LAM
Niệm Phật Thập Yếu
ĐỆ
CỬU
YẾU
NIỆM PHẬT
PHẢI AN NHẪN CÁC
CHƯỚNG DUYÊN
Vài
Nguyên Nhân Của Các Chướng Duyên
Các bậc tiền bối trong
làng tu thường bảo:
"Khi phát nguyện
làm những công đức rộng lớn, hay tu hành, thường gặp nhiều chướng duyên khảo
đảo thử thách."
Người xuất gia có bốn
giai đoạn mà chướng duyên thường phát hiện là: khi cạo tóc vào chùa, lúc thọ giới,
khi học kinh điển nhứt là kinh Đại Thừa, và lúc gác bỏ mọi việc để tịnh tu. Có
nhiều vị đã gieo sẵn duyên lành, hoặc do sức cố gắng tinh tấn nên dễ dàng vượt
qua ba giai đoạn trước, bước sang mức thứ tư. Nhưng đến khi tu hành tiến lên
trình độ khá cao, tất khó tránh khỏi chướng duyên phát hiện.
Như Hư Vân thượng nhơn, một
cao tăng cận đại, trong khi tinh tấn dụng công tham thiền, nghiệp chướng bỗng
phát hiện làm cho ngài bị đui, điếc và câm trong ba tuần nhựt.
Duyệt qua truyện cũ, bút
giả nhớ một vị họ Tô, cất am riêng ở chỗ thanh vắng tham thiền, đem
một người theo giúp việc. Ban sơ ông tập ngồi từ một, hai giờ rồi lần lần tăng
tiến có thể ba ngày đêm ở luôn trong định. Một độ nọ, Tô cư sĩ thiền định luôn
hai mươi mốt ngày không ăn uống. Người tùy cận thấy ông ngồi quá lâu, đến gần
dò xem thì hơi thở ra vào đã tuyệt, không còn thoi thóp như mấy lần
trước. Y không biết đó là trạng thái sâu mầu của thiền định, lầm tưởng
cư sĩ đã chết, liền đem ông đi chôn sống luôn.
Lại có một vị tăng tu
Tịnh Độ, niệm Phật mỗi ngày đêm đến mười muôn câu. Do công đức niệm Phật, chỗ
đất của sư đi đều hóa ra sắc vàng ròng. Một hôm có người nạn dân đến xin tá
túc. Sư nhìn người ấy rồi nói riêng với thị giả: "Gã này có tướng đạo tặc,
ngươi nên cho y ăn no rồi hãy bảo ra khỏi nơi đây." Ông đạo nhỏ vì
lòng thương xót, thấy người kia nài nỉ mãi, lưu luyến chưa nỡ đuổi. Quả nhiên
ít hôm sau, người ấy nửa đêm lén vào phòng sư, bẻ gãy chân tay giết ông chết,
trộm một ít đồ trong am rồi bỏ đi luôn.
Hai trường hợp trên cổ
đức bình luận cho là sức định nghiệp không thể tránh khỏi. Người tu có ba
chướng là: phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng, mà sức nghiệp
chướng lại nặng nề nguy hiểm hơn hai thứ kia. Nhưng tại sao khi chưa
tu thì chẳng có chi, đến lúc tu hành càng cao lại thường gặp nhiều chướng nạn?
- Đó cũng bởi chúng ta là phàm phu thời mạt pháp, cố nhiên phần đông chướng
duyên đều nặng. Nếu chúng ta nghiệp nhẹ, tất đã sanh vào thời tượng pháp hoặc
chánh pháp rồi. Nhưng không phải do tu hành nên phát sanh chướng nạn,
mà đó là sức chuyển nghiệp, chuyển quả báo nặng thành quả báo nhẹ, chuyển quả
báo đời sau thành quả báo hiện tại. Giả sử ta có mười phần nghiệp
chướng, do công đức tu nên tiêu trừ được bảy phần, còn phát hiện ra ba phần. Và
đáng lẽ quả báo ấy đến sau mới trả, nhưng nhờ sức tu niệm, nên chỉ chịu quả nhẹ
trong kiếp này để mau được giải thoát.
Như Giới Hiền
luận sư tiền kiếp là một vị quốc vương đem binh đi đánh dẹp các nơi,
tạo nghiệp sát quá nhiều, đáng lẽ đến đời này sau khi hưởng phước thừa
rồi chết, sẽ phải bị đọa vào địa ngục. Nhưng nhờ Luận Sư chí tâm tu
hành và hoằng dương Phật pháp, nên mỗi ngày ông bị một cơn bịnh trạng như có
nhiều lưỡi gươm vô hình đâm chém trong thân. Như thế trải qua hai năm
bịnh mới dứt. Do duyên đó mà luận sư tiêu được nghiệp địa ngục,
sanh lên cõi Đâu Suất Đà Thiên.
Lại như ông Ngô
Mao tiền nhân cũng tạo nghiệp sát, đáng lẽ phải đọa làm heo
bảy kiếp cho người giết. Nhưng nhờ ông trường trai niệm Phật, nên khi
thọ số mãn, bị giặc đâm bảy dao trả nghiệp xong một lần, rồi được vãng
sanh về Cực Lạc. Nói tóm lại, lời tục gọi đó là trạng thái “dồn
nghiệp”.
Tuy nhiên, không phải
mỗi người tu đều bị trả quả. Có người càng tu càng có điểm tốt, càng được an
thuận, không bị trở ngại chi. Đó là do vị ấy những kiếp về trước không
tạo nghiệp chi quá nặng, hoặc đã từng tu niệm và có nhiều căn lành. Nhưng
luận theo phần đông, đại khái nếu không gặp những chướng ngại lớn, cũng vấp
phải những chướng ngại nhỏ. Ngoài những trở ngại của ngoại duyên, lại còn có ba
nguyên nhân phát sanh chướng nghiệp:
1. Cứ theo tông
Pháp Tướng, trong tạng thức của ta có chứa lẫn lộn những nghiệp chủng lành
dữ. Khi niệm Phật hay tham thiền, ta huân tập hạt giống công đức vô lậu vào,
tất các nghiệp chủng kia phải phát hiện. Ví như một khu rừng rậm nhiều thú, nếu
có dân cư đến khai hoang, tất cây cối bị đốn, các loài thú đều chạy ra. Cảnh
tướng và phiền não chướng duyên do nghiệp chủng phát hiện cũng thế. Đây
gọi là sức phản ứng của chủng tử nghiệp.
2. Có những vị tu hành
chẳng am tường giáo lý, không hiểu những tướng của nội tâm và ngoại cảnh đều
như huyễn, chưa phát minh thế nào là chân và vọng, nên nhận định sai
lầm. Do đó đối với cảnh duyên trong ngoài sanh niệm tham chấp, vui
mừng, thương lo, sợ hãi, mà tự gây chướng nạn cho mình.
3. Lại ví như người theo
họa đồ đi tìm mỏ vàng, đường sá phải trải qua non cao, vực thẳm, đồng vắng,
rừng sâu, bước hành trình tất phải nhiều công phu và gian lao khổ nhọc. Nếu
người ấy không vững lòng, không biết tùy sức tùy hoàn cảnh mà nhẫn nại uyển
chuyển, tất phải thối lui. Hoặc có khi bỏ cuộc ghé vào một cảnh tạm nào đó, hay
chết giữa đường. Lộ trình tu tập cũng thế, hành giả tuy y theo kinh giáo mà
thật hành, song nếu không biết tùy sức tùy hoàn cảnh nhẫn nại uyển
chuyển, sự lập chí không bền lâu, tất sẽ thất bại. Chướng nạn đó
cũng do chính mình gây ra.
Trên đây là đại lược một
ít nguyên nhân của các điều chướng ngại.
Các
Duyên Ma Khảo
Những duyên nghiệp khảo
đảo gây chướng ngại cho người tu, có rất nhiều chi tiết sai biệt. Nay chỉ xin
tóm tắt đại cương qua sáu điểm:
1. Nội Khảo:
- Có người trong lúc tu tập, bỗng khởi lên những tâm niệm tham lam, giận hờn,
dục nhiễm, ganh ghét, khinh mạn, nghi ngờ, hoặc si mê dễ hôn trầm buồn ngủ.
Những tâm niệm ấy đôi khi phát hiện rất mãnh liệt, gặp duyên sự nhỏ cũng dễ
sanh cau có bực mình. Nhiều lúc trong giấc mơ, lại thấy các tướng thiện ác biến
chuyển. Trong đây những tình tiết chi ly không thể tả hết được. Gặp cảnh này,
hành giả phải ý thức đó là do công năng tu hành nên nghiệp tướng phát hiện.
Ngay lúc ấy, nên giác ngộ các nghiệp tướng đều như huyễn, nêu cao chánh niệm,
tự nhiên những tướng ấy sẽ lần lượt tiêu tan. Nếu không nhận thức rõ ràng, tất
bị nó xoay chuyển làm cho thối đọa.
Tiên đức bảo:
"Chẳng sợ nghiệp
khởi sớm, chỉ e giác ngộ chậm," chính là điểm này.
Có người đang lúc dụng
công, bỗng phát sanh tán loạn, mỏi nhọc khó cưỡng nỗi. Ngay khi ấy, nên đứng
lên lễ Phật đi kinh hành, hoặc tạm xả lui ra ngoài đọc một vài trang sách, sửa
năm ba cành hoa, chờ cho thanh tĩnh sẽ trở vào niệm Phật lại. Nếu không ý thức,
cứ cưỡng ép cầu cho mau nhứt tâm, thì càng cố gắng lại càng loạn. Đây là sự
uyển chuyển trong lúc dụng công, ví như thế giặc quá mạnh tợ nước tràn, người
chủ soái phải tùy cơ, nên cố thủ chớ không nên ra đánh. Có vị tu hành, khi niệm
Phật bỗng thấy cô tịch như bản đàn độc điệu dễ sanh buồn chán, thì
không ngại gì phụ thêm trì chú, quán tưởng, hoặc tụng kinh.
Nhân tiện, xin thuật ra
đây một việc để cho các bạn đồng tu thêm phần nhận thức. Có một nữ Phật tử đến
chỗ bút giả buồn khóc, thưa thật rằng: mỗi khi cô niệm Phật tụng kinh độ vài
mươi phút là ngủ gục lúc nào không hay, có khi tiểu tiện ngay trước bàn Phật.
Do đó cô sợ tội bỏ luôn không dám tụng niệm. Bút giả khuyên cô nên
chuyên sám hối trong một thời gian. Quả nhiên ít lâu sau cô dứt hẳn
nghiệp tướng ấy, lại nằm mơ thấy nhiều vỏ ốc, đập mỗi vỏ ốc ra thấy một hạt
sen. Cô này nghiệp si nặng, vỏ ốc là hiện tướng của nghiệp si, đập vỏ ốc thấy
hạt sen là phá si mê mà thành tựu nhân lành giác ngộ vãng sanh về cõi Phật.
Lại có một vị sa di trần
thuật lại rằng: Cứ ít đêm chú nằm mơ, thấy ba bốn mươi người cầm dao gậy đến
đánh chém. Chú thay đổi trì Đại Bi rồi Chuẩn Đề chân ngôn đều không thành tựu,
vì mỗi lần tụng độ ít biến là nhức đầu cả ngày, uống thuốc cũng không khỏi.
Biết mình nghiệp nặng, chú phát nguyện lạy Tam Thiên Phật để sám hối. Nhưng khi
lên chùa lễ Phật thì thấy một người tướng mạo cao lớn hung dữ đến xô té không
cho lạy. Do đó chú đến buồn khóc bảo: Có tội thì sám hối tu hành, nhưng sám hối
tu hành không được, chẳng biết phải làm sao? Bút giả nghe xong suy nghĩ, biết
vị này nghiệp sát nặng, mà chú Đại Bi cùng Chuẩn Đề có sức phá nghiệp khá mạnh,
và tâm nguyện lạy Tam Thiên Phật là điều nguyện rộng lớn.
Đây là lỗi ở chỗ chỉ biết
cầu riêng phần mình mà không cầu cho các vong oan trái, và cách dụng công phá
nghiệp không khéo uyển chuyển. Ví như người yếu
bị bịnh phong nặng, đáng lẽ phải dùng các vị thuốc nhẹ như Phòng Phong, Kinh
Giới lần lượt tiêu trừ, mà trái lại vì muốn cho mau lành, dùng đến các vị thuốc
mạnh như Mã Tiền, Bã Đậu để khu phong, tất con bịnh bị hành hạ chịu không nổi.
Do đó bút giả khuyên chú mỗi đêm nên thử lạy Tiểu Sám Hối theo Kinh Pháp Hoa,
rồi quì tụng Vãng Sanh hăm mốt biến, đoạn niệm Phật độ năm trăm câu để cầu tiêu
tội, và nguyện cho các mối tiền oan được mau siêu thoát. Cứ hành trì như thế
trong một thời gian, nếu thấy yên ổn, có thể lần lượt tăng thêm. Chú sa di y
theo lời, quả nhiên trạng thái ấy dứt tuyệt.
Trên đây là những nghiệp
tướng khảo đảo bên trong, nếu không biết giác ngộ uyển chuyển phá trừ, tất sẽ
thành ra chướng nạn.
2. Ngoại Khảo:
- Đây là những chướng cảnh bên ngoài làm duyên khó khăn thối đọa cho hành giả.
Chứng cảnh đó là sự nóng bức, ồn ào, uế tạp, hoặc chỗ quá rét lạnh hay nhiều
trùng, kiến, muỗi mòng. Gặp cảnh này cũng nên uyển chuyển, đừng chấp theo hình
thức, chỉ cầu được an tâm. Chẳng hạn như ở cảnh quá nóng bức, chẳng ngại gì mặc
áo tràng mỏng lễ Phật, rồi ra ngồi chỗ mát mà trì niệm, đến khi xong lại trở
vào bàn Phật phát nguyện hồi hướng. Hoặc gặp chỗ nhiều muỗi, có thể ngồi trong
màn thưa mà niệm Phật. Như ở miền Bắc Trung Hoa vì thời tiết quá lạnh, các sư
khi lên chánh điện tụng kinh, cũng phải mang giày vớ và đội mũ cẩn thận. Có
hàng Phật tử vì nhà nghèo, làm lụng vất vả, đi sớm về khuya, hoặc nợ nần thiếu
hụt, rách rưới đói lạnh, vợ yếu con đau, không có chỗ thờ cúng trang nghiêm.
Trong hoàn cảnh ấy sự tu tập thật ra rất khó, phải có sự nhẫn nại cố gắng như
bà lão ăn xin niệm Phật, mới có thể thành công. Hoặc có người vì nhiều chướng
nghiệp, lúc không tu thì thôi, khi sắp vào bàn Phật lại nhức đầu, chóng mặt
sanh đủ chứng bịnh, hay có khách viếng thăm và nhiều việc bất thường xảy
đến. Gặp những cảnh như thế, phải cố gắng và khéo uyển chuyển tìm
phương tu hành. Sự cố gắng uyển chuyển tùy trường hợp sai biệt mà ứng
dụng không thể nói ra hết được. Nên nhớ gặp hoàn cảnh bất đắc dĩ, phải chú
trọng phần tâm đừng câu nệ phần tướng mới có thể dung thông. Cõi Ta Bà ác trược
vẫn nhiều khổ lụy, nếu không có sức cố gắng kham nhẫn, tất sự tu hành khó mong
thành tựu.
3. Nghịch Khảo:
- Trên đường đạo, nhiều khi hành giả bị nghịch cảnh làm cho trở ngại. Có người
bị cha mẹ anh em hay vợ chồng con cái ngăn trở hoặc phá hoại không cho tu. Có
vị thân mang cố tật đau yếu mãi không lành. Có kẻ bị oan gia luôn theo đuổi tìm
cách mưu hại. Có người bị vu oan giá họa, khiến cho ngồi tù chịu tra khảo hoặc
lưu đày. Có vị bị sự tranh đua ganh ghét, hoặc bêu rao nhiều tiếng xấu xa, làm
cho khó an, khó nhẫn. Điều sau này lại thường xảy ra nhiều nhứt. Những cảnh ngộ
như thế đều do sức nghiệp.
Lời xưa từng nói:
"Hữu bất ngu chi
dự, hữu cầu toàn chi hủy."
Câu trên hàm ý
nghĩa: Có những tiếng khen, những vinh dự bất ngờ, không đáng khen mà
được khen; và có những sự kiện thật ra không đáng khinh chê, lại diễn thành
cảnh khinh hủy chê bai trọn vẹn. Để chứng minh điểm này, bút giả xin
thuật một vài việc nhỏ:
Trước đây vào thời Pháp
thuộc, có một vị hòa thượng được triều đình Huế ban cho bằng
Tăng Cang, và phong tặng hiệu chùa là Sắc Tứ. Do đó đi đâu hòa thượng đều có xe
ngựa và bê son, tích trượng theo hầu, thậm chí lúc lên xuống đò cũng có người
võng. Một tên du đãng thấy thế bất mãn chưởi thề, rồi tuyên ngôn để đến ngày
Rằm tháng Bảy sẽ lên chùa xài mắng hòa thượng một trận trước mặt các tín đồ.
Đến ngày ấy, tên du đãng sau khi uống rượu xong, ở trần vắt áo lên chùa, gặp
dịp một người Phật tử đem con quy nhờ hòa thượng chú nguyện thả nơi ao sen.
Thấy quang cảnh ấy, y bỗng cảm động, trở về kêu đồng bọn lên chùa quy y, rồi từ
đó đi đâu cũng khen hòa thượng là bậc hiền lành đạo đức. Cho đến việc hầu hạ
võng giá, y cũng nói là do thầy mình có phước.
Lại câu chuyện xảy ra
cách đây không lâu, có hai Phật tử ở xa đến viếng thăm một vị thượng
tọa đồng hương đã từng quen thân từ trước. Khi đến chùa thì vị thượng
tọa vừa đi khỏi cách đó độ mười lăm phút. Hai người gạn hỏi, ông thị giả nói
thầy vừa đi khỏi; hỏi mấy vị khác, họ không biết bảo là mới thấy thầy ở đây.
Chỉ một chút đó mà hai Phật tử ấy sanh lòng nghi ngờ vị thượng tọa không muốn
tiếp mình, từ biệt luôn không đến chùa, rồi đi đâu cũng chê bai vị thượng tọa
nọ gồm những điều không đức hạnh.
Thật ra, cung cách của
vị hòa thượng trên không đáng khen mà được khen. Và hành động vô tâm của vị
thượng tọa kể sau không có gì đáng chê, lại bị hiểu lầm khinh hủy. Thế gian cho
đó là điều may rủi, thuyết nhân quả nhà Phật nhận định là lúc nghiệp duyên tội
phước hiện ra.
Cổ thi có câu:
Vẻ chi ăn uống sự
thường.
Cũng là tiền định khá thương lọ là.
Một việc nhỏ đã như thế,
thì tất cả các nghịch cảnh khác đều do túc nghiệp, hoặc hiện nghiệp xui khiến.
Khi gặp những cảnh này hành giả chỉ nên ẩn nhẫn sám hối, chớ buồn phiền oán
trách mà thối thất đạo tâm.
4. Thuận Khảo:
- Có người không gặp cảnh nghịch mà lại gặp cảnh thuận, như cầu gì được nấy,
nhưng sự thành công đều thuộc duyên ràng buộc chớ không phải giải thoát. Có vị
khi phát tâm muốn yên tu bỗng cảnh danh lợi sắc thanh chợt đến, hoặc nhiều
người thương mến muốn theo phụng sự gần bên. Thí dụ như người xuất gia khi phát
tâm tu, bỗng có kẻ đến thỉnh làm tọa chủ một ngôi chùa lớn; hoặc như người tại
gia thì có thơ mời làm tổng, bộ trưởng, hay một cuộc làm ăn mau phát tài.
Đây là những cảnh thuận
theo duyên đời quyến rũ người tu, rồi dẫn lần đến các sự phiền toái khác làm
mất đạo niệm.
Người ta chết vì lửa thì
ít, mà chết vì nước lại nhiều, nên trên đường tu cảnh thuận thật ra đáng sợ hơn
cảnh nghịch. Cảnh nghịch đôi khi làm cho hành giả tỉnh ngộ dễ thoát ly niệm
tham nhiễm, hoặc phẫn chí lo tu hành. Còn cảnh thuận làm cho người âm thầm thối
đạo lúc nào không hay, khi bừng tỉnh mới thấy mình đã lăn xa xuống dốc. Người
xưa nói: "Việc thuận tốt được ba. Mê lụy người đến già." Lời
này đáng gọi là một tiếng chuông cảnh tỉnh. Thế nên duyên thử thách của sự
thuận khảo rất vi tế, người tu cần phải lưu ý.
5. Minh Khảo: -
Đây là sự thử thách rõ ràng trước mắt mà không tự tỉnh ngộ. Chẳng hạn như một
vị tài đức không bao nhiêu, nhưng được người bưng bợ khen là nhiều đức hạnh,
tài năng, có phước lớn, rồi sanh ra tự kiêu tự đắc, khinh thường mọi người, làm
những điều càn dở, kết cuộc bị thảm bại.
Hoặc một vị có đủ khả
năng tiến cao trên đường đạo, nhưng bị kẻ khác gàn trở, như bảo ăn chay sẽ bị
bịnh, niệm Phật, trì chú nhiều sẽ bị đổ nghiệp, gặp nhiều việc không lành, rồi
sanh ra e dè lo sợ, thối thất đạo tâm.
Hoặc có những cảnh tự
mình biết nếu tiến hành dễ rước lấy sự lỗi lầm thất bại, nhưng vì tham vọng hay
tự ái, vẫn đeo đuổi theo. Hoặc đối với các duyên bên ngoài, tuy biết đó là giả
huyễn nhưng không buông bỏ được, rồi tự chuốc lấy sự buồn khổ vào tâm.
Như có một vị sư đổ ra
nhiều công của mướn thợ chẻ đá, thợ mộc, thợ hồ, xây cất một cảnh chùa to trên
núi. Khi ngôi tự viện vừa hoàn thành, thì sư cũng vừa kiệt sức mang bịnh
nặng. Lúc sắp chết, ông sai đệ tử võng đi quanh chùa rờ từ viên đá buồn
khóc tiếc than!
Lại trước đây có một
tăng sĩ địa vị trong đạo khá cao, tánh tình chân thật rộng rãi ưa bố thí, nhưng
vấp phải một khuyết điểm là hay tự đắc, tự kiêu. Vài chánh khách thấy được chỗ
đó, đem một nhà tướng sĩ đến giả vờ thăm chơi, rồi thuận tiện nhìn qua khen sư
nhiều phước tướng, tất được vô số người ủng hộ, danh vọng càng thành đạt tiến
cao. Ông ấy lại nói thêm, nếu sư thích hoạt động, sẽ thành một tay lãnh tụ, và
như ở ngoài đời có thể làm đến tổng thống. Sư nghe xong tuy khiêm nhường đôi
tiếng, nhưng lộ vẻ cực kỳ hoan hỷ. Nhân đó, các chánh khách than vãn
thời thế, thương dân chúng khổ não, vận nước suy đồi, rồi dần dà thuyết phục
lôi cuốn sư vào một cuộc vận động chánh trị. Và cũng bởi đó, sư bị tai nạn
trong một thời gian khá lâu.
Thế nên kẻ dễ dãi nhẹ dạ
thường hay bị phỉnh gạt. Khi chưa diệt được tham vọng dễ bị người khác dùng
tiền tài, sắc đẹp hoặc danh vị cuốn lôi. Cho đến nếu còn tánh nóng nảy khí
khái, tất dễ bị người khích động, gánh vác lấy những việc phiền phức vào thân.
Đây là những cạm bẫy của đời mà cũng là của đạo, xin nêu ra để khuyên nhắc cùng
nhau, nếu không dè dặt những điểm đó, sẽ vương vào vòng chướng nghiệp. Đối
với những duyên thử thách như thế, hành giả phải nhận định cho sáng suốt, và
sanh lòng quả quyết tiến theo đường lối hợp đạo mới có thể thắng nó được.
6. Ám Khảo: -
Điều này chỉ cho sự thử thách trong âm thầm không lộ liễu, hành giả nếu chẳng
khéo lưu tâm, tất khó hay biết.
Có người ban sơ tinh tấn
niệm Phật, rồi bởi gia kế lần sa sút, làm điều chi thất bại việc ấy, sanh lòng
lo lắng chán nản, trễ bỏ sự tu.
Có vị công việc lại âm
thầm tiến triển thuận tiện rồi ham mê đeo đuổi theo lợi lộc mà quên lãng đường
lối tu hành.
Có kẻ trước tiên siêng
năng tụng niệm, nhưng vì thiếu sự kiểm điểm, phiền não ở nội tâm mỗi ngày tăng
thêm một ít, lần lượt sanh ra biếng trễ, có khi đôi ba tháng hay một vài năm
không niệm Phật được một câu.
Có người tuy sự sống vẫn
điều hòa đầy đủ, nhưng vì thời cuộc bên ngoài biến chuyển, thân thế nhà cửa nay
đổi mai dời, tâm mãi hoang mang hướng ngoại, bất giác quên bỏ sự trì niệm hồi
nào không hay.
Trên đây đều là ảnh
hưởng diễn biến của nghiệp thiện ác, nhưng nó có sức thầm lôi cuốn hành giả làm
cho bê trễ sự tu trì, nên gọi là "khảo". Khi mới tu, ai
cũng có một điểm hảo tâm, nhưng lần lượt bị những duyên nghiệp trong ngoài, một
trăm người đã rớt hết chín mươi chín.
Lời xưa nói:
"Tu hành nhứt niên
Phật tại tiền,
nhị niên Phật tại tây
thiên,
tam niên vấn Phật yếu
tiền."
Câu này có ý nghĩa:
sự tu hành năm đầu Phật
như ở trước mặt, năm thứ hai Phật đã về Tây, sang năm thứ ba ai muốn hỏi đến
Phật hay bảo niệm Phật, phải trả tiền mới chịu nói tới, hoặc niệm quá ít câu.
Lời ngụ ngôn này cũng
chỉ vào những điểm ở trên, hành giả cần phải lưu tâm chú ý.
Lời
Khuyên Dạy Của Cổ Đức
Khi mới vào chùa, bút
giả nghe được một truyền thuyết bao hàm ẩn ý, mà không biết có đúng với nguyên
ngữ chăng, và phát xuất từ đâu? Câu ấy là: "Phật cao nhứt xích, ma cao
nhứt trượng, Phật cao nhứt trượng, ma cao quá trượng đầu, Phật cao siêu quá trượng
đầu, ma quy hàng Phật." Ý nghĩa câu này là:
"Phật cao một
thước, ma cao một trượng. Phật cao một trượng, ma cao khỏi đầu trượng; nếu Phật
cao vượt khỏi đầu trượng nữa, ma sẽ quy hàng Phật."
Suy gẫm theo câu trên,
người tu phải làm sao cho ông Phật của mình cao hơn con ma, nếu chẳng thế tất
bị ma chướng đánh đổ. Cho nên trong làng tu, những kẻ bị thối bại không nên đổ
cho hoàn cảnh, hoặc phiền trách ai, chỉ trách tại ông Phật của mình thua con ma
mà thôi. Nếu cố gắng giữ vững chí nguyện, ma chướng sẽ tiêu trừ. Vì biết trên
đường tu có nhiều chướng ngại, khi xưa đức Đạt Ma Tổ Sư đã nói bốn hạnh để làm
phương châm tiến đạo cho hàng đệ tử. Bốn hạnh ấy là: Báo Oan Hạnh, Tùy
Duyên Hạnh, Xứng Pháp Hạnh và Vô Sở Cầu Hạnh.
1. Sao gọi là
Báo Oan Hạnh? - Chúng ta từ trước đến nay luân hồi trong sáu nẻo, mỗi
đời đều gây nghiệp trái hoặc ân hoặc oán, từ việc nhỏ đến việc lớn, có thể nói
là vô lượng vô biên. Cho nên khi ta hành đạo, tuy nhờ công đức tu tập tiêu trừ
một phần nào, nhưng các nghiệp chưa tan, tất phải lần lượt đền trả. Như người
thường đau yếu hoặc tàn tật, do kiếp trước đã tạo nghiệp sát sanh. Người bị
nhiều tiếng thị phi khen chê, do kiếp trước ỷ thông minh quyền thế xem rẻ
người, hoặc đã tạo nghiệp hủy báng. Người bị nghèo khổ thiếu hụt, do kiếp trước
không có lòng xót thương tu hạnh bố thí. Người bị gông cùm tra khảo tù đày, do
kiếp trước hay trói buộc, đánh đập, giam nhốt chúng sanh. Kẻ bị cô độc lẻ loi
thiếu người phụ trợ, do kiếp trước không hoan hỷ kết duyên với mọi người. Những
nghiệp như thế vô lượng vô biên, ngày nay tu hành khi bị oan trái đến, phải an
lòng nhẫn nại chịu đền trả, không nên oán trách buồn phiền. Nơi kiếp luân hồi,
chúng sanh đều có ăn uống cùng gia đình đôi bạn, nên trong các nghiệp duy có
nghiệp sát và nghiệp ái là nặng nhứt.
Cổ đức đã than:
"Bể nghiệp mênh
mang, khó đoạn không chi hơn ái dục. Cõi trần man mác, dễ phạm duy chỉ có sát
sanh!"
- Bút giả từng nghe một
Phật tử Bắc Việt thuật lại câu chuyện, vì lâu quá chỉ nhớ phần đại khái, quên
mất tên họ địa chỉ của người trong cuộc. Phật tử ấy nói: "Có một
vị sư nguyên là thầy giáo, vì tỉnh ngộ cảnh thế phù du, nên lên tịnh tu trên
núi. Trải một thời gian, vị sư được chư thần mách bảo rằng:
Ông có duyên nợ mười
chín năm với một cô tên họ là thế, nay tuy đã tu hành không nên kết duyên chồng
vợ, nhưng phải xuống núi dạy dỗ giác ngộ cô kia, trả xong mối nợ tiền khiên
đúng như thời hạn ấy, rồi trở lên núi tu hành mới có thể thành công.
Vị sư y lời xuống núi,
quả nhiên gặp một cô tên họ đúng như chư thần đã bảo, cảm mến đeo đuổi. Sư khuyên
nhủ dạy đạo cho cô, trả xong y theo thời hạn rồi lên núi. Lúc lâm biệt cô ấy
vẫn còn quyến luyến khóc lóc." Đây là sự trả nợ nần về nghiệp ái.
Nơi truyện Quần Tiên,
nhân tiết Trung Thu, chàng văn sĩ Vân Tiêu lên núi chơi. Trong đêm Rằm, chàng
mục kích chư tiên nương mây cỡi hạc giáng xuống một tòa thạch bàn, bày tiệc
trái ngon rượu quý, vừa đàn ngâm hát rằng:
Đêm Thu một khắc một
chầy
Vầng trăng khéo rọi cảnh này sơn âm!
Nghiêng bầu hỏi bạn đồng tâm
Hằng Nga khuất bóng biết tìm nơi đâu?
Bên tiên nữ có một nàng
tên là Thái Loan, sắc đẹp dịu dàng, ca ngâm hay nhất, làm cho Vân Tiêu tuy ẩn
bóng rình nghe, cũng bàng hoàng xúc động. Giây lát sau, một vị lão tiên uống
rượu xong, ca rằng:
Hữu duyên tương hội tại
tiên đàn
Ưng đắc Vân Tiêu giá Thái Loan!
Nghe hai câu ấy, Vân
Tiêu phải chường mặt ra dự vào đàn tiên. Chư tiên bảo Thái Loan tiên nữ còn
trần duyên với Vân Tiêu mười ba năm, truyền đồng tử đem sổ ra xóa bỏ tiên tịch.
Và sau mười ba năm sống với Vân Tiêu, trần duyên đã mãn, Thái Loan dùng phép ẩn
thân bay về non tu lại. Cho nên chư tiên vẫn còn ở trong vòng nhân duyên kiếp
quả.
Về nghiệp sát, như Sư
Tử tôn giả bên Ấn Độ và Thần Quang nhị tổ ở Trung Hoa
tuy đều đắc đạo, nhưng ngày kết liễu vẫn phải an nhiên chịu chém để đền nợ
mạng. Lại như ngài Mục Kiền Liên tuy đắc quả A La Hán, thần
thông bậc nhất trong hàng Thanh Văn, nhưng vì muốn trả túc nghiệp, nên để bọn
hung đồ dùng đá gậy liệng đánh cho đến chết, thi hài lại bị vùi trong hầm phẩn.
Đức Phật thấy thế thương xót, sai đệ tử đem thây Ngài lên tắm rửa sạch sẽ, xoa
ướp dầu thơm, rồi đem đi trà tỳ thâu lấy xá lợi. Và như thái tử nước An Tức
xuất gia tu hành đắc đạo, dùng Túc Mạng Trí thấy mình còn nghiệp trái sát sanh,
nên ba phen chuyển kiếp đến xứ Lạc Dương ở Trung Hoa trả nợ mạng ba lần. Kiếp
sau rốt, ngài là sa môn An Thế Cao.
Cho nên trên đường tu
đâu biết ai là toàn vẹn, ta không nên tự mãn mà khinh thường người. Bởi nghiệp
trái của chúng sanh rất nhiều, có khi đền trả hết lớp này lại đến lớp khác.
Nhiều vị xem dường rảnh rang không oan trái, nhưng chưa hẳn là không có, chỉ vì
chưa đến thời tiết nhân duyên đền trả đó thôi. Muốn dứt oan khiên ta phải an
nhẫn sám hối và cố gắng tu hành để diệt trừ. Thi sĩ Nguyễn Du có lẽ đã tin sâu
về thuyết nghiệp báo và sự cải tạo nhân quả của nhà Phật, nên mới có câu:
Đã mang lấy nghiệp vào
thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Có trời mà cũng có ta...
Lời này đã được nhiều
bậc thức giả công nhận.
2. Thế nào là
Tùy Duyên Hạnh? - Đây là nói sự an phận tùy duyên của người tu cảnh
nào sống theo cảnh ấy. Như cảnh giàu sang tùy theo giàu sang, cảnh nghèo hèn
tùy theo nghèo hèn, cảnh man rợ tùy theo man rợ, cảnh hoạn nạn tùy theo hoạn
nạn, cho đến cảnh thạnh suy, họa phước, đắc thất, thị phi... cũng đều như thế.
An phận tùy duyên đây, là giàu sang mà không tự đắc kiêu căng, nghèo hèn hoạn
nạn mà không buồn rầu đổi chí. Tại sao thế? Vì tất cả cảnh thạnh suy
họa phước đều như huyễn, chỉ tùy nghiệp hiện lên một thời gian rồi diệt, có chi
đáng tham luyến nản buồn?
Khi xưa, đức Khổng Tử và
đồ đệ bị giặc vây giữa nước Trần, nước Thái, thầy trò tuyệt lương đã bảy ngày,
song Ngài vẫn khảy đàn tươi cười. Tử Cống hỏi: "Tại sao gặp hoàn cảnh sống
chết không định ngày, mà phu tử hãy còn vui cười được?" Ngài đáp:
"Việc gì ta đã cố gắng làm hết sức ta mà xảy ra như vậy, là mạng trời, buồn
rầu thương khóc nào có ích chi?" Như đức Khổng Tử có thể gọi là bậc thánh
tri mạng, luôn luôn bình tĩnh sáng suốt, không bị bối rối đổi thay trước mọi
hoàn cảnh. Người tu nên như thế, phải xem ruộng vườn, nhà cửa, quyến
thuộc, tài sản đều là duyên giả tạm, không vì nó mà quyến luyến bận tâm, mới có
thể tiến lên đường giải thoát.
3. Sao gọi là
Xứng Pháp Hạnh? - "Pháp" đây là Chân Như pháp, đối với người
tu Tịnh Độ là Niệm Phật Tam Muội. Người tu Thiền khi đi đứng nằm ngồi, tâm phải
xứng hợp với pháp Chân Như, như nước hòa nước, tợ hư không hợp với hư không.
Hành giả tu Tịnh Độ cũng thế, tâm lúc nào cũng trụ nơi câu niệm Phật. Cổ đức
bảo: "Nếu tạm thời không trụ nơi chánh định, tức đồng như người đã
chết." Bởi không trụ được nơi chánh định, tức là bị trần cảnh đoạt. Bị
trần cảnh cướp đoạt lôi cuốn, thì pháp thân huệ mạng không còn. Cho nên
người tu Tịnh Độ nếu thường trụ nơi câu niệm Phật, thì tâm địa lần lần lặng yên
sáng suốt, cảm thông với Phật, chắc chắn sẽ được vãng sanh.
4. Thế nào là Vô
Sở Cầu Hạnh? - Đạo là chỉ cho tâm hạnh trong sạch không mong cầu điều
chi. Bởi tất cả pháp đều như huyễn, sanh rồi diệt, diệt lại sanh, có chi chân
thật để mong cầu? Vả lại pháp thế gian đều tương đối, trong họa có phước, trong
phước có họa, nên người trí vẫn bình thản, ở cảnh thạnh suy họa phước đều không
động tâm. Thí dụ: một tăng sĩ khi ẩn tu nơi am tranh vắng vẻ, sự sống hẩm hiu,
ít người thăm viếng, duyên đời tuy suy nhưng đạo lại thạnh. Ít lâu sau, nếu có
người đạo tâm hay biết tới cúng dường, lần lần lập nên chùa lớn, tăng chúng tập
trung về đông đảo, chừng ấy phước duyên tuy thạnh nhưng phần giải thoát lại
suy, bởi vị ấy mắc bận tâm lo ứng phó công việc bên ngoài. Lẽ họa phước ẩn
nương nhau cũng như thế. Cho nên tâm hạnh của người tu là không cầu
việc ác, hay cầu làm chúng sanh, cũng không cầu điều thiện, hoặc cầu thành
Phật.
Có người hỏi: "Nếu
niệm Phật không cầu vãng sanh, không cầu phước huệ viên mãn để thành Phật, thì
làm sao tu tiến?"
Đáp: "Bởi
Phật là chơn không, càng cầu lại càng xa càng mất."
Vì thế Kinh Pháp Hoa
nói: "Giả sử có vô số bậc Thanh Văn, Duyên Giác cho đến hàng Bất
Thối Bồ Tát, trong vô lượng kiếp suy nghĩ tìm cầu, cũng không thấy hiểu được
thật trí của Phật."
Về sự vãng sanh, thì lối
cầu của người tu là cầu mà không cầu, không cầu mà cầu. Sự ứng dụng ấy như mặt
gương sáng trong, khi hình đến thì chiếu soi, hình đi, lại lặng yên rỗng
suốt. Giữ sự thấy biết tìm cầu thì lạc vào vọng tưởng, không thấy biết
tìm cầu nào khác gì gỗ đá vô tri!" Nói rộng ra, hạnh Vô Sở Cầu
đây gồm cả ba môn: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện vậy.
Nếu người tu giữ theo
bốn hạnh của đức Đạt Ma Tổ Sư đã dạy, thì có thể bình thản trước mọi chướng
duyên.
Cách
Giữ Vững Tâm Không Thối Chuyển
Trong luận Niệm
Phật Bảo Vương Tam Muội có thuyết minh về Thập Bất Cầu Hạnh, nghĩa là
mười hạnh không cầu, để phá mười điều chướng ngại lớn. Mười điều chướng ngại
này gồm nhiếp tất cả chướng ngại. Cho nên nếu nắm vững mười hạnh không cầu đây,
thì tất cả chướng ngại đều phải tiêu tan.
Mười hạnh ấy là:
1. Thân không cầu không
bịnh. Thân không đau bịnh thì tham dục dễ sanh. Tham dục sanh thì phá giới thối
đạo.
2. Cuộc đời không cầu
không hoạn nạn. Đời không hoạn nạn, thì kiêu xa dễ khởi. Khi lòng kiêu mạn xa
hoa khởi lên, sẽ khinh dễ đè lấn tất cả mọi người.
3. Tu tâm không cầu
không chướng ngại, tâm không chướng ngại thì sự học sẽ vượt bậc. Học vượt bậc
tất có lỗi chưa được cho là mình đã được, đã thông suốt.
4. Lập hạnh không cầu
không bị ma chướng. Hạnh không ma chướng thì sức thệ nguyện không bền chắc.
Nguyện không bền chắc sẽ có lỗi chưa chứng cho là mình đã chứng.
5. Mưu sự không cầu dễ
thành tựu. Sự dễ thành tựu thì sanh niệm khinh lờn. Niệm khinh lờn sanh, tất
mang lỗi tự đắc cho rằng mình đủ đức hạnh tài năng.
6. Giao hảo không cầu
mình được lợi ích. Mình được ích lợi thì hư mất đạo nghĩa. Đạo nghĩa hư mất,
tất chỉ thấy lỗi của người.
7. Đối với người không
cầu được sự thuận thảo. Người thuận thảo thì mình dễ tự kiêu. Và lòng đã kiêu
căn, tất chỉ thấy phần phải của mình.
8. Làm ơn không cầu báo
đáp. Cầu báo đáp thì lòng có chỗ tính toan. Đã có tính toan tất sẽ ham lợi khoe
danh.
9. Thấy lợi không cầu
mình được phần. Cầu được phần thì lòng si nổi động. Khi lòng si nổi dậy, tất sẽ
bị mối lợi nhơ làm tiêu hủy thanh danh.
10. Bị oan ức không cầu
biện minh. Cầu biện minh thì lòng nhơn ngã còn chưa dứt. Tâm nhơn ngã thị phi
chưa dứt, tất mối oán hận sẽ từ đó nảy sanh ra nhiều.
Suy qua các điểm trên,
ta thấy cuộc đời đầy nỗi chướng ngại, mà có thể khái quát lại trong 10 điều:
1. Thân đau bịnh
2. Gặp hoạn nạn
3. Sự tu học bị ngăn trở
4. Khi lập hạnh ma chướng phá
5. Mưu sự thất bại
6. Bạn bè phản phúc lãnh đạm
7. Nhiều kẻ chống đối
8. Làm ơn mắc oán
9. Người mưu chiếm lợi danh
10. Chịu nỗi oan ức
Trong mười điều này,
luận Bảo Vương Tam Muội đã dùng mười hạnh không cầu để phá trừ. Thế thì trong
phước có họa, trong họa có phước, trong thông có ngại, trong ngại có thông. Vì
hiểu lẽ này nên các bậc tu hành khi xưa đã dùng "sự chướng ngại
làm duyên tiến đạo." Tiên đức có bảo: "Vô nhơn kiến xúc, đạo
quả nan thành!" Câu này có nghĩa: "Nếu không bị người làm xúc não,
tất đạo quả của mình khó thành tựu." Bởi sự khinh hủy chưởi mắng, giá họa
vu oan, và mọi chướng ngại khác là "cái mức để đo lường đạo lực của người
tu."
Nếu gặp những chướng
duyên đó mà vẫn nhẫn nại an nhiên được, tất chứng tỏ người ấy đã tu tiến đến
mức khá cao. Bằng chẳng thế, làm sao đo lường được mức tu tiến của mình?
Thật ra không phải người
tu mong cầu sự chướng ngại, mà vì đường đạo đầy nỗi bất trắc khó khăn, nên cần
luôn luôn cảnh giác đặt mình trước mọi nỗi chướng duyên, để khi lâm cảnh vẫn an
nhiên không rối động. Diệu Hiệp đại sư bảo: "Mười hạnh trên, duy người trí
huệ hùng tâm mới áp dụng nổi. Nếu biết xét soi giác ngộ, giữ vững mười điều
này, thì tuy vào cảnh giới ma không bị ma làm thối chuyển.
Dù cho ở trong cảnh sắc
thinh, danh lợi, thương ghét, thị phi, thạnh suy, đắc thất... vẫn được an
nhiên."
Cho nên nếu không biết,
thì tất cả sự tốt đẹp thuận lợi có thể thành duyên chướng đạo. Như xét thấu tất
cả bịnh khổ cùng ma chướng đều giả dối không căn, tất nó cũng không làm chi
được. Đối với mười điều trên, lối xử dụng của bậc trí lực là:
1. Lấy bịnh khổ làm
thuốc hay.
2. Lấy hoạn nạn làm giải thoát.
3. Lấy chướng ngại làm tiêu dao.
4. Lấy các ma làm bạn pháp.
5. Lấy việc khó làm an vui.
6. Lấy bạn xấu làm giúp đỡ.
7. Lấy kẻ nghịch làm vườn hoa.
8. Lấy sự quên việc thi ân như quên bỏ chiếc dép rách.
9. Lấy thanh đạm làm giàu sang.
10. Lấy sự oan ức làm duyên tiến đạo.
Xem đây suy rõ sự hay
dở, đắc thất vẫn tùy tâm. Thế nên, người mới tu rất sợ chướng duyên, bậc tu lâu
có khi lại muốn thử đương đầu với chướng cảnh. Xin thuật ra đây một đôi chuyện
để làm tỷ lệ:
Thuở xưa, ngài Thần
Quang sau khi đắc pháp với tổ Đạt Ma, liền khuất thân đi làm mướn, như
bửa củi, giã gạo hoặc gác cửa cho người. Có kẻ đến hỏi: "Ngài là bậc kế
truyền Tổ vị, sao lại thấp mình đi làm những việc tầm thường như thế?"
Ngài đáp: "Ta muốn hàng phục cái tâm của ta, chẳng phải chỗ ông
biết!"
Lại một vị tiên là Lưu
Trường Sanh sau khi luyện đơn thành, xuất thần bay lên chỗ bà Diêu Trì
Kim Mẫu, thấy chư tiên nữ dung sắc cực kỳ xinh đẹp khó tả, khó họa, ông liền
động tâm. Kim Mẫu quở rằng: "Ngươi tuy thành đạo, mà niệm sắc ái chưa
tiêu, làm sao xứng đáng liệt vào hàng tiên phẩm?" Trường Sanh hổ thẹn, trở
xuống cõi nhân gian, dùng phép điểm đá hóa vàng, vào chỗ lầu xanh mướn năm bảy
cô dâm nữ đẹp nhất, cùng nhau chung sống. Trong hai năm trời ông nằm gần các cô
dâm nữ lõa thể để luyện trừ niệm sắc dục. Khi xét thấy mình tâm đã bất
động, ông bảo các cô ấy làm bánh, rồi để bánh trên bụng vận lửa đơn điền nướng
chín, đem đãi các cô, nói đạo khai ngộ cho, xong mới cỡi mây bay đi.
Để so sánh về các hạnh
tu, xin kể tiếp thêm vài chuyện:
- Một sư cô nọ muốn dứt
trừ lỗi lầm, nguyện kiết thất và tịnh khẩu trong ba tháng.
Buổi chiều kia, cô đang ngồi bên cửa sổ, lần chuỗi niệm Phật. Có ông đạo trông
thấy liền nói chuyện với người bạn, bảo cô nhiều nghiệp, nhiều tánh xấu. Cô
nghe nóng giận đỏ mặt, nhưng vẫn làm thinh tiếp tục niệm Phật. Giây lát ông đạo
bảo: "Tôi rình thấy cô này lấy một ông ở bên hàng xóm." Cô giận quá,
nhịn không được nói lớn tiếng lên: "Huynh nói tôi lấy ai phải xác nhận
lại, chớ tôi không chịu bỏ qua vụ này đâu?" Ông đạo cả cười đáp: "Đó
là tôi cố ý thử cô mà thôi. Cô đã nguyện tịnh khẩu sao lại còn nói
chuyện? Vả lại tịnh khẩu là cốt để tịnh tâm, mà cô tịnh tâm không được,
thì tịnh khẩu có ích gì?" Sư cô ấy nghe xong chợt tỉnh ngộ, hổ
thẹn làm thinh.
- Một độ nọ bút giả về
Phật Học Viện Huệ Nghiêm, gặp ngài tọa chủ chùa Thuyền Lâm. Trong khi đàm đạo
ngài thuật chuyện rằng: "Trước kia ở ngoài Trung có một vị sư tu thiền khá
công phu, mỗi lần có thể ngồi lâu đến sáu bảy giờ. Có lẽ muốn dứt trừ
nhiễm duyên, sư thường lẩn tránh người nữ, thậm chí cô nào đến viếng chùa rồi
về, ông cũng xách nước quét rửa chỗ ngồi của cô ấy. Thời gian sau, sư
đến ở trọ chùa Thập Tháp tại Bình Định. Một buổi sáng, đang khi tọa thiền trong
liêu, sư bỗng la lên rồi chạy ra ngoài. Hòa thượng Thập Tháp hỏi lý do, sư đáp:
"Tôi đang tham thiền bỗng thấy một người nữ xinh đẹp đến ôm cổ." Nói
xong, chiều lại sư mệt mỏi nằm bịnh, gọi hòa thượng Thập Tháp vào bảo:
"Ngài phải làm sao cưới gấp cho tôi một cô vợ, bằng không bắt đầu từ chiều
nay tôi sẽ tuyệt thực cho đến chết?" Cụ Thập Tháp cho gọi một bà Phật tử
tín cẩn đến bàn luận, bà ấy bảo: "Để con về gọi đứa tớ gái của con, bảo nó
giả vờ chịu đỡ để dẫn dụ sư ăn uống cho mạnh rồi sẽ hay." Sáng hôm sau,
hòa thượng đưa cô tớ gái vào và bảo:
"Tôi đã bàn định
xong, có cô này ưng chịu làm vợ của Ngài đây." Sư nghe nói mở mắt ra nhìn,
nắm tay cô tớ gái vuốt ve một hồi rồi tắt hơi."
Trong hai đoạn trên, ta
thấy sư cô nọ muốn phá phiền não, song chỉ theo hình thức mà thôi. Còn ngài
Thần Quang biết tất cả phiền não đều không, và cội gốc do nơi tâm chấp ngã, nên
mới giả làm kẻ thấp hèn chịu người sai mắng, để xem tâm nhơn ngã thị phi còn
động chăng đặng dứt trừ. Và Lưu Trường Sanh muốn diệt niệm sắc ái, dám dõng
mãnh đi ngay đến chỗ nữ sắc mà quán phá. Vị sư kia bởi chưa hiểu sắc là không,
quá kiêng sợ nữ sắc, trong tâm còn chấp ngại hình thức, kết cuộc lại bị loại
sắc ma làm hại. Nhớ lại hồi năm 1960 có các Phật tử đem tờ báo Tiếng Chuông
đến, chỉ hình nhà sư Nhật Bản bắt tay một kỷ nữ lõa thể, chỉ còn mặc chiếc quần
nhỏ, và phê bình là lối tu tân thời trái với đạo lý. Bút giả đã giải thích:
"Chớ hiểu lầm, đó
là lối nghiệm tâm của các thiền sư Nhật Bản, để xem mình đối với nữ sắc còn
động chăng? Nếu chưa được như như bất động, họ sẽ trở về tu lại. Vị sư này cũng
đã thiền định đến mức khá cao rồi, mới dám làm như thế."
Để kết luận, bậc trí lực
chẳng những không ngại chướng duyên, mà còn mượn chướng duyên để tu tiến. Các
vị ấy không còn chấp nê hình thức, vì hình thức chỉ là phương tiện mà nội tâm
mới là cứu cánh.
Sự An
Nhẫn Của Cư Sĩ Tiền Vạn Dật
Tiền Vạn Dật, tự là Dực
Sơn, quê ở Thường Thục, trấn Mai Lý, người đời nhà Thanh bên Trung Hoa. Buổi
thiếu thời, Vạn Dật theo gia nghiệp, chuyên bán rượu. Sau ông đổi nghề, giới
sát tu tịnh nghiệp, hết sức sửa đổi lỗi lầm trước. Vạn Dật chỉ có một trai, chẳng
may bị bịnh lao, niệm Phật mà qua đời. Người láng giềng chê cười, bảo tại lo tu
hành nên con chết. Ông nghe nói mỉm cười, vẫn an nhiên thờ Phật như cũ.
Một đêm, lửa bén cháy
nhà, Vạn Dật chắp tay ngửa mặt trên hư không vái rằng: "Nghiệp con
nặng, đáng chịu thiêu hủy gia sản, nguyện xin đừng tổn thương đến
những nhà gần bên." Sau khi lửa tắt, chỉ có nhà ông tiêu ra tro,
các gia cư gần đó đều không sao cả. Cố gắng lo chỗ ở tạm xong, Vạn Dật lại
khuyên mẹ là Ngô Thị trường trai niệm Phật, bà mẹ y theo lời. Tiếp theo ông
cũng tự ăn chay trường, nhưng vì tập quán cũ hãy còn, thường hay uống rượu.
Nhưng nhờ có người thân thích là cư sĩ Tạ Phụng Ngô khuyên can, ông cố gắng lần
dứt trừ được.
Mùa Xuân năm Đạo Quang
thứ hai mươi hai, vợ đau chết, Vạn Dật vẫn sống trong cảnh lẻ loi. Nhiều người
khuyên nên tục huyền, ông cự tuyệt và bảo: "Đã có con mà bị chết
sớm, tái thú nữa để làm gì? Vả lại chí tôi ở nơi xuất tục, có phải khăng khăng
trong sự nối dõi đâu!" Mùa Hạ năm ấy, ông đau bịnh lạc huyết, chí
thoát trần càng thiết, vẫn cố gắng gia công niệm Phật. Đến đầu tháng bảy, bịnh
ông thêm nặng, ăn vào liền mửa ra. Phụng Ngô sang viếng thăm, nhân an ủi bảo
cho biết: “Cổ đức đã có một vị nhịn ăn để cầu thấy Phật”. Vạn Dật nghe nói,
mừng rỡ bảo: "Nếu có việc rất tiện lợi như thế, tôi sẽ gắng sức làm
theo." Liền hôm sau, ông tắm gội sạch sẽ, đến trước bàn Phật niệm hương
phát nguyện giữ thanh trai trong bảy ngày, xuất tiền mua vật mạng phóng sanh,
để cầu về Tịnh Độ. Kế đó, ngày đêm ông niệm Phật không dứt, lúc khát chỉ ăn trái
dưa mà thôi. Có người hỏi: "Suốt đêm không ngủ như thế, có mệt mỏi
chăng?" Vạn Dật đáp: "Nhờ không ngủ mới niệm Phật
được nhiều. Khi tôi không bịnh thì chẳng được an nhàn. Nay nhân lúc bịnh được
rảnh rang, phải gắng sức, có mệt nhọc gì đâu!"
Bảy ngày vừa mãn, bởi
tuyệt cốc nên kiệt sức, thần thức ông hôn loạn. Người nhà cho ăn chút cháo
loãng, liền buồn dạ no hơi, hôn loạn càng thêm. Vạn Dật cả sợ, chắp tay để trên
gối, bảo đốt ngón tay cúng dường Phật. Phụng Ngô nói: "Lúc này mà
anh phát được tâm nguyện ấy, thì cũng đồng như đã đốt ngón tay rồi. Thôi chi
bằng rũ sạch muôn duyên, nhứt tâm cầu về Cực Lạc là hơn!" Ông
nghe nói liền nhắm mắt niệm Phật, ban sơ như còn gắng gượng, kế đó nhờ dùng sức
dõng mãnh, nên thần chí lần lần an định. Duyên may, lại nhờ mười mấy người bạn
đồng đạo hay tin đến trợ niệm, nên ngày đêm trong nhà ông tiếng niệm Phật nối
nhau không dứt.
Đến chiều bữa mùng mười,
Vạn Dật tự nói thấy một vị đi lại trước đầu giường, bảo cả dưa và trái cây đều
chớ ăn, hỏi thì xưng là sứ giả ở thượng giới. Qua ngày hôm sau, ông bỗng thấy
Tây Phương Tam Thánh tướng tốt quang minh hiện đứng giữa hư không trước mặt.
Ông muốn vượt lên ngồi vào kim đài, chợt nghe tiếng bảo: "Thân ngươi còn
chưa sạch!" Kế đó các tướng đều ẩn mất. Vạn Dật liền bảo nấu nước thơm để
mình tắm gội. Tắm xong, Tam Thánh hiện ra như trước. Ông gọi người nhà lại
nói: "Tôi đã dạo chơi Tịnh Độ, thấy vô số hoa sen, mình ngồi trên
một đài hoa, vui không thể tả!" Lại tự chỉ thân mình nói:
"Đây không phải thân tôi."
Sáng sớm ngày mười hai,
Vạn Dật từ biệt mẹ và thưa rằng: "Phật cùng chư Thánh chúng đã đến đầy
nhà." Nói xong, liền chắp tay niệm Phật mà qua đời. Lúc bấy giờ,
ông được ba mươi bảy tuổi.
- Như cư sĩ Tiền Vạn
Dật: gặp cảnh nghịch mà sơ tâm không thối, bị bịnh khổ nhưng chánh niệm
vẫn bền. Kết cuộc duyên trần rũ sạch, cảnh tịnh hiện bày, nhiệm mầu điểm ứng
đài vàng, thanh thoát thân chơi cõi ngọc, phẩm vị cao quyết chẳng còn nghi. Ôi!
Nhẫn nại mạnh mẽ đến thế ư!
Sự An
Nhẫn Của Cư Sĩ Phó Xuân Phố
Phó Xuyên, tự Xuân Phố,
người thời Trung Hoa Dân Quốc, quê ở xã Đông Quách, huyện Thanh Giang, tỉnh
Giang Tây. Thuở bé ông mồ côi cha sớm, mẹ là Nhiếp thái phu nhơn thủ tiết, chịu
khổ nuôi dưỡng, khuyến khích học hành cho đến lúc nên người.
Xuân Phố từng nhậm các
chức sự như: huấn khoa viên tại huyện thự Thanh Giang, cảnh sát trưởng nơi trấn
Chu Đàm, và hiệu trưởng Nghĩa Vụ học hiệu ở Chương Thọ. Ông là người thông minh
mẫn tiệp, hằng tham dự các công vụ. Mỗi khi có việc chi khó khăn, hàng quan
thân thường mời đến nhờ giúp ý kiến giải quyết.
Nhiếp thái phu nhơn từ
lâu đã thờ kính Quán Thế Âm Bồ Tát, và niệm Phật trường trai.
Năm Dân Quốc thứ mười
bảy, thái phu nhơn nhiễm bịnh, ông phát nguyện triều Phổ Đà lễ Đại Sĩ, nhờ đó
không thuốc mà bịnh tự lành. Tháng Chín năm Dân Quốc thứ hai mươi (1931), Xuân
Phố mới đến Phổ Đà để hoàn nguyện. Khi ông chí thành lễ động Phạm Âm, cảm đức
Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân tướng mặc áo trắng, tay cầm tịnh bình và cành
dương liễu. Ông lại cầu Bồ Tát gia bị cho biết đời trước, thấy tiền
thân mình là một vị tăng tu hạnh đầu đà, y phục thô sơ lam lũ.
Do duyên sự đó, Xuân Phố
tỉnh ngộ, biết việc luân hồi không phải hư huyễn, chí xuất trần càng tha thiết.
Ông nhờ Nguyệt Tịnh pháp sư giới thiệu cho tham yết ngài Ấn Quang và Đức Sum
pháp sư nơi chùa Báo Quốc tại tỉnh Tô Châu, mới nghe được pháp yếu của tông
Tịnh Độ. Sau khi ấy, ở Hoằng Hóa Xã xuất bản kinh sách chi cũng đều có tặng
cho. Nhờ đó sự tin hiểu về Phật pháp của ông càng thâm thúy. Lúc bấy
giờ Xuân Phố mới quyết định tiến thẳng lên đường đạo, quy y thọ giới Ưu Bà Tắc
với Đức Sum pháp sư, được pháp hiệu là Thiền Xuyên, tự Hàng Tây.
Sau khi vào đạo, cư sĩ
tín nguyện sâu thiết, tinh tấn niệm Phật không biếng trễ. Năm Dân Quốc thứ hai
mươi hai, ông được mời làm chủ giảng ở Niệm Phật Lâm tại Lộc Giang, dẫn dắt khuyến
dụ người tu tiến rất nhiều. Cư sĩ thể chất vốn yếu, thường hay đau bịnh, lại vì
tánh tình liêm khiết nên gia đạo vẫn nghèo, lắm lúc bị nợ nần thiếu hụt. Bởi
hàn vi nên tình đời thường sơ bạc, gia dĩ nghiệp chướng phát hiện, tiếng thị
phi chịu cũng rất nhiều. Ông hằng muốn xuất gia, nhưng vì số vận mãi long đong,
nên cơ duyên chưa thuận tiện. Tuy quanh mình gia lụy buộc ràng, nhưng
bởi chí nguyện chán cõi trược cầu vãng sanh tha thiết, sớm hôm cư sĩ vẫn tinh
tấn lễ niệm, dù đau bịnh cũng gắng gượng, không khi nào sơ sót.
Mùa Xuân năm Dân Quốc
thứ hai mươi bảy (1938), cư sĩ mộng thấy đức Quán Thế Âm hiện thân, bảo cho
biết quy kỳ vào hạ tuần tháng Bảy. Đến rằm Trung Nguơn, sau hội Vu Lan Bồn, cư
sĩ ngã bịnh, song vẫn nhứt tâm niệm Phật, hầu như quên bịnh khổ, uống ăn. Ngày hai
mươi sáu bịnh trở nặng, người nhà thương khóc, cư sĩ cười bảo: "Tôi sẽ
vãng sanh vào ngày vía đức Địa Tạng, hãy nên vui mừng, đừng bi lụy." Đến
ngày ấy, cư sĩ lại ghế ngồi kiết dà, kiết ấn Di Đà định, nhìn chăm chú tượng
Phật, rồi an nhiên qua đời. Lúc đó, gương mặt ông bỗng sáng rạng rỡ hơn
lúc sanh bình, thân thể lần lần lạnh, chỉ có đỉnh đầu còn nóng.
Sau khi cư sĩ vãng sanh,
vị tọa chủ chùa Thông Tuệ và Đại Nhân pháp sư đồng đến lo liệu cho việc nhập
khám, nhục thân của cư sĩ vẫn ngồi thẳng như lúc bình thời. Trước ngày ấy gió
mưa rất lớn, nhưng vào nửa đêm đến khi đốt lửa làm lễ trà tỳ, trời bỗng sáng
tạnh, hương lạ bay ngào ngạt, không phải mùi trầm đàn cũng không phải mùi hoa
lan. Từ nóc khám, một đạo bạch quang phóng lên hư không, rồi bay thẳng về Tây.
Lúc ấy vào tiết sơ Thu, khí hậu viêm nhiệt, cư sĩ chết đã ba ngày mà thây không
hôi, lại phóng mùi thơm và ánh quang minh, nên ai nấy đều khen lạ. Bấy giờ cư
sĩ đã bốn mươi tám tuổi.
- Thời mạt pháp người
niệm Phật nhiều, mà thành công ít, bởi vì không nguyện thiết tin sâu. Luận về
tư cách bậc trượng phu, thầy Mạnh Tử bảo: "Giàu sang không làm cho kiêu
dâm, nghèo hèn không làm cho đổi chí, uy vũ không làm cho khuất phục."
Pháp thế gian còn như thế, huống là người theo Phật pháp tu Tịnh Độ cầu siêu phàm
nhập thánh ư? Như cư sĩ Phó Xuân Phố: nhà nghèo, thân bịnh, gia lụy, mà vẫn
nhẫn nại lướt qua, chuyên tâm niệm Phật, ngàn tiếng khen chê chẳng quản, trăm
điều mài bẻ không sờn. Nhờ đó đến khi lâm chung biết ngày giờ trước, điềm lạ
hiện bày. Như thế đủ thấy môn Tịnh Độ là bi nguyện triệt để của Như Lai, nếu
chịu quyết tâm, không ai chẳng lên thuyền giải thoát. Xem gương cư sĩ
xong, bỗng cảm khái tự hỏi: tánh linh nguyên cũng vẫn đồng, siêu
đọa bởi sao sai khác, khúc điệu Cao Sơn vang lại đó, lắng nghe Lưu Thủy mấy ai
đây? Nên viết ra khuyên người mà cũng để nhắc mình vậy.
BÀI SỐ 98
Ẩn tu phương tiện mượn thi ngâm
Thức ngộ mình người khởi đạo tâm
Đâu nghỉ hoa đào ra động bích
Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?
NHƯ Ý : Nếu Hoa-đào có rơi nhẹ trôi theo vòng suối ra ngoài ĐỘNG BÍCH, đó cũng là một sự Ngẫu-nhiên, không phải do ý Chư-tiên mượn nó để dời chân LƯU NGUYỄN , cũng như thế Bút-giả không có ý mượn những lời Thi trong đây để Thả cánh Hoa-đào, mà chỉ muốn ngõ riêng với một ít vì Thông Cảm, Hữu Duyên.
Bởi Mình đã có DUYÊN để đáng tỏ BÀY công bố.
Niệm Phật Thập Yếu
9
NIỆM PHẬT
PHẢI
AN NHẪN CÁC CHƯỚNG DUYÊN
Cửa rồng tăm cá vượt
Đỉnh nhạn bóng chim qua
Khách đi nghìn dặm biệt sơn hà
Đường tu gian khổ
Chướng ngại trải hằng-sa
Nghịch thuận duyên ma-khảo
Thương ghét nợ oan-gia
Khá thương kham nhẫn cõi Ta- Bà
Khổ vui bao quản
Vinh nhục tợ sương hoa
Nhẫn nại bền lòng tinh tiến mãi
Ác vàng thỏ bạc
Năm tháng sẽ dần dà...
Lời
Khuyên Dạy Của Cổ Đức
Vì biết trên đường tu có
nhiều chướng ngại, khi xưa đức Đạt Ma Tổ Sư đã nói bốn hạnh để
làm phương châm tiến đạo cho hàng đệ tử. Bốn hạnh ấy là: Báo Oan Hạnh,
Tùy Duyên Hạnh, Xứng Pháp Hạnh và Vô Sở Cầu Hạnh.
Sao
gọi là Báo Oan Hạnh?
Chúng ta từ trước đến
nay luân hồi trong sáu nẻo, mỗi đời đều gây nghiệp trái hoặc ân hoặc oán, từ
việc nhỏ đến việc lớn, có thể nói là vô lượng vô biên. Cho nên khi ta hành đạo,
tuy nhờ công đức tu tập tiêu trừ một phần nào, nhưng các nghiệp chưa tan, tất
phải lần lượt đền trả.
Như người thường đau yếu
hoặc tàn tật, do kiếp trước đã tạo nghiệp sát sanh.
Người bị nhiều tiếng thị
phi khen chê, do kiếp trước ỷ thông minh quyền thế xem rẻ người, hoặc đã tạo
nghiệp hủy báng.
Người bị nghèo khổ thiếu
hụt, do kiếp trước không có lòng xót thương tu hạnh bố thí.
Người bị gông cùm tra
khảo tù đày, do kiếp trước hay trói buộc, đánh đập, giam nhốt chúng
sanh.
Kẻ bị cô độc lẻ loi
thiếu người phụ trợ, do kiếp trước không hoan hỷ kết duyên với mọi
người.
Những nghiệp như thế vô
lượng vô biên, ngày nay tu hành khi bị oan trái đến, phải an lòng nhẫn nại chịu
đền trả, không nên oán trách buồn phiền. Nơi kiếp luân hồi, chúng sanh đều có
ăn uống cùng gia đình đôi bạn, nên trong các nghiệp duy có nghiệp sát và nghiệp
ái là nặng nhứt.
Cổ đức đã than:
"Bể nghiệp mênh
mang,
Khó đoạn không chi hơn
ÁI DỤC.
Cõi trần man mác,
Dễ phạm duy chỉ có SÁT SANH!"
Thế
nào là Tùy Duyên Hạnh?
Đây là nói sự an phận
tùy duyên của người tu cảnh nào sống theo cảnh ấy. Như cảnh giàu sang tùy theo
giàu sang, cảnh nghèo hèn tùy theo nghèo hèn, cảnh man rợ tùy theo man rợ, cảnh
hoạn nạn tùy theo hoạn nạn, Cho đến cảnh thạnh suy, họa phước, đắc thất, thị
phi... cũng đều như thế.
An phận tùy duyên đây,
là giàu sang mà không tự đắc kiêu căng, nghèo hèn hoạn nạn mà không
buồn rầu đổi chí. Tại sao thế? Vì tất cả cảnh thạnh suy họa phước đều như
huyễn, chỉ tùy nghiệp hiện lên một thời gian rồi diệt, có chi đáng tham luyến
nản buồn?
Sao
gọi là Xứng Pháp Hạnh?
"Pháp" đây là
Chân Như pháp, đối với người tu Tịnh Độ là Niệm Phật Tam Muội. Người tu Thiền
khi đi đứng nằm ngồi, tâm phải xứng hợp với pháp Chân Như, như nước hòa nước,
tợ hư không hợp với hư không. Hành giả tu Tịnh Độ cũng thế, tâm lúc nào
cũng trụ nơi câu niệm Phật.
Cổ đức bảo:
"Nếu tạm thời không
trụ nơi CHÁNH ĐỊNH,
Tức đồng như người đã
chết."
Bởi không trụ được nơi
chánh định, tức là bị trần cảnh đoạt. Bị trần cảnh cướp đoạt lôi cuốn, thì pháp
thân huệ mạng không còn. Cho nên người tu Tịnh Độ nếu thường trụ nơi câu niệm
Phật, thì tâm địa lần lần lặng yên sáng suốt, cảm thông với Phật, chắc chắn sẽ
được vãng sanh.
Thế
nào là Vô Sở Cầu Hạnh?
Đạo là chỉ cho tâm hạnh
trong sạch không mong cầu điều chi. Bởi tất cả pháp đều như huyễn, sanh
rồi diệt, diệt lại sanh, có chi chân thật để mong cầu?
Vả lại pháp thế gian đều
tương đối, trong họa có phước, trong phước có họa, nên người trí vẫn bình
thản, ở cảnh thạnh suy họa phước đều không động tâm.
Có người hỏi:
"Nếu niệm Phật
không cầu vãng sanh, không cầu phước huệ viên mãn để thành Phật, thì làm sao tu
tiến?"
Đáp: "Bởi
Phật là chơn không, càng cầu lại càng xa càng mất." Vì thế Kinh Pháp Hoa
nói: "Giả sử có vô số bậc Thanh Văn, Duyên Giác cho đến hàng Bất Thối Bồ
Tát, trong vô lượng kiếp suy nghĩ tìm cầu, cũng không thấy hiểu được
thật trí của Phật."
Về sự vãng sanh, thì lối
cầu của người tu là cầu mà không cầu, không cầu mà cầu. Sự ứng dụng ấy như mặt
gương sáng trong, khi hình đến thì chiếu soi, hình đi, lại lặng yên rỗng suốt. (HÀNH
XẢ là CẦU mà không CHẤP, Tâm thường AN-TRỤ nơi BÌNH ĐẲNG CHƠN NHƯ)
Giữ sự
thấy biết tìm cầu thì lạc vào VỌNG TƯỞNG,
Không
thấy biết tìm cầu nào khác gì gỗ đá VÔ TRI!
Nói rộng ra, hạnh Vô Sở
Cầu đây gồm cả ba môn: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện vậy. Nếu người tu giữ
theo bốn hạnh của đức Đạt Ma Tổ Sư đã dạy, thì có thể bình thản trước
mọi chướng duyên.
13. Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp
Kinh nói rằng: “Nếu
muốn trừ những chướng nạn ác bên thân,
nên cầu nơi Tay
cầm
cây Phất-Trần.”
Thần-chú rằng: Mạ Mạ [34]
Chơn-ngôn rằng: Án--
bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã
nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Túc thế sát nghiệp trọng như sơn
Dục tu thánh đạo chướng
vô biên
Hạnh hữu đại bi bạch
phất thủ
Khinh tảo số số chúng
nan quyên.
(Từ vô-luợng kiếp đến
nay, Ta đã tạo “nghiệp-sát”, nên tội trọng nặng như núi,
Nay muốn tu “THÁNH ĐẠO”,
lại bị vô-biên nghiệp-chướng ngăn cản, rất khó tu hành.
Lành thay! Lành
thay! Gặp được “Cây Phất-Trần” đại từ đại bi của Bồ-tát Quán-Thế-Âm,
Quét sạch nghiệp chướng
khó trừ trong vô số kiếp trước của Ta đã tạo.)
Theo kinh
“NHÂN QUẢ BA ĐỜI” thì nghiệp chướng chồng chất lên nhau thay đổi theo
từng sát na sinh diệt, theo tâm niệm và hành vi “TRONG NHIỀU KIẾP
TRƯỚC” và “HIỆN TẠI” của mỗi người. Nhân
nào mạnh hơn hết thì qủa đến trước, cứ thế mà nhân-quả từng tự nói tiếp
nhau liên tục không dừng.
Nếu nghiệp chướng là “NHÂN QUẢ” cố định,
thì tại sao Vua Ca-Lợi cắt đứt tay chân của Đức
Phật, mà được đức Phật độ cho giải thoát trước tiên? Vậy có phải là
do NGUYỆN LỰC của đức phật, đã làm tiêu nghiệp chướng cho Vua
Ca-Lợi rồi sao?
( KINH
KIM CANG)
Vua Ca-Lợi trong
kiếp trước, kiếp này là KIỀU TRẦN NHƯ
Đức Phật trong kiếp này,
kiếp trước là một vị tiên tu hạnh nhẫn nhục bị Vua Ca-Lợi cắt
đứt tay chân .
Cho nên, nếu qúi vị
“TỤNG” thủ nhãn này là “NHÂN”, thì bồ tát sẽ dùng cây phất
trần “Quét sạch nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước” của
qúi vị là “QUẢ”. Vì “TÂM LỰC CỦA MÌNH”, và “PHÁP
LỰC , NGUYỆN LỰC” đại từ đại bi của CHÁNH PHÁP MINH
NHƯ LAI, TỨC LÀ BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM TRONG ĐỜI HIỆN TẠI thật sự là không thể nghĩ
bàn.
(KINH
ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI)
“NHÂN QỦA” cố định ( là nghiệp đã tạo
“cực thiện” hay “cực ác” thì gọi là “định-báo” vì
quả phải trả trước hết, tức là rất mạnh, rất nhanh. CỰC THIỆN như
người vãng sanh CỰC LẠC trong khải móng tay và CỰC ÁC như VUA LƯU LY
ĐƯƠNG SỐNG MÀ BỊ ĐỌA VÀO ĐỊA NGỤC A TỲ.)
Như Tỷ-khưu-ni
Bảo-liên-hương giữ Bồ-tát-giới, lén-lút làm việc dâm-dục, lại nói-càn
rằng làm việc dâm-dục không phải giết người, không phải trộm-cắp, không có
nghiệp-báo; phát-ra lời nói ấy rồi, trước hết nơi nữ-căn sinh ra ngọn lửa-hồng
lớn, về sau từng đốt, từng đốt, bị lửa đốt cháy, sa vào địa ngục
Vô-gián.
Như đại-vương Lưu-ly;
Tỷ-khưu Thiện-tinh; Lưu-ly vì giết họ-hàng Cù-đàm, Thiện-tinh vì
nói-càn tất-cả các pháp đều rỗng-không mà thân sống sa vào địa-ngục
A-tỳ.
KINH
LĂNG NGHIÊM
ĐỊNH
BÁO
( Là quả báo nhất định
phải chịu, không thể chuyển biến được, bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong
mười phần thành tựu cả mười )
Thuở xưa vua Lưu-Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích, Ðức
Thế-Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao Phật
không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là định nghiệp.
Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ
Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu-Ly-Vương dẹp xong hàng Thích-Chủng, thì năm
trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng
minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ.
Cho nên, chư Phật có “Tam năng” (ba việc làm
được) và “tam bất năng” (ba việc không làm được).
Có ba việc làm được là :
1) Chư Phật có thể “KHÔNG” tất cả tướng, thông suốt tất cả
pháp.
2) Chư Phật có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng-sanh,
rõ thấu tất cả việc trong vô biên kiếp quá khứ và vị lai.
3) Chư Phật có thể độ vô-lượng chúng-sanh.
Ba việc làm không được là :
1. Chư Phật không thể diệt được định nghiệp của
chúng-sanh.
2. Chư Phật không thể độ những chúng-sanh vô duyên.
3. Chư Phật không thể độ hết chúng-sanh giới.
Bởi thế, "SỨC NGƯỜI" cố nhiên là hữu
hạn, nhưng "SỨC PHẬT" cũng không phải là TOÀN
NĂNG.
Nếu chúng-sanh không tín hướng Ðức
Như-Lai, không thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật,
Bồ-Tát cũng không thể hóa độ được.
Nếu chúng-sanh tín hướng Ðức Như-Lai, thực
hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng có thể hóa