quả vô phân biệt. Cái
quả vô vi, vô tướng, vô nhiễm chẳng thể nghĩ bàn tuy chẳng do cái nhân mà
thành, nhưng do
có phân biệt để làm
nhân mà thành tựu cái quả vô đắc, vô vi này.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Nhất thiết thế giới chư hiện tại đẳng Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng
Giác, thông đạt Phương Tiện Ba La Mật Đa, bỉ Như Lai tri nhất thiết phân biệt
bổn tánh Không, dĩ Phương Tiện Ba La Mật Đa lực cố, nhi ư vô vi dĩ hữu vi vi
biểu, triển chuyển tương ứng, nhi vị chúng sanh thị hiện biến pháp giới.
(經)祕密主!一切世界諸現在等如來、應、正等覺,通達方便波羅蜜多,彼如來知一切分別本性空,以方便波羅蜜多力故,而於無為以有為為表。展轉相應,而為眾生示現遍法界。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Hết thảy Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác thuộc hiện tại trong hết
thảy các thế giới, thông đạt Phương Tiện Ba La Mật Đa, các đức Như Lai ấy biết
bổn tánh của hết thảy phân biệt là Không, do sức của Phương Tiện Ba La Mật Đa,
trong vô vi dùng hữu vi để biểu thị, xoay vần tương ứng, vì chúng sanh thị hiện
trọn khắp pháp giới).
Tức là cái quả vô vi, do
phương tiện hữu vi mà có
thể thành tựu chuyện ấy chẳng thể nghĩ bàn. Hiện tại, vị lai, quá khứ tam thế
Phật, đều do thông đạt Phương Tiện Ba La Mật mà nói pháp này; đó là một. Nêu
lên tam thế Phật, muốn nói rõ [các Ngài] “cùng dùng pháp này để nhập”. Tuy lập ra
phương tiện hữu vi này, nhưng hiểu rõ bản tánh của pháp phân biệt này thường
Không! Pháp sanh khởi bởi nhân duyên như thế lìa “sanh, diệt, đoạn, thường, một, khác, đến,
đi”, chỉ như huyễn hóa,
chẳng khác Trung Đạo. Nếu lìa bỏ điều này để cầu một cái Thể vô vi nào khác, sẽ
chẳng thể được, do tánh của vô vi chẳng khác hữu vi. Do liễu đạt pháp duyên khởi rất sâu như thế, sẽ
có thể từ ngay pháp hữu vi này mà thành tựu cái quả vô vi. Vì thế, hết thảy tam
thế Như Lai do sức phương tiện, tuy chứng pháp giới mà có thể từ cái quả có bản
thể “vô vi, vô tác”, dùng hữu vi làm các quyến thuộc. Như Đại
Nhật Như Lai từ trong đức tự chứng này, do sức gia trì, từ trong vô vi mà dùng
hữu vi để biểu đạt, bổn tánh chẳng hề tạo tác, do có tạo tác mà có thể thành tựu vô
vi. “Triển chuyển tương ứng”: Khi chưa trì tụng thì tánh vốn bất
tịnh. Do trì tụng liền đạt được thanh tịnh, có thể độ chúng sanh, cho nên hiện
thân chẳng thanh tịnh, lại tạo nhân duyên thanh tịnh cho người khác, bèn gọi
là “triển chuyển tương ứng”. Lại từ vô vi sanh ra hữu vi để
biểu đạt. Do vậy, hiện ra các Kim Cang và Bồ Tát nhiều như số vi trần trong
mười thế giới, mỗi mỗi đều dùng môn Chân Ngôn để hướng dẫn, tiếp độ chúng sanh, đều khiến cho họ đạt
tới cái quả vô vi. Dùng phương tiện ấy trọn khắp pháp giới, ứng với trọn khắp
chúng sanh, khiến cho họ đều đạt được nghĩa lợi.
(Kinh)
Linh đắc kiến pháp an lạc trụ, phát hoan hỷ tâm, hoặc đắc trường thọ, ngũ dục
hy hý nhi tự ngu lạc, vị Phật Thế Tôn nhi tác cúng dường. Chứng như thị cú,
nhất thiết thế nhân sở bất năng tín. Như Lai kiến thử nghĩa lợi cố, dĩ hoan hỷ
tâm, thuyết thử Bồ Tát chân ngôn hành đạo thứ đệ pháp tắc.
(經)令得見法安樂住、發歡喜心,或得長壽,五欲嬉戲而自娛樂,為佛世尊而作供養。證如是句,一切世人所不能信。如來見此義利故,以歡喜心說此菩薩真言行道次第法則。
(Kinh: Khiến cho
được thấy pháp, trụ trong an lạc, phát tâm hoan hỷ, hoặc được sống lâu, tự được
vui thỏa trong ngũ dục, cúng dường Phật Thế Tôn. Chứng câu như thế, hết thảy
người đời chẳng thể tin. Như Lai do thấy nghĩa lợi ấy, dùng cái tâm hoan hỷ để
nói pháp tắc hành đạo chân ngôn theo thứ tự này của bậc Bồ Tát).
Tức
là các đức Như Lai do phương tiện, từ vô vi giới, dùng sức gia trì chẳng xả
chúng sanh, tùy thuận chúng sanh mà thị hiện tu các hạnh, hoặc khiến cho họ
thấy pháp, trụ trong an lạc hạnh, phát tâm hoan hỷ (tức là Pháp Hỷ Sơ Địa).
Hoặc đạt được trường thọ, tức là trong vô số kiếp, luôn được thấy đức Phật xuất
thế. Hoặc có được ngũ dục thanh tịnh tốt đẹp để tự vui sướng, lại có thể cúng
dường hết thảy Như Lai. Kẻ chẳng có phương tiện, sẽ chẳng thể tin chuyện này.
Họ nghĩ như thế này: “Cái Thể của chân ngôn giống như pháp giới, là vô vi, vô
tác, sao có thể thành tựu chuyện này? Nếu sanh khởi chuyện này, tức là hữu
tướng phân biệt, sao có thể tương ứng với lý cho được?” Vì thế, sanh tâm hủy
báng. Nói “Phật có bí mật khó hiểu”, tức là nói kẻ do chẳng có
phương tiện, cho nên chẳng thể hiểu. Nhưng ở đây, do tâm tự tại mà nói đến
trường thọ. Thọ lượng như thế chính là thọ mạng nơi Pháp Thân của Như
Lai. “Ngũ dục” tức là Tứ Vô Lượng (từ, bi, hỷ, xả) và Bồ Đề
tâm, hết thảy thánh nhân dùng các hiện pháp ấy để tự vui thỏa. Cúng dường Như
Lai chính là chân pháp cúng dường Pháp Thân Phật. Nếu hành giả nương vào phương
tiện duyên sanh rất sâu của Phật để đạt được thành tựu trong pháp thế gian, tức
là từ trong ấy quán bổn tánh Không; đấy chính là thành tựu vô vi. Phàm phu sẽ
chẳng thể tin pháp chẳng thể nghĩ bàn như thế, nhưng chư Phật Như Lai và các vị
Bồ Tát do thấy nghĩa lợi này, nói ra thứ tự trong đạo chân ngôn hạnh này, chớ
nên báng bổ là chẳng có!
(Kinh)
Hà dĩ cố? Ư vô lượng kiếp, cần cầu tu chư khổ hạnh sở bất năng đắc, nhi Chân
Ngôn môn hạnh đạo chư Bồ Tát tức ư thử sanh nhi hoạch đắc.
(經)何以故?於無量劫勤求修諸苦行所不能得,而真言門行道諸菩薩即於此生而獲得。
(Kinh:
Vì sao vậy? Trong vô lượng kiếp, siêng cầu tu các khổ hạnh mà chẳng thể đạt
được, nhưng các Bồ Tát do hạnh đạo của Chân Ngôn môn liền đạt được ngay
trong đời này).
Như
các vị Bồ Tát khác vì cầu đạo vô thượng, hành hạnh khó, hạnh khổ như cứu đầu
cháy trải qua vô lượng kiếp, vẫn chưa thể đạt được thành tựu như thế. Hành giả
Chân Ngôn nếu trọn đủ phương tiện, sẽ có thể thành tựu thánh quả trong một đời.
Do biết ý nghĩa của mười thí dụ về duyên khởi rất sâu, dùng các nguyện thuộc về
Chân Ngôn để tạo tác đủ loại thành tựu, nhưng chẳng chấp trước, chẳng khác nào
[sẽ thành tựu] vi diệu nhanh chóng các pháp như thế.
(Kinh)
Phục thứ Bí Mật Chủ! Chân ngôn môn tu Bồ Tát hạnh Bồ Tát, như thị Kế-đô,
Khiết-già, tán, cái, lý tỷ, Chân Đà Ma Ni, cập An Thiện Na dược, Lô Giá Na
đẳng, trì tam lạc-xoa, nhi tác thành tựu, diệc đắc Tất Địa.
(經)復次祕密主!真言門修菩薩行菩薩,如是計都朅伽、傘蓋履屣、真陀摩尼,及安膳那藥、盧遮那等,持三落叉而作成就,亦得悉地。
(Kinh:
Lại này Bí Mật Chủ! Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, đối với các thứ
Kế-đô (Ketu, phan), Khiết-già (Khaḍga)[13], lọng, tàn, giày dép, Như Ý
Châu, và thuốc An Thiện Na (Añjana)[14], Lô Già Na (Rocanā)[15] v.v… trì ba lạc-xoa để làm
thành tựu, cũng đạt được Tất Địa).
Kế
đó, nói về dược vật
được thành tựu, tức là như trong phần trước [đã nói], trước hết là [niệm tụng]
một lạc-xoa. Tháng thứ hai trì tụng xong, tạo Mạn-đồ-la. Trong đó, đặt vật muốn
được thành tựu để niệm tụng, lại [trì tụng] ba lạc-xoa mới thành. Tọa vị của
chư tôn thánh trong Mạn-đồ-la ấy giống như Đại Bi Thai Tạng. Vì vậy, ở đây
không nhắc lại. Nhưng đối với vật muốn được thành tựu đặt ở trong ấy, đặt Đại
Nhật Như Lai ở góc. Tràng thì dùng trúc làm sào, dùng vải sạch buộc vào, lại
buộc rủ xuống từ một
trượng trở lên,
giống như phan, phía trên làm thành hình nhiều tầng. Trên đó, đặt bạt-chiết-la
(chày kim cang). Đao thì dùng thép tinh luyện làm sống đao và cán. Tàn (lọng
che) thì có thượng, trung, hạ thành tựu, tức là [làm bằng] vàng, bạc, lông chim
công. Giày, dép làm bằng da, trước hết phải xông, gột đủ cách khiến cho cực
thanh tịnh, không có mùi. Lại còn dùng thuốc để chế biến, khiến cho lửa đốt
không cháy, lại cực thơm thì mới dùng được. Báu Như Ý thì lấy chất báu sạch sẽ,
tốt đẹp đặt ở trên tràng. Thuốc nhỏ mắt thì dùng thuốc An Thiện Na để làm. Thuốc
An Thiện Na có hai loại, một
loại là cực nhẹ, có thể nổi trên mặt nước. Ngưu hoàng thì lại có vô lượng loại[16], tức là không thanh, châu sa, hùng
hoàng, thư hoàng v.v… đều có thể thành tựu.
Lại
còn vô lượng vật như chày kim cang v.v… cũng có thể thành tựu. Đại Bổn có nói
phương quỹ đầy đủ, kinh Tô Tất Địa cũng có nói thứ tự [tác pháp]. Như giày dép
nếu được thành tựu, sẽ có thể mang vào chân, dạo các cõi Phật vô ngại. Các thứ
như thuốc nhỏ mắt v.v… thành tựu, liền thấy mười phương cõi Phật, liền có thể
vọt lên không, dạo trong mười phương cõi Phật. Những thứ khác có thể suy ra mà
hiểu. Lại còn có trường hợp vẽ hình đủ loại chim, thú, tùy ý chọn lấy một loại nào,
tác pháp thành tựu, sẽ liền có thể cưỡi lên chúng, tự tại đến mười phương cõi.
Hoặc dùng pháp gia trì đồng nam, đồng nữ, cũng khiến cho chúng nó thành tựu để
làm người hầu hạ, theo ta dạo khắp mười phương cõi. Ở phương Tây, có một người
thành tựu, dẫn năm trăm người vọt lên không mà đi, chẳng biết đi về đâu! Pháp
này thành tựu tức là Trì Minh Tiên. Vật ấy tùy theo lòng mong muốn mà làm, khi
người ấy trì tụng cũng đắc cảnh giới, khiến cho làm các vật như thế này, như
thế nọ. Hoặc có thể vận tâm làm vật ấy thì cũng được thành tựu!
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Nhược cụ phương tiện thiện nam tử, thiện nữ nhân, tùy sở nhạo cầu,
nhi hữu sở tác, bỉ duy tâm tự tại, nhi đắc thành tựu.
(經)祕密主!若具方便善男子善女人,隨所樂求而有所作,彼唯心自在而得成就。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân trọn đủ phương tiện, tùy theo ý
thích, mong cầu mà thực hiện, chỉ do tâm tự tại mà được thành tựu).
Người
đời chẳng thể tin tưởng. Nói “người ấy đạt được” tức là nói về
người thực hiện pháp thành tựu ấy. [Người đời] chẳng thể tin tưởng các chuyện
hiếm lạ đều có thể đạt được. Vì thế nói “thiện nam, thiện nữ trọn đủ
phương tiện muốn cầu vật, nhưng tự tâm tự tại, chuyện hy hữu
chẳng thể tin sẽ đều có thể đạt được”, đạt được thành tựu
chỉ [vì lý do] như
thế mà thôi! Nói “tự tâm của người ấy tự tại, chỉ thành tựu như thế” nghĩa
là tùy theo lòng mong muốn, duy tâm chuyển biến mà được thành tựu. “Duy” là
chỉ dùng tự tâm, chẳng nhờ vào các duyên khác. “Duy” cũng có
nghĩa là “tạm”, [ý nói] tâm vừa mới khởi niệm liền thành tựu.
(Kinh) Bí
Mật Chủ! Chư nhạo dục nhân quả giả, bí mật chi pháp phi bỉ ngu phu chi sở năng
tri chân ngôn chư chân ngôn tướng. Hà dĩ cố?
(經)祕密主!諸樂欲因果者,祕密之法非彼愚夫之所能知真言諸真言相。何以故?
(Kinh: Bí
Mật Chủ! Đối với những kẻ ưa thích, mong muốn nhân quả, những kẻ ngu
phu đó sẽ chẳng thể biết chân ngôn và tướng của chân ngôn trong pháp bí mật
được. Vì sao vậy?)
Nếu
có người đối với hạnh Chân Ngôn ấy mà nghĩ như thế này: “Ta nay hành cái nhân
như thế, sẽ đạt được cái quả như thế”. Hãy nên biết: Như thế chẳng phải là
chánh thuyết, chỉ là so đo hư vọng của phàm phu! Vì lẽ nào vậy? Có các ngoại
đạo nói “hết thảy các pháp từ Ngã mà sanh. Nếu Tự Tại Thiên vui thích như thế
thì sẽ ban cho. Chẳng vui thích thì chẳng cho”. Người như thế chẳng thể hiểu
đạo này! Phải nên nói “vạn vật đều sanh từ các nhân”. Nếu sanh
từ các nhân, cái nhân ấy sẽ có tánh. Nếu có tự tánh, tức là đọa vào Thường
Kiến. Thường pháp sao có thể sanh cho được? Nếu nhân diệt, quả sanh, thì là
pháp đoạn diệt, sao có thể sanh cho được?
(Kinh)
Thuyết nhân phi tác giả, bỉ quả tắc bất sanh.
(經)說因非作者,彼果則不生。
(Kinh: Nói
nhân chẳng phải là người làm, quả ấy sẽ chẳng sanh).
Ý
nói “nhân” là Nhân Không. Do cái nhân đã là Không, há có quả?
Vì thế, Trung Luận và Đại Trí Độ Luận đã rộng phá [chấp trước này]. Hãy nên
biết: Dùng trí để quán sát cái nhân ấy, còn chẳng thể thấu suốt cội nguồn. Cái
nhân ấy không nương vào đâu. “Không nương vào đâu” tức là vốn
sẵn bất sanh. Cái nhân vốn sẵn bất sanh, sao có thể sanh ra quả cho được? Do
vậy, cũng giống như thế, cái quả vốn bất sanh.
(Kinh)
Thử nhân nhân thượng không, vân hà nhi hữu quả?
(經)此因因尚空,云何而有果。
(Kinh:
Do cái nhân ấy còn là không, làm sao có quả cho được?)
Ý
nói: Cái nhân chẳng thật có. Nhân đã là chẳng chân thật, trọn chẳng thể sanh ra
cái quả chân thật; hãy nên biết cái quả vốn bất sanh. Lại nữa, bản tánh của cái
nhân ấy là không tịch; hãy nên biết cái quả cũng như thế. Nếu đối với pháp
duyên khởi như thế, mà nói “có nhân, có quả”, tức là Biến Kế
Sở Chấp, đọa vào “đoạn, thường, một, khác”, chẳng nhập Trung
Đạo. Vì thế, chứng biết chân ngôn như thế vĩnh viễn lìa khỏi nhân nghiệp, chính
là pháp giới (tức bất tư nghị giới).
(Kinh)
Đương tri chân ngôn quả, tất ly ư nhân nghiệp.
(經)當知真言果,悉離於因業。
(Kinh: Nên
biết cái quả của chân ngôn, đều lìa khỏi
nhân nghiệp).
Nói
rõ nhân chính là pháp “có phương cách để thực hiện”. Nhân đã là hữu tác, hãy
nên biết quả cũng là hữu sở tác. Đã là được thực hiện, há có thể trở thành chân
thật ư? Hãy nên biết cái quả lìa khỏi nhân nghiệp vậy.
(Kinh)
Nãi chí thân chứng xúc, vô tướng Tam-ma-địa.
(經)乃至身證觸,無相三摩地。
(Kinh:
Cho đến thân chứng, chạm vô tướng Tam-ma-địa).
Ý
nói các tướng nhân quả v.v… như thế ấy do vọng tưởng mà có. Chánh quán sát thì [sẽ thấy] chúng vốn chẳng
trụ. Do chẳng trụ nên quả thể (Thể của cái quả) chẳng sanh, tức là giống như vô
vi. Do vậy, nếu hành giả nghĩ như thế này: “Ta tụng chân ngôn, tu Chân
Ngôn hạnh, sẽ được thành tựu cái quả” chỉ là tự dối mình! Nếu hành giả
Chân Ngôn ấy tuy từ duyên khởi mà thật sự vô tác, vốn sẵn là pháp giới, vô
sanh, vô diệt, chẳng tịnh, chẳng nhiễm như thế, sao có thể là nói “đạt
được thành tựu?”
(Kinh)
Chân Ngôn giả đương đắc, Tất Địa tùng tâm sanh,
(經)乃至身證觸,無相三摩地。
(Kinh:
Người tu Chân Ngôn sẽ đạt được Tất Địa từ tâm sanh).
Hãy
nên biết hành giả Chân Ngôn chỉ dùng phương tiện này để tự tịnh cái tâm. Nếu ba
nghiệp thanh tịnh, sẽ ở trong ấy, tự được hiểu rõ rồi tự giác ngộ. Ví như có
người trong mộng tu hành các thứ Lục Độ, thanh tịnh cõi Phật; tỉnh giấc, sẽ
thấy chẳng có tướng thành tựu cái quả, chỉ là trong một niệm tâm vô minh bèn có
nhân quả vạn hạnh đó thôi! Lại như trong nhà tối mà có kho báu, nếu dùng phương
tiện để đốt lửa, thắp đèn, tuy tìm cầu nhân duyên sanh diệt chẳng thể được,
giống như hư không, nhưng cũng hiểu rõ pháp tùy ý dấy lên: Do cái tâm hiểu rõ
nhân duyên mà thấy kho báu, chẳng phải là kho báu ấy sanh từ nhân duyên. Người tu Chân Ngôn hạnh
vốn vì trừ bỏ Hoặc nghiệp, từ ngay nơi bản thể, thấu hiểu pháp giới chẳng
có “sanh, diệt, tịnh, nhiễm”, lìa các phân biệt, biết cái Thể của chân
ngôn này chính là cái Thể của pháp giới. Nếu biết rõ cái Thể của chân ngôn
giống như pháp giới, giống như Đại Không, sẽ tự nhiên có thể đạt được Vô Tướng
tam-muội. Do vậy, Tất Địa hiện tiền. Hãy nên tin hiểu như thế.
(Kinh)
Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Duy nguyện phục thuyết
Chánh Đẳng Giác cú, Tất Địa thành tựu cú.
(經)爾時金剛手復白佛言:世尊!惟願復說正等覺句、悉地成就句。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ lại bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn!
Kính mong lại nói câu Chánh Đẳng Giác, câu Tất Địa thành tựu).
Tức
là như trên đã nói, từ một chữ có thể sanh ra bốn chữ, cho đến trọn khắp pháp
giới. Đấy chính là câu “thấy Phật tâm”. Nay Ngài hỏi về pháp
thành tựu trong ấy.
(Kinh)
Chư kiến thử pháp thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, tâm đắc hoan hỷ, thọ an lạc
trụ, bất hại pháp giới.
(經)諸見此法善男子善女人等,心得歡喜,受安樂住,不害法界。
(Kinh:
Các thiện nam tử, thiện nữ nhân thấy pháp này, tâm hoan hỷ, được trụ trong an
lạc, chẳng trở ngại pháp giới).
Người
thuận theo đó để tu giác, nếu được thành tựu, sẽ gọi là “kiến pháp”. “Thành
tựu” tức là ngay trong đời này được kiến Đế. Người thấy pháp ấy nghe đức Phật nói pháp thành
tựu này, ắt sẽ đạt được pháp hỷ sâu xa, trụ trong an lạc hạnh, hiện pháp lạc
trụ. Vì thế, thưa hỏi. “Bất hại pháp giới” có nghĩa là “chẳng
gây trở ngại trong pháp giới ấy”. Cho đến tiếp nhận đủ loại vui thú trong cõi
đời, nhưng sự vui thú trong cõi đời chính là pháp giới, trọn chẳng do vậy mà
trở ngại, tổn hại pháp giới. Do vậy, [nói là] “bất hại”.
(Kinh)
Hà dĩ cố? Thế Tôn! Pháp giới giả, nhất thiết Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác
thuyết danh tức bất tư nghị giới. Thị cố Thế Tôn! Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh
chư Bồ Tát đắc thị thông đạt pháp giới bất khả phân tích, phá hoại.
(經)何以故?世尊!法界者,一切如來、應、正等覺說名即不思議界。是故世尊!真言門修菩薩行諸菩薩得是通達法界不可分析破壞。
(Kinh:
Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn! Pháp giới được hết thảy Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác
gọi là “giới chẳng nghĩ bàn”. Do vậy, bạch đức Thế Tôn! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát
hạnh trong Chân Ngôn môn đạt được sự thông đạt pháp giới chẳng thể phân tích
hay phá hoại này).
Bốn
chữ ấy rốt ráo thành tựu, chẳng phương hại pháp giới. Bốn câu ấy đều là Phật
tâm, há có thể do
Phật tâm mà phương hại pháp giới ư? Người trụ trong thành tựu ấy do chẳng
hai, chẳng khác pháp giới, cho nên chẳng phương hại, trở ngại. Tất Địa ấy,
pháp giới ấy đều chẳng bị phương hại. Vì lẽ nào vậy? Do pháp giới chẳng thể
nghĩ bàn! Vì thế, vô lượng Phật đắc đạo thành tựu mà pháp giới chẳng tăng. Vô
lượng chúng sanh diệt độ mà pháp giới chẳng giảm. Nếu chúng sanh thắng tấn,
[pháp giới] cũng chẳng tăng thêm nhiều. Nếu họ phá phiền não, [pháp giới] cũng
chẳng tổn hại. Đó cũng là bất tư nghị giới tánh như kim cang, chẳng thể phá
hoại. Nếu có phương ngại, tức là có “đây,
kia”. Hễ có “đây, kia” thì có
thể phá hoại. Nay chẳng phương hại, trở ngại, cho nên chẳng thể phá hoại. Hãy
nên biết “bất hoại” ở đây cũng có nghĩa là “không thể chia chẻ”, tức là các loại môn, các loại chuyện thế
gian và xuất thế gian đều cùng là một pháp giới, chẳng thể chia chẻ thành những
cái Thể riêng biệt. Nếu hành giả có thể thông đạt như thế, chính là được thấy
pháp thành tựu.
(Kinh)
Như thị thuyết dĩ, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Thiện tai,
thiện tai! Bí Mật Chủ! Nhữ phục thiện tai, năng vấn Như Lai như thị nghĩa. Nhữ
đương đế thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết.
(經)如是說已,世尊告執金剛祕密主言:善哉善哉!祕密主!汝復善哉,能問如來如是義。汝當諦聽,善思念之,吾今演說。
(Kinh: Nói như thế
xong, đức Thế Tôn bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lành thay! Lành thay,
này Bí Mật Chủ! Ông lại rất lành, có thể hỏi Như Lai nghĩa như thế đó. Ông nên
lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy, ta nay sẽ diễn nói).
[Đức
Phật] lại khen ngợi ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, vì có thể thương xót người
tu Chân Ngôn hạnh trong đời vị lai mà nêu ra câu hỏi như thế. “Nhữ
đương đế thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết”, lời ấy có ý bảo các đại chúng trong hội: Các
vị hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, ta nay sẽ diễn nói chuyện như thế đó.
(Kinh)
Bí Mật Chủ ngôn: - Như thị Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn.
(經)祕密主言:如是世尊!願樂欲聞。
(Kinh:
Bí Mật Chủ thưa: - Đúng như thế, bạch đức Thế Tôn! Con vui thích muốn được
nghe).
Nhắc
lại Như Lai từ bi trọn khắp, thuận theo lời hỏi ấy mà giải thích.
(Kinh) Phật
cáo Bí Mật Chủ: - Dĩ A tự môn nhi tác thành tựu.
(經)佛告祕密主:以阿字門而作成就。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài Bí Mật Chủ: - Dùng môn chữ A để thực hiện thành tựu).
Tức
là từ trong câu Chánh Đẳng Giác mà thực hiện pháp thành tựu.
(Kinh)
Nhược tại tăng sở trụ xứ, nhược sơn quật trung, hoặc ư tịnh thất.
(經)若在僧所住處、若山窟中、或於淨室。
(Kinh:
Hoặc ở chỗ Tăng cư trụ, hoặc trong hang núi, hoặc nơi tịnh thất).
Tùy
ý chọn nơi yêu thích, và cách giải thích bí mật như đã nói trong phần trước.
(Kinh)
Dĩ A tự biến bố nhất thiết chi phần, trì tam lạc-xoa.
(經)以阿字遍布一切支分,持三落叉。
(Kinh:
Dùng chữ A để xếp trọn khắp trên hết thảy chi phần, trì ba lạc-xoa).
Dùng
tâm để trải khắp chữ A ấy. Từ đỉnh đầu, và mắt, tai v.v… cho đến trọn khắp các
thân phần trong, ngoài, [đều tưởng có chữ A tại đó, thì gọi là “dùng
chữ A để xếp trọn khắp hết thảy các chi phần”]. Lại tụng chữ ấy ba lạc-xoa,
liền thành tựu. Lại nói rằng: Bổn Tôn, chủng tử, và viên minh (vầng quang minh
tròn sáng như cái gương nơi tâm của Bổn Tôn) là ba thứ. Chữ ở trong viên minh,
viên minh ở nơi tâm Bổn Tôn. Khi quán một thứ đã thành, ba thứ đều tự thành.
Một thứ duyên ba cảnh ấy, nên gọi là ba lạc-xoa. Lạc-xoa nghĩa là “thấy”. Tụng
ba lạc-xoa xong, tới ngày Mười Lăm của bạch nguyệt là ngày trăng tròn, y theo
kinh văn mà tụng đủ ba lạc-xoa xong.
(Kinh)
Thứ ư mãn nguyệt, tận kỳ sở hữu nhi dĩ cúng dường.
(經)次於滿月,盡其所有而以供養。
(Kinh:
Kế đó, trong ngày trăng tròn, tận hết những gì mình có để cúng dường).
Tức
là làm thành tựu Mạn-đồ-la trong ngày Mười Lăm của bạch nguyệt. Khi làm pháp
này, tận lực đem tất cả các thứ mình vốn có để cúng dường Tam Bảo, thực hiện
pháp thành tựu. Khi làm pháp thành tựu, cũng tụng chữ này (cách hiểu theo nghĩa
bí mật như trên đã nói).
(Kinh)
Tác thử pháp thời, nãi chí Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi, Chấp Kim Cang đẳng,
hoặc dư thánh, thiên hiện tiền, ma đảnh xướng ngôn: “Thiện tai hành giả!” Ưng
đương khể thủ tác lễ, phụng Át-già thủy.
(經)作此法時,乃至普賢菩薩、文殊師利、執金剛等或餘聖天現前,摩頂唱言:善哉行者!應當稽首作禮,奉閼伽水。
(Kinh:
Khi làm pháp này, cho đến Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi, Chấp Kim Cang v.v…
hoặc các vị thánh, chư thiên khác hiện tiền, xoa đỉnh đầu [hành giả], xướng
rằng: “Lành thay hành giả”. [Khi ấy, hành giả] hãy nên dập đầu làm lễ, dâng
nước Át-già).
Giải
rằng: Hoặc là các vị Kim Cang khác, chẳng thể nói nhất định được! Hễ có một vị
nào hiện đến, sẽ là thành tựu. Nhưng khi trông thấy, cũng nên biện định tướng
thượng, trung, hạ. Nếu đích thân trông thấy phân minh như đối trước mắt chẳng
khác thì là thượng thành tựu. Nếu chỉ nghe tiếng hiện tiền, chỉ dạy khiến cho
lợi lạc, hoan hỷ, thì là trung thành tựu. Nếu mộng thấy thì là hạ thành tựu.
Lại nữa, khi thấy có rõ ràng hay mù mờ sai khác, sẽ biết là có chướng hay không
(nói theo nghĩa bí mật cũng có thể hiểu là “tâm đắc”). Khi Bổn Tôn hiện
tiền gia bị như thế, [hành nhân] liền “ưng đương khể thủ tác lễ, phụng
Át-già thủy” (hãy nên dập đầu đảnh lễ, dâng nước Át-già). Đây chính là
nước thơm, bỏ thêm năm thứ báu, năm loại hạt lương thực v.v… như trong phần
trước đã nói.
(Kinh)
Tức thời đắc bất vong Bồ Đề tâm tam-muội.
(經)即時得不忘菩提心三昧。
(Kinh:
Liền được chẳng quên Bồ Đề tâm tam-muội).
Hành
giả ấy do đắc tam-muội, khiến cho thân tâm đều được khinh an (khinh an tức là
cấu chướng trừ sạch).
(Kinh)
Hựu dĩ như thị thân tâm khinh an nhi tụng tập chi, đương đắc tùy sanh tâm thanh
tịnh, thân thanh tịnh.
(經)又以如是身心輕安而誦習之,當得隨生心清淨、身清淨。
(Kinh:
Lại dùng thân tâm khinh an như thế để tụng niệm, tu tập, sẽ đạt được tâm thanh
tịnh và thân thanh tịnh, ý sanh thân thuận theo ý niệm mà sanh).
Tức
là dùng sự khinh an ấy để suy tưởng, xếp đặt [các chữ trên các chi phần của
thân thể], niệm tụng, gìn giữ tột bậc, [khiến cho] năm căn như thân v.v… đều
thanh tịnh. Như trong phẩm Lục Căn đã nói, muôn hình tượng đều thấy, có thể
biết Phật tâm v.v… Do thân tâm thanh tịnh, liền được “tùy sanh”, tức
là ý sanh thân[17] thuận theo ý niệm mà sanh. Do
tùy sanh làm nhân, niệm tụng là tịnh, sẽ đạt được thân tâm thanh tịnh.
(Kinh)
Nhược trí ư nhĩ thượng trì chi, đương đắc nhĩ căn thanh tịnh.
(經)若置於耳上持之,當得耳根清淨。
(Kinh:
Nếu đặt ở tai để trì, sẽ đạt được Nhĩ Căn thanh tịnh).
Giải
rằng: Nếu hành giả muốn Nhĩ Căn thanh tịnh, hãy tưởng đặt chữ A nơi tai rồi
niệm tụng, sẽ được nhĩ căn thanh tịnh, Văn Trì chẳng quên, có thể nghe mười
phương chư Phật thuyết pháp, cho đến nghe tiếng của chư thiên v.v… cũng giống
như kinh Pháp Hoa đã nói.
(Kinh)
Dĩ A tự môn tác xuất nhập tức, tam thời tư duy. Hành giả nhĩ thời, năng trì thọ
mạng trường kiếp trụ thế. Nguyện Ra Xà đẳng chi sở ái kính, tức dĩ Ha tự môn
tác sở ưng độ giả, thọ dữ Bát-đầu-ma hoa, tự trì thương-khư nhi hỗ tương quán,
tức sanh hoan hỷ.
(經)以阿字門作出入息,三時思惟,行者爾時能持壽命長劫住世。願囉闍等之所愛敬,即以訶字門作所應度者,授與鉢頭摩華,自持商佉而互相觀,即生歡喜。
(Kinh:
Dùng môn chữ A theo hơi thở ra vào, ba thời tư duy. Lúc bấy giờ, hành giả có
thể duy trì thọ mạng trụ thế lâu cả kiếp. Nếu mong được hàng vua chúa kính yêu,
dùng môn chữ Ha để làm người đáng được độ (tức tưởng chữ Ha là người mà mình
muốn nhiếp phục), trao cho [người ấy] hoa Bát-đầu-ma, chính mình thì cầm
thương-khư (tù và bằng vỏ ốc), [đôi bên] nhìn ngó lẫn nhau, liền sanh hoan hỷ).
Đây
nói về môn Bồ Đề tâm bất sanh bất diệt trong chữ A. Nếu muốn sống lâu dài, hãy
tưởng chữ A giống như hơi thở ra vào (tức là dùng chữ này để tùy thuận hơi thở,
sao cho thở ra, hít vào [luôn tưởng chữ A] chẳng gián đoạn). Nếu kẻ đoản mạng
tưởng niệm như thế, hằng ngày ba thời tư duy, sẽ liền được trường thọ. Nói theo
ý nghĩa bí mật, chữ, câu và Bổn Tôn là ba thời. Nếu muốn thâu nhiếp hết thảy
các độc, hãy tưởng chữ A đó, hoặc mình hay người khác, đều tưởng nơi thân. Nếu
như [chất độc] ở nơi thân chính mình, hãy tưởng chữ ấy nơi chỗ có độc, dần dần
khắp toàn thân trục chất độc xuống phía dưới, chất độc cũng dần dần cũng theo
chữ ấy mà bị loại trừ. Loại bỏ hết thì độc liền trừ. Độc có hai loại: Một là
chất độc từ các vật; hai là chất độc của hữu tình, tức là chất độc của rồng,
rắn v.v… Nếu nói theo ý nghĩa bí mật, “độc” tức là Tam Độc.
Khi Tam Độc lừng lẫy, muốn trừ khử thì cũng làm như trên, tức là loại trừ cho
hết.
“Nguyện
Ra Xà đẳng chi sở ái kính” (nguyện được hàng vua chúa kính yêu) liền
dùng môn chữ A và Ha để làm người đáng được độ, ý nói: Nếu muốn cho kẻ khác
nghĩ tưởng yêu mến và quy y, trước hết hãy tưởng chữ A là thân thể của chính
mình, tưởng chữ Ha là thân của kẻ khác. Tưởng thân chính mình cầm thương-khư
(tù và bằng vỏ ốc). Lại tưởng người ấy cầm hoa sen, [đôi bên] nhìn ngó lẫn
nhau, trong tâm tụng chữ A này. Dẫu người ấy phẫn nộ, kiêu mạn, cũng liền có
tâm yêu mến, hòa thuận. Nói theo nghĩa bí mật, nếu muốn nhiếp phục cái tâm,
tưởng chính mình là chữ A, tưởng tâm là chữ Ha, trên tâm có hoa sen, tay cầm
thương-khư, khiến cho thuận tùng, liền có thể nhiếp phục. Hết thảy kẻ khó hàng
phục, [vận dụng pháp này] cũng đều có thể nhiếp phục. Đó là nói về Thượng Phiền
Não và Tùy Phiền Não.
(Kinh)
Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn phục quán nhất thiết đại hội, cáo Chấp Kim Cang
Bí Mật Chủ ngôn: - Kim Cang Thủ! Chư Như Lai hữu ý sanh, tác nghiệp hý hành vũ,
quảng diễn phẩm loại, nhiếp trì tứ giới, an trụ tâm vương đẳng đồng hư không,
thành tựu quảng đại kiến, phi kiến quả, xuất sanh nhất thiết Thanh Văn cập
Bích Chi Phật, chư Bồ Tát vị, linh Chân Ngôn môn tu hành chư Bồ Tát nhất thiết
hy nguyện giai tất mãn túc, cụ chủng chủng nghiệp, lợi ích vô lượng chúng sanh.
Nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết. Bí Mật Chủ! Vân hà
hành vũ, nhi tác nhất thiết quảng đại thành hoại quả? Trì chân ngôn giả
nhất thiết thân chứng da?
(經)爾時毘盧遮那世尊復觀一切大會,告執金剛祕密主言:金剛手!諸如來有意生,作業戲行舞,廣演品類,攝持四界安住心王等同虛空,成就廣大見非見果,出生一切聲聞及辟支佛、諸菩薩位,令真言門修行諸菩薩一切希願皆悉滿足,具種種業,利益無量眾生。汝當諦聽,善思念之,吾今演說。祕密主!云何行舞而作一切廣大成壞果?持真言者一切親證耶?
(Kinh: Lúc
bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn lại quán hết thảy đại hội, bảo Chấp Kim Cang Bí
Mật Chủ rằng: - Kim Cang Thủ! Các đức Như Lai do ý sanh khởi tác
nghiệp du hý, biến hiện thần thông, rộng diễn phẩm loại, nhiếp trì tứ giới
(Địa, Thủy, Hỏa, Phong), an trụ trong tâm vương giống như hư không, thành tựu
cái quả “kiến, phi kiến” rộng lớn, xuất sanh hết thảy các Thanh Văn và Bích Chi
Phật, các địa vị Bồ Tát, khiến cho hết thảy các ước nguyện của Bồ Tát tu hành
trong Chân Ngôn môn thảy đều được thỏa mãn, trọn đủ các loại nghiệp, lợi ích vô
lượng chúng sanh. Ông hãy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy, ta nay diễn nói. Bí
Mật Chủ! Thế nào là hiện thần thông biến hóa để tạo tác hết thảy cái quả thành
hoại rộng lớn mà người trì Chân Ngôn đích thân chứng đắc hết thảy vậy?)
Đấy
chính là phổ hiện sắc thân, tùy loại mà hiện thân hình trong lục đạo. “Vũ” (Múa)
tức là các chuyện thần biến huyễn tác (thần thông biến hiện, hóa hiện như
huyễn), tùy theo từng sự cũng hiện rất nhiều loại, chẳng thể nói trọn. “Tứ
giới nhiếp trì” tức là nói đến các giới Địa, Thủy, Hỏa, Phong. Tuy
hiện các thân trong, ngoài, y báo, chánh báo ấy, nhưng đấy là tâm vương an trụ giống
như hư không. Hư không thường bất động mà chứa đựng hết thảy. Vì thế, chỉ từ
nghiệp nơi Phật tâm mà sanh, tùy tâm mà có, bản thể giống như hư không, chẳng
thể chấp giữ. “Kiến” là nói tới các thứ tướng vũ hý (múa may,
đùa bỡn)[18], chẳng phải là
thấy lý Niết Bàn (Lại nói Kiến là thấy cái quả thế gian, chẳng phải là thấy cái
quả Bồ Đề. Do loại này vô lượng, nên nói là “rộng lớn”). Cũng thấy
ba thừa tu hành đủ loại pháp môn, thuận theo nguyện của họ mà khiến cho được
thỏa mãn, tức là có thể hiện đủ loại chuyện có thể thấy và chẳng thể thấy. Cho
đến nguyện cầu các pháp môn Thiền Định, trí huệ, nhiều thứ của báu, cũng đều tùy
loại mà thị hiện để ban tặng cho. Giống như Như Ý bảo vương, tùy lòng mong cầu,
hết thảy đều thí cho.
Đẳng Dẫn khiến cho thần thông v.v… dấy lên.
Tam-ma-hế-đa (Samāhita) có nghĩa là Đẳng Dẫn (bình đẳng dẫn khởi các
thứ như thần thông, chẳng phải là Đẳng Chí). Khi đó, đức Tỳ Lô Giá Na Phật lại
quán hết thảy đại chúng hội, quán xong, bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng (như
trong phần trên đã giải thích). Kim Cang Thủ “hành vũ, nhất thiết tác
quảng đại thành hoại quả, thân nhất thiết dữ” (nhảy múa, thực hiện hết
thảy quả thành hoại rộng lớn, đích thân ban cho hết thảy): “Vũ” chính
là đùa vui. Lại còn phổ hiện sắc thân, thuận theo từng loài mà khéo léo thành
tựu họ, thực hiện đủ loại ứng hiện. Những điều này chẳng chân thật, chỉ là như
huyễn. Vì thế gọi là “Như Lai chi vũ”. Giống như người nhảy
múa có thể làm đẹp lòng mọi người, tuy [người xem có] các thứ ý giải bất đồng,
nhưng đều khiến cho họ đẹp dạ. Phật cũng như thế đó, nhưng chẳng phải do sắc
tướng thuộc tứ giới mà làm, chỉ tùy thuận tâm ý của Phật mà sanh. Từ tâm mà
sanh, từ tâm mà diệt. Tuy là thường pháp mà có thể tùy duyên sanh diệt. Do hưng
phế tùy duyên, nên nói là cái quả sanh diệt. Vì vậy bảo là “thành,
hoại”. Dấu tích ấy trọn khắp pháp giới rộng lớn vô biên, vì thế nói
là “rộng lớn”. Đã thực hiện rồi bèn diệt, cho nên nói là “thành,
hoại”.
“Quảng
đại thành hoại” (Thành hoại rộng lớn): “Thành” có
nghĩa là biến chuyển, cho nên sẽ hoại; nhưng sự thành hoại ấy chính là sự ứng hiện
mầu nhiệm của Như Lai, từ Phật pháp giới tùy cơ cảm ứng mà sanh, tuy sanh mà
chẳng sanh, tuy diệt mà chẳng diệt, tức là giống như huyễn, do chẳng khác pháp
giới. Do việc làm chẳng thật, cho nên gọi là Vũ. Tam thế chư Phật đều thực
hiện “sự nhảy múa” ấy. “Thân nhất thiết dữ” (Đích thân ban cho hết thảy): Ta đích thân từ cổ Phật nhận lãnh pháp
này, nay lại đích thân trao cho các vị. Vì thế nói “đích thân trao cho
hết thảy”. Nói “đích thân” tức là có thể đích thân
hiện tiền trao cho hết thảy cái quả mà họ ước nguyện. Nghĩa ấy là đúng.
(Kinh)
Hành giả như thứ đệ, tiên tác tự chân thật, như tiền y pháp trụ, chánh tư niệm
Như Lai. A tự vi tự thể, tịnh trí Đại Không điểm, đoan nghiêm biến kim sắc, tứ
giác kim cang tiêu. Ư bỉ trung tư niệm, nhất thiết xứ tôn Phật. Thị chư Chánh
Đẳng Giác, thuyết tự chân thật tướng. Tu hành bất nghi lự, tự chân thật tướng
sanh. Đương đắc vi thế gian, nhất thiết chúng lợi lạc, cụ quảng đại hy hữu, trụ
ư như huyễn cú. Vô thỉ thời túc thực, vô trí chư hữu bách. Hành giả thành Đẳng
Dẫn, nhất thiết giai tiêu trừ. Nhược quán ư bỉ tâm, vô thượng Bồ Đề tâm. Trì
chân ngôn nghiệp cố, ư tịnh phi tịnh quả, ứng lý thường vô nhiễm, như liên xuất
ứ nê. Hà huống ư tự thể, đắc thành Nhân Trung
Tôn. (經)行者如次第,先作自真實,如前依法住,正思念如來,阿字為自體,并置大空點,端嚴遍金色,四角金剛標。於彼中思念,一切處尊佛,是諸正等覺,說自真實相。修行不疑慮,自真實相生,當得為世間,一切眾利樂。具廣大希有,住於如幻句,無始時宿殖,無智諸有迫,行者成等引,一切皆消除。若觀於彼心,無上菩提心,持真言業故,於淨非淨果,應理常無染,如蓮出淤泥,何況於自體,得成仁中尊。
(Kinh:
Hành giả theo thứ tự, trước tác tự chân thật, như trên, nương pháp trụ, chánh
tư niệm Như Lai. Chữ A làm tự thể, thêm một chấm Đại Không, sắc vàng khắp đoan
nghiêm, bốn góc bày kim cang. Ở trong ấy nghĩ niệm, tôn, Phật hết thảy chỗ. Các
Chánh Đẳng Giác ấy, nói tự tướng chân thật. Tu hành chẳng lo ngờ. Tự tướng chân
thật sanh, sẽ được vì thế gian, hết thảy các lợi lạc, trọn hy hữu rộng lớn, trụ
trong câu như huyễn. Đã gieo từ vô thỉ, vô trí, các cõi ép. Hành giả thành Đẳng
Dẫn, hết thảy đều tiêu trừ. Nếu quán cái tâm ấy, vô thượng Bồ Đề tâm. Do nghiệp
trì chân ngôn, nơi quả tịnh, phi tịnh, xứng lý, thường vô nhiễm, như sen vượt
bùn lầy. Huống hồ nơi tự thể, được thành Nhân Trung Tôn).
Nói “tiên
tác tự chân thật” (trước hết thực hiện sự chân thật nơi chính mình) tức
là như trên đây đã quán chủng tử, chân ngôn, và Bổn Tôn. Do quán thấy Bổn Tôn,
thấy rồi liền chuyển thân chính mình thành Bổn Tôn. Xoay vần “tức là lẫn nhau”
(tức quán Bổn Tôn, Bổn Tôn nhập vào thân mình, thân mình chuyển thành Bổn Tôn,
quán Bổn Tôn và chính mình chẳng khác), chẳng hề trở ngại lẫn nhau, chính
là “thấy
cái quả kim cang”, cái
tâm Bồ Đề, cho nên gọi là “tiên tác tự chân thật”. Theo thứ tự
trụ như thế, tức là trụ vào đối tượng được quán trên đây, tâm nương vào đó mà
khéo trụ. Trước hết đã thấy Thật Tướng, đã quán chữ A vậy.
Kinh
nói “như tiền y pháp trụ, chánh tư niệm Như Lai” (nương vào
pháp mà trụ giống như trên, chân chánh nghĩ nhớ Như Lai) có nghĩa là theo đúng
cách suy nghĩ như trong phần trên đã nói để niệm tụng, hành trì. Tưởng chữ A là
chính mình, và thêm một chấm [Đại Không trên đầu chữ A] để trở thành rộng lớn,
hết thảy đều là màu vàng sao cho đẹp dạ tột bậc. Nơi chày kim cang bày khắp bốn
cạnh [của chữ ấy], hãy nghĩ nhớ, trì tụng chữ [chân ngôn] và quang minh của chư
Phật trọn hết thảy mọi nơi. Hết thảy các đức Phật ấy sẽ tự nói, tức là quán chữ
A có màu vàng đậm, sắc tướng ấy đoan chánh, trang nghiêm, tốt đẹp, khiến cho
mọi người đẹp lòng, ở ngay trong tâm của chính mình. Đối với chữ này, kinh lại
nói cũng thêm vào cái chấm cho rộng lớn, nghĩa là trên chữ A lại thêm một cái
chấm [Đại Không], “tăng thêm” tức là rộng lớn. Ở phía ngoài,
nơi bốn góc của chữ A, dùng chày kim cang làm lan can bao bọc. Lan can ấy toàn
bằng chày kim cang ba nhánh. Các nhánh chày lại được vẽ chéo nhau, chính giữa [khung lan can được xếp bằng
chày kim cang ấy] đặt chữ. Đã thấy chữ A ấy, liền chuyển chữ A đó thành hình tượng
của Tỳ Lô Giá Na Bổn Tôn, tức là tự thân hiện hình tượng giống như Bổn Tôn.
Hình tượng ấy dựa theo bổn ấn mà làm. Toàn thân đức Phật có quang minh. Đấy chính là thấy vị Phật Thật Tướng trong
Bồ Đề tâm, giống như trong lưu ly thanh tịnh trông thấy hình tượng vàng ròng,
chẳng giống như vọng
tưởng trong các món tâm số (tâm sở) khác. Hãy nên biết thấy như thế chính là
thấy vị Phật Thật Tướng trong tâm. Người tu pháp thành tựu này nếu chẳng ngờ
vực, lo lắng, sẽ có thể vì khắp hết thảy chúng sanh tạo tác sự lợi ích to lớn.
Kinh
nói: “Cụ quảng đại hy hữu” (trọn hy hữu rộng lớn), giống như
huyễn nhân, tức là có đủ loại chuyện khác lạ. Giống như chư đại Bồ Tát, thuận
theo lòng muốn làm chuyện lợi ích chúng sanh, khác nào vầng trăng hư huyễn
trong nước ứng với vạn loại đều được thành tựu. Đấy là câu Như Huyễn tam-muội
của Như Lai. Nếu có thể làm như thế, ác nghiệp từ đời vô thỉ đến nay, và cái
quả bức bách trong ba cõi, cho đến nghiệp nặng Vô Gián diệt ngay trong thân
hiện tại, huống hồ những thứ khác ư? Nói tóm lại, các thứ khổ quả trong ba cõi
đều diệt. Vì lẽ nào vậy? Do người trì tụng trụ trong địa vị Tam-ma-hế-đa. Nếu
quán Thật Tướng như thế, sẽ lìa khổ.
Kinh
nói: “Nhược quán ư bỉ tâm, vô thượng Bồ Đề tâm” (nếu quán vô
thượng Bồ Đề tâm trong cái tâm ấy) tức là quán Vô Thượng Bồ Đề tâm trong tự tâm
của hành giả. Nói “tâm” thì tức là vô thượng đại Bồ Đề tâm.
Nếu trụ trong phép Quán ấy, sẽ có thể thanh tịnh thân khẩu ý nghiệp. Do có thể
thanh tịnh các nghiệp, tịnh nghiệp và bất tịnh nghiệp đều lìa. Ý nói: Có nghiệp
như thế sanh ra, tịnh và bất tịnh đều chẳng thể nhiễm. Kinh nói “đương
nghiệp” tức là cái nghiệp sẽ sanh ra tịnh tâm này. Cái quả ấy đều
chẳng thể nhuốm bẩn. Vì sao vậy? Do thường tương ứng với lý. Ví như hoa sen tuy
sanh trong bùn lầy, nhưng chẳng bị bùn nhuốm bẩn. Hành giả như thế giống như
chư Phật. Vì sao vậy? Do có thể sanh ra hết thảy chư Như Lai. Đấy chính là
Phật, là bậc thầy tôn quý trong những vị nhân từ vậy. Ý nói: Vừa mới quán Bồ Đề
tâm, đã đạt được cái quả Như Lai, huống hồ đích thân hiện chứng mà thành Phật
ư?
(Kinh)
Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Như Lai hựu phục trụ ư Hàng Phục Tứ Ma Kim Cang Hý
tam-muội, thuyết hàng phục tứ ma, giải thoát lục thú, mãn túc Nhất Thiết Trí
trí kim cang tự cú: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a vị ra hồng khiếm.
(經)爾時毘盧遮那世尊又復住於降伏四魔金剛戲三昧,說降伏四魔、解脫六趣滿足一切智智金剛字句:南麼三曼多勃馱喃。阿味囉吽欠。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Như Lai lại trụ trong Hàng Phục Tứ Ma Kim Cang Hý
tam-muội, thuyết câu chữ kim cang hàng phục tứ ma, giải thoát sáu nẻo, viên mãn
trí Nhất Thiết Trí: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a vị ra hồng khiếm).
Lại
nữa, khi đó, Tỳ Lô Giá Na Như Lai lại trụ trong Hàng Phục Tứ Ma Kim Cang Hý
tam-muội, hàng phục bốn loại ma, giải thoát sáu đường, nói câu chữ kim cang viên
mãn trí Nhất Thiết Trí. Trụ trong tam-muội ấy, có thể hàng phục tứ ma, có thể
trừ phiền não nghiệp khổ trong sáu đường, ban cho niềm vui giải thoát, và cũng
có thể thỏa mãn tất cả hết thảy ước nguyện của hết thảy phàm thánh. Đức Phật
trụ trong Định ấy mà nói câu Kim Cang và ý nghĩa chân ngôn. Năm chữ ấy chính là câu
chân ngôn hàng phục tứ ma. A (अः, Aḥ) là hành, tức là “hành”
vốn
bất sanh. Hai cái chấm bên cạnh chữ A (अ) có nghĩa là “tịnh trừ”. Do
nghĩa này mà có thể hàng phục tứ ma, trừ hết thảy các khổ. Vị (वि,
Vi) nghĩa là “trói buộc”, [chữ Va (व)] thêm một vạch chính là
Vô Giải tam-muội, tức là giải thoát chẳng thể nghĩ bàn. Ra (र)
nghĩa là “thanh tịnh sáu căn”; do sáu căn thanh tịnh nên chẳng có trần.
Hồng (हुं, Hūṃ)
có ý nghĩa như đã giải thích trong phần trước. Trong phần trước, cũng có chỗ
giải thích ý nghĩa chữ Khư (ख, Kha). “Hồng” lại có ba
nghĩa, chính là ba món giải thoát của Như Lai. Do tu hành trừ chướng mà có ba
giải thoát, trụ trong Đại Không. Khiếm (खं, Khaṃ) là Đại Không.
(Kinh)
Thời Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ đẳng chư Chấp Kim Cang, Phổ Hiền đẳng chư Bồ Tát,
cập nhất thiết đại chúng, đắc vị tằng hữu khai phu nhãn, khể thủ nhất thiết Tát
Bà Nhã, nhi thuyết kệ ngôn:
(經)時金剛手祕密主等諸執金剛,普賢等諸菩薩,及一切大眾,得未曾有開敷眼,稽首一切薩婆若而說偈言:
(Kinh: Khi đó, các
vị Chấp Kim Cang như Kim Cang Thủ Bí Mật v.v… Các vị Bồ Tát như Phổ Hiền v.v…
và hết thảy đại chúng, được mở bừng mắt chưa từng có, đảnh lễ hết thảy Tát Bà
Nhã mà nói kệ rằng).
Khi
đức Phật nói chân ngôn này, các vị như Kim Cang Thủ và Phổ Hiền được mở bừng
mắt chưa từng có (như trên đã nói), đảnh lễ hết thảy Nhất Thiết Trí, nói kệ như thế này (“hết thảy Nhất Thiết Trí” tức là hết thảy các pháp
Như, tức là Như Lai Như).
(Kinh)
Thử chư Phật, Bồ Tát, cứu thế chư khố tạng, do thị nhất thiết Phật, Bồ Tát, cứu
thế giả, cập dữ nhân Duyên Giác, Thanh Văn hại phiền não, năng biến sở hành
địa, khởi chủng chủng thần thông, bỉ đắc Vô Thượng Trí, Chánh Giác vô thượng
trí.
(經)此諸佛菩薩,救世諸庫藏,由是一切佛,菩薩救世者,及與因緣覺,聲聞害煩惱,能遍所行地,起種種神通。彼得無上智,正覺無上智。
(Kinh:
Chư Phật, Bồ Tát ấy, các kho tàng cứu đời, do vậy hết thảy Phật, Bồ Tát đấng
cứu thế, và do bởi Duyên Giác, Thanh Văn trừ phiền não, khắp địa vị sở hành,
dấy đủ loại thần thông, đạt được Vô Thượng Trí, Chánh Giác vô thượng trí).
“Nhất
thiết” (hết thảy) ở đây theo ý nghĩa tiếng Phạn là “không gì
chẳng đủ”, tức là ý nghĩa “kho chứa” vậy. Ý nói dùng năm
chữ ấy làm cái kho, có thể chứa đựng đầy ắp hết thảy của cải. Hết thảy chư
Phật, Bồ Tát là đấng cứu thế. “Duyên Giác, Thanh Văn hại phiền não”:
Tán thán phẩm đức của Thanh Văn, tức là trừ diệt tùy miên vậy. Lại còn có thể
hiểu là: Tô La Đa (Surata)[19] là trừ diệt phiền não. “Năng
biến sở hành địa, khởi chủng chủng thần thông” (có thể trọn khắp các
hành xứ, dấy lên các thứ thần thông): “Của cải” chính là pháp
bảo của Như Lai, ban cho hết thảy chúng sanh mà vẫn chẳng thiếu hụt. Kho báu
đại trí vô cùng như thế, nên gọi là “của cải”. Do của cải nơi
pháp có thể thí cho hết thảy, nên nói môn chân ngôn này trên từ chư Phật, dưới
đến Thanh Văn, không gì chẳng nương vào câu này để có thể thực hiện các loại
thần biến lợi ích hết thảy. Vì thế nói “tùy theo hành địa này mà
hiện đủ loại sức
thần thông”. Nói “hành
địa” tức là nói về hành xứ, như kệ nói: “Tầm địa sơn lâm biến
vô đẳng” (tìm khắp núi rừng trên đại địa đều chẳng có ai sánh bằng).
Nói “bỉ đắc vô thượng trí, Chánh Giác vô thượng trí” (người ấy
đạt được vô thượng trí, Chánh Giác vô thượng trí): Cũng do câu này mà hết thảy
các vị thánh
hiền đều được thành tựu trí huệ, cho tới cùng thành trí Nhất Thiết Trí. Nhưng
trí Nhị Thừa đối với thế gian cũng gọi là “vô
thượng”, nay lại nói rõ Phật là
vô thượng, tức là lặp lại [để nhấn mạnh Phật trí vô thượng tuyệt đối].
(Kinh)
Thị cố nguyện quảng thuyết, thử giáo chư phương tiện, cập dữ bố tưởng đẳng,
chủng chủng chúng sự nghiệp. Chư chí cầu đại chúng, vô thượng Chân Ngôn hạnh,
kiến pháp an trụ giả, đương đắc hoan hỷ trụ.
(經)是故願廣說,此教諸方便,及與布想等,種種眾事業。諸志求大眾,無上真言行,見法安住者,當得歡喜住。
(Kinh:
Do vậy, nguyện rộng nói, phương tiện trong giáo này, và đặt chữ, quán tưởng…
Các sự nghiệp đủ loại. Các đại chúng chí cầu, hạnh Chân Ngôn vô thượng, thấy
pháp được an trụ, sẽ được hoan hỷ trụ).
Trước
là đã tán thán; sau đó, thỉnh đức Phật nói năm chữ ấy. Theo thứ tự nói cặn kẽ,
và các chủng loại quán tưởng, sắp xếp chữ v.v… Đối với các điều chưa nói, đều
thỉnh [đức Thế Tôn] giảng
giải trong lời dạy này. Đối với chuyện sắp xếp chữ (tức quán tưởng sẽ đặt chữ
chân ngôn nơi nào trên các chi phần thân thể), thượng, trung, hạ thành
tựu, màu sắc, lực dụng
sai biệt, các loại phương tiện, đều thỉnh Phật rộng vì [chúng con] tuyên nói.
Thành tựu, tiến nhập, tùy thuận để hành pháp ấy trong các môn thì gọi là Giáo.
Thỉnh [đức Phật] tự nói Giáo ấy, tức là [cầu thỉnh] đức Phật đích thân diễn
nói. Nếu đức Phật rộng nói pháp ấy, các hành giả hành vô thượng Chân Ngôn trong
Đại Thừa sẽ được thấy pháp. Nếu đã thấy, cũng sẽ đều hoan hỷ. “Kiến
pháp” (Thấy pháp) tức là chứng đắc. “Đương trụ” (sẽ
trụ trong) tức đã tự thấy rồi, lại trao truyền cho các chúng sanh. Do thấy sự
ấy, mình và người đều đạt được lợi ích vô thượng nơi pháp. Vì thế, thỉnh đức
Phật rộng nói. Kinh này vốn có ba ngàn năm trăm bài kệ giảng giải ý nghĩa của
năm chữ ấy. Ý nghĩa chánh yếu của Tam-ma-hế-đa chính là “trụ tâm nơi
một cảnh”.
(Kinh)
Thuyết như thị kệ dĩ, Đại Nhật Thế Tôn ngôn: - Phổ giai ưng đế thính, nhất tâm
trụ Đẳng Dẫn. Đại kim cang địa tế, thời gia trì hạ thân, vị thuyết thử pháp cố,
nhi hiện Bồ Đề tòa, tối thắng A tự đồng, đại Nhân Đà La luân, đương tri nội
ngoại đẳng, Kim Cang Mạn-đồ-la, trung tư duy nhất thiết, thuyết danh Du
Già tòa.
(經)說如是偈已,大日世尊言:普皆應諦聽,一心住等引,大金剛地際,時加持下身,為說此法故,而現菩提座。最勝阿字同,大因陀羅輪,當知內外等,金剛漫荼羅,中思惟一切,說名瑜伽座。
(Kinh:
Nói kệ như vậy xong, Đại Nhật Thế Tôn bảo: - Hết thảy nên lắng nghe. Nhất tâm
trụ Đẳng Dẫn. Địa tế đại kim cang, gia trì ở dưới thân. Vì để nói pháp này, mà
hiện tòa Bồ Đề, như chữ A tối thắng. Đại Nhân Đà La luân, hãy nên biết trong
ngoài, Kim Cang Mạn-đồ-la, trong tư duy hết thảy, gọi là tòa Du Già).
Đức
Phật muốn nói câu kim cang, khiến cho khắp đại chúng trụ trong cảnh nhất tâm mà
lắng nghe, muốn thực hiện pháp thành tựu Kim Cang chân ngôn này; trước hết, bảo
họ làm kim cang tòa. Như lúc đức Phật sắp thành đạo, ngự tại kim cang đạo
tràng. Lại nữa, ngoại trừ tòa ấy ra, chẳng còn có tòa nào khác kham có thể vượt
trội mà đạt đến điều ấy được! Khi đó, đại kim cang từ mặt đất thấu tận địa
tế. “Gia trì hạ thân nơi địa tế, vì muốn nói chữ A” có nghĩa
là: Chữ ấy là tối thắng, là chữ bậc nhất. “Gia trì”: Nay vì
muốn nói pháp ấy, trước hết, dùng [chữ ấy] để gia trì tự thân. “Hạ
thân” tức là từ rốn trở xuống, đều tưởng thuần là kim cang. Trong ấy,
có nội và ngoại, “nội” là như vừa nói trên đây, “ngoại” là
tưởng thân chính mình ngồi trong đàn tràng kim cang hình vuông. Đàn ấy như
trong phần trên đã nói, có hình vuông, [dùng chày kim cang] làm lan can.
Nói “đại Nhân Đà La” (Mahendra) tức là chất tột bậc cứng rắn
trong các chất kim cang, có thể phá nát kim cang, nhưng kim cang chẳng thể phá
nó. Lại còn là màu vàng tột bậc, giống như tử ma kim sắc (màu của chất vàng sắc
tía được giồi mài sáng bóng). Tưởng đó là chữ A, gọi là “kim cang
luân”. Ở trên tòa ấy, tư duy hết thảy, thì chính là “Du Già
tòa”. Đấy là chỗ ngồi của người tu hành tương ứng với lý. “Tư
duy hết thảy” nghĩa là hết thảy các sự đều do sự tư duy này mà thực
hiện. Do có nhiều sự việc, nên nói là “hết thảy”. Trên đây là
phần đầu tiên giải thích [ý nghĩa] “dùng chữ A làm tòa” đã
xong.
(Kinh)
A tự đệ nhất mạng, thị vi dẫn nhiếp cú, thường an Đại Không điểm, năng nhiếp
thọ chư quả. Hành giả ư nhất nguyệt, kết Kim Cang Huệ ấn, tam thời tác trì
tụng, tồi hủy vô trí thành, đắc bất động kiên cố. Thiên, Tu La mạc hoại. Nãi
chí tùy tự ý, tăng ích sự thành tựu.
(經)阿字第一命,是為引攝句,常安大空點,能攝授諸果。行者於一月,結金剛慧印,三時作持誦,摧毀無智城,得不動堅固,天脩羅莫壞,乃至隨自意,增益事成就。
(Kinh:
Chữ A: Mạng bậc nhất. Đó là câu dẫn nhiếp. Thường đặt chấm Đại Không, hay nhiếp
thọ các quả. Hành giả trong một tháng, kết Kim Cang Huệ ấn, ba thời đều trì
tụng, đập nát thành vô trí, được kiên cố bất động. Trời, Tu La chẳng hoại, cho
đến tùy tự ý, tăng ích sự thành tựu).
Kế
đó, nói về chữ A âm dài (Ā). Đây là mạng căn bậc nhất của chữ A. Do nó có thể
phát sanh các chữ, cho nên nói là Mạng. Nếu chẳng có chữ A, các chữ khác chẳng
sanh, nên gọi là “mạng bậc nhất”. Đây chính là câu có thể
nhiếp triệu. Nếu tưởng chữ này, sẽ có thể nhiếp triệu. Chữ A đọc âm dài tức là
hạnh. Nếu tiếp xúc chữ A, sẽ có thể dẫn khởi hết thảy Phật hạnh. Vì thế nói
là “nhiếp triệu”. Nhiếp triệu hết thảy các pháp trong,
ngoài. “Nhiếp triệu” nghĩa là thâu nhiếp, khiến cho phụ thuộc
chính mình hòng tự tại thọ dụng. Môn chữ A này có thể nhiếp triệu công đức của
hết thảy Như Lai quy vào tự thân, cũng có thể trọn vẹn hết thảy các hạnh.
Kế
đó nói chữ Ám (Aṃ). Nếu tưởng chữ này, có thể nhiếp trừ hết thảy độc và các
chướng như bệnh tật v.v… Các chướng trong và ngoài đều có thể thâu nhiếp để trừ
khử. Nội chướng tức là các thứ pháp chướng đạo, chỉ cần chúng hiện tiền, sẽ đều
có thể diệt trừ. Ngoại chướng là hết thảy các vật gây chướng ở bên ngoài, cũng
thảy đều có thể trừ diệt. Lại trừ các độc, bệnh tật. Bệnh có đủ loại, đều có
thể trừ diệt. Lại còn có thể trừ diệt thậm chí bệnh mất trí, tức là có thể cứu
chữa khiến cho [người bị mất trí] khôi phục bổn tâm. Chữ này lại còn có thể
nhiếp tâm một cảnh, mau chóng tương ứng với tam-muội. Nếu tưởng chữ này, sẽ đạt
được công đức như trên. “Nhất thiết năng dữ” (Có thể ban cho
hết thảy): Nói “dữ” (與) tức là có thể mãn nguyện ấy, trao cho cái
quả Tất Địa. Nếu trì tụng thì trong một tháng liền kết Kim Cang Huệ Ấn để tụng
chữ Ám. Trong một tháng đó, mỗi ngày tu tập ba thời, sẽ phá hết thảy thành
quách vô trí. Hết thảy chúng sanh bị vô minh quấy nhiễu, bốn phía ép lại, kiên
cố giống như tòa thành chắc chắn, chẳng thể phá hoại. Dùng tự môn này, sẽ có
thể phá hoại [tòa thành kiên cố vô trí ấy]. “Đắc bất động kiên cố” tức
là trời, người, A Tu La v.v… đều chẳng thể phá hoại. Phàm hết thảy các chuyện
tăng ích, nếu muốn làm, sẽ đều ngồi tòa này. Tăng Ích cũng gọi là viên mãn, ngụ
ý: Có thể thỏa mãn hết thảy các nguyện.
(Kinh)
Hành giả nhất thiết thường, Mạn-đồ-la trung tác, kim sắc quang minh thân,
thượng trì phát kế quan, chánh giác trụ tam-muội, danh Đại Kim Cang Cú. Kim
cang liên hoa đao, tố nga, cập kim địa, Chân Đà Mạt Ni bảo. Thị
đẳng chúng khí vật, quán đại Nhân Đà La, nhi tác chư Tất Địa.
(經)行者一切常,漫荼羅中作,金色光明身,上持髮髻冠,正覺住三昧,名大金剛句。金剛蓮華刀,素鵝及金地,真陀末尼寶,是等眾器物,觀大因陀羅,而作諸悉地。
(Kinh:
Hành giả hết thảy thường, làm trong Mạn-đồ-la, thân quang minh kim sắc, trên
đội mão che tóc, Chánh Giác trụ tam-muội, gọi Đại Kim Cang Cú. Kim cang, hoa
sen, đao, ngỗng trắng và đất vàng, báu Chân Đà Mạt Ni. Các vật dụng như thế,
quán đại Nhân Đà La, để làm các Tất Địa).
Nếu
giải thích theo ý nghĩa bí mật, “một tháng” tức là “vừa
trông thấy”. Nếu được thấy pháp, sẽ nhập Sơ Địa, tùy ý tăng ích hết
thảy tam-muội, đà-la-ni v.v… và các địa vị. Nếu lúc muốn thực
hiện pháp Tăng Ích, người trì tụng ở trong đàn kim cang này, tưởng Phật trụ
trong tam-muội, thân màu vàng ròng. Ánh sáng có hình ngọn lửa, tức là ý
nghĩa “có oai
quang”. “Hữu oai
quang” tức là kiêm nói về ý nghĩa Bổn Tôn. Tiếng Phạm như thế đó, tức
là quang minh có hình như ngọn
lửa bọc quanh. Dùng tóc kết thành mão. Đấy chính là đại Nhân Đà La. Đại kim
cang ấy cứng chắc, hàm nghĩa “Phật trí có thể phá hết thảy những cái chẳng thể trừ”. Tưởng
vị Phật ấy ở trong đàn kim cang vuông đó, tùy ý làm hết thảy các vật thành tựu.
Kinh nói “kim cang, liên hoa” v.v… hàm nghĩa [để tác pháp nhằm
thành tựu] hết thảy các sự ấy, hãy nên thực hiện trong luân ấy (tức trong đàn
tràng Mạn-đồ-la). Nếu muốn thành tựu pháp kim cang, hãy dùng chày kim cang năm
nhánh thuần bằng vàng, đặt ở trong đàn để gia trì. Các vật thành tựu trung, hạ
như thương-khư v.v… cũng như trên đã nói, tức là đều trì tụng chữ A này. Nếu
muốn thành tựu Phật Đảnh, dùng vàng ròng làm Phật Đảnh để làm pháp gia trì. Nếu
được thành tựu, sẽ giống như thân của Đại Nhật Như Lai. Hoặc có thể là chẳng cần vật nào khác, chỉ tự tại
tưởng là thân Phật để gia trì. Nếu thành tựu, sẽ giống như thân Phật. Nếu làm
kim cang thành tựu, người trì tụng sẽ giống như Kim Cang Thủ Bồ Tát. “Liên
hoa” thì dùng vàng làm hoa sen tám cánh v.v… Trì tụng ở trong ấy. Nếu
thành tựu, sẽ giống như Quán Âm. Đao cũng có pháp thành tựu. Nếu thành tựu, sẽ
giống như Văn Thù đồng tử. Ngỗng thì nếu tác pháp thành tựu, thân chính mình sẽ
thành thân Phạm Thiên. Trong pháp thành tựu ngoại tài, thì hoặc là thành tựu
vàng, hoặc thành tựu đất (“đất” là nói tới kho tàng), hoặc là châu Như Ý
v.v… Chỉ cần tương
ứng với pháp Tăng Ích thì đều dùng pháp này để làm, đều có pháp thượng, trung,
hạ. Nói “đại Nhân Đà La quán” tức là quán trong kim luân.
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần bảy hết
[1] Theo
truyền thống của Bà La Môn giáo, bò được coi là sứ giả của Phạm Thiên, được tôn
xưng là thánh ngưu. Nhất là con bò Nandi (còn gọi là Nandikeshavara hay
Nandideva) là tọa kỵ của thần Thấp Bà (Śiva), được coi là thần thủ hộ của núi thánh
Kailash (nơi có cung điện chính của thần Shiva). Họ cho rằng bò sanh ra năm thứ
thanh tịnh là sữa, lạc, tô, nước tiểu, và phân.
[2] Không
Thanh (Chesylite, Azurite) là chất hydroxide bicarbonate
đồng, tức Cu3(CO3)2(OH)2,
có màu xanh nước biển đậm (gần như màu Navy, nhưng
sáng hơn một chút). Khi để lâu ngoài
không khí, nó sẽ bị biến thành khổng tước thạch (malachite, tức hydroxide
monocarbonate đồng, Cu3CO3(OH)2, có màu xanh ngọc thạch). Không Thanh được
dùng trong Đông Y để chữa bệnh mắt, mắt cườm, trúng phong, tai điếc v.v… Âu Tây
chỉ dùng chất này để làm màu nhuộm, hoặc làm hạt trang sức. Trong Mật giáo, thường dùng
các thứ thuốc đem trì chú để mong đạt được tác dụng chữa bệnh, hoặc dùng vào
các phương tiện hòng đạt được các thứ thần thông khác. Thậm chí, các vật như
đao, kiếm, vỏ ốc, gương… dùng làm pháp thành tựu cũng được gọi chung là “dược
vật”.
[3] Sở
dĩ nói “Cú ở đây là Kệ” vì chánh kinh ghi “pháp cú
viên mãn trí quyết định trong vô lượng môn khắp ba đời”, nhưng “pháp
cú” trong đoạn này là kệ tụng.
[4] Tức
là quán các chữ trong chân ngôn được xếp thành một vòng tròn khép kín (nên nói
là “đầu đuôi tiếp nối”). Chính giữa vòng tròn ấy thường là chữ chủng tử của
chân ngôn. Chẳng hạn như khi quán Lục Tự Đại Minh của Quán Thế Âm Bồ Tát, sáu
chữ Om mani padme hum được xếp thành vòng tròn, mỗi chữ một màu tương ứng với
một đường trong lục đạo (Chữ Om màu trắng tương ứng với thiên đạo, chữ Ma màu xanh lá cây tương
ứng với A Tu La, chữ Ni
màu vàng tương ứng với nhân đạo, chữ Pad màu xanh dương tương ứng súc sanh
đạo, chữ Me
màu đỏ tương ứng với ngạ quỷ đạo, chữ Hum màu đen tương ứng với chúng sanh trong
địa ngục đạo). Chính giữa là chủng tử của đức Quán Âm là chữ Hrih màu trắng, tương ứng với Pháp Thân thanh tịnh.
[5] Tánh
giới là một trong hai loại giới (tức tánh giới và giá giới). Tánh giới có nghĩa
là các giới bắt buộc phải
tuân thủ vì đó là chuẩn mực đạo đức của người tu hành. Phạm các giới ấy, sẽ khiến cho chân tánh bị che lấp,
tăng trưởng phiền não, tổn hại công đức. Người phạm các giới ấy bất luận có thọ
giới hay không vẫn có tội, vì các giới ấy nhằm ngăn ngừa các phiền não nẩy sanh.
[6] Mỗi
châu trong tứ đại châu có hai tùy châu (châu nhỏ hơn phụ thuộc), nên cứ mỗi một
đại châu (như Diêm Phù Đề) chẳng hạn, tính gộp chung là ba châu. Do vậy,
3x4=12.
[7] Tức
là Thất Ma Đát Rị Mẫu, họ là bảy chị em của Diêm Vương.
[8] Tam-ma-bát-để
được dịch nghĩa là Đẳng Chí, Chánh Thọ, Chánh Định Hiện Tiền, có nghĩa là do xa
lìa các chướng ngại như hôn trầm, điệu cử v.v… mà thân tâm đạt tới cảnh bình
đẳng, an hòa.
[9] Ngữ
biểu là sự biểu thị bằng từ ngữ dể diễn đạt một lý nào đó; ở đây có nghĩa là
chân ngôn.
[10] Tức
là ao A Nậu Đạt (Anavatapta). Theo Câu Xá Luận, quyển mười một, ở giữa phía Bắc
của Tuyết Sơn và phía Nam của Hương sơn, có một cái ao lớn, tên là Vô Nhiệt
Não, là nguồn của bốn con sông lớn: Sông Hằng, sông Tín Độ (Sindhu, tức sông
Indus hiện thời), sông Tỷ Đa (Sītā, tức sông
Sir-Daria hiện thời), và sông Phược Sô (Vaksu, tức sông Amu Daria).
[11] Mang Đát Rị (Mātṛs) có nhiều
cách hiểu:
- Thất Mẫu Mang Đát
Rị, tức bảy chị em của Diêm La Vương.
- Trong Bà La Môn
giáo, Mātṛs là thánh mẫu, tức nhân cách hóa năng lực của một vị thần, hoặc phối
ngẫu của vị thần ấy. Tám vị thánh mẫu được tôn sùng nhất là Brāhmī (mẹ
của Phạm Vương, tức Brahma. Có thuyết nói vị này là vợ của Phạm Vương), Māheśvarī (mẹ
của thần Shiva), Vaiṣṇavī (mẹ của thần Viṣnu); Aindri (Indrāṇī),
of Indra; Varahi (vợ có hình đầu lợn của Viṣnu, vị này được
Mật Tông gọi là Kim Cang Hợi), Kaumārī (mẹ của
thần Kartikeya); Cāṃuṇḍī (mẹ của thần Kuvera),
và Nārasiṃhī (mẹ của thần Narasimha).
- Là
danh xưng của Diễm Ma Hậu (Yami) tức vợ của vua Diêm La.
- Là
tôn hiệu của Lakṣmi (vợ của thần Viṣnu).
[12] Tức
là chày kim cang kép (visva-vajra), còn gọi là Yết Ma kim cang (karma-vajra) gồm
hai chày kim cang năm nhánh nối kết với nhau ở phần giữa thành hình chữ thập.
[13] Khaḍga
(còn gọi là Khaṅga) là một loại kiếm
thẳng, lưỡi kiếm được mài bén cả hai bề. Do cực sắc bén và mạnh mẽ, kiếm này
thường được dùng tượng trưng cho trí huệ. Trong Mật Tông, loại kiếm này được
cầm bởi Văn Thù Bồ Tát, Bất Động Minh Vương, Đại Hắc Thiên (Mahakala), Công Đức
Thiên (Śrīdēvī, thường được biết phổ biến với danh xưng Palden Lhamo, tức thần bảo hộ của Dalai
Lama).
[14] Thuốc
An Thiện Na (còn được phiên âm là An Thiền Na, A Xà Na), có hai cách giải thích:
- Một là loại thuốc trị bệnh mắt, có màu
xanh đen.
- Hai là tên một loại thực vật, lá nó có
thể dùng để làm thuốc trị bệnh mắt.
[15] Lô
Giá Na có nhiều nghĩa, nếu hiểu là một loại thuốc thì chính là mật của bò, hay
ngưu hoàng (bezoar).
[16] Ngưu
Hoàng ở đây là nói chung, tức là trong thể loại được coi là Lô Giá Na thì bao
gồm Ngưu Hoàng (chất sạn của bò, mật của bò),
hoặc các vị thuốc sau đó như Không Thanh, Châu Sa, Hùng Hoàng, Thư Hoàng v.v…
Không Thanh (Azurite) là hydroxide bicarbonate
đồng như đã giải thích trong phần trước. Châu Sa (Cinnabar) còn gọi là Đan Sa,
Xích Đan, hoặc Hống Sa, chính là sulfide thủy ngân (HgS) có màu đỏ tươi, thường
được dùng trong Đông Y để trị động kinh, an thần, trấn tĩnh. Nhưng theo các
nghiên cứu mới nhất, 10% thuốc Đông Y có chứa Châu Sa, và Châu Sa dùng lâu ngày
có thể gây tổn thương thận, bao tử, nhất là hệ thống thần kinh… Hùng Hoàng
(Realgar) càng độc hơn nữa vì nó là Sulfide Arsenic (As4S4), có màu đỏ sậm, nhưng thấu quang. Thư Hoàng
(Orpiment) cũng là Sulfide Arsenic (As2S3), nhưng có màu
từ vàng chanh cho tới vàng óng. Người xưa thường dùng Hùng Hoàng để pha rượu
uống vào tiết Đoan Ngọ với mục đích khử trùng cho thân thể.
[17] Ý
Sanh Thân (Manomayaṃ kāyaṃ) còn gọi là Ý
Thành Thân, Ý Thành Sắc Thân, tức cái thân chẳng do cha mẹ sanh ra, mà là thân
do bậc Địa Thượng Bồ Tát (từ Sơ Địa trở lên) thuận theo tâm ý của chúng
sanh mà hóa
hiện để tế độ chúng sanh. Ngoài ra các thân trong giai đoạn Trung Hữu, người
thuộc kiếp sơ, thân của chư thiên Sắc Giới và Vô Sắc Giới, thân biến hóa đều
được gọi là Ý Sanh Thân vì các thân ấy có thể thuận theo ý niệm mà biến đổi.
[18] Do
chư Phật biến hiện đủ loại thần thông nhằm thuận theo căn tánh của chúng sanh, khiến họ sanh lòng ưa
thích, tin tưởng, quy hướng, giống như một hình thức “biểu diễn” để
thu hút chúng sanh, nên gọi các chuyện thần thông biến hiện ấy là “vũ
hý” (múa, biểu diễn trò vui).
[19] Tô La Đa dịch nghĩa là Diệu Thích, Diệu Trụ, Diệu Trước, Diệu Lạc, có nghĩa là cộng trụ an lạc, cùng trụ trong diệu lý để thọ hưởng pháp lạc.
Comments
Post a Comment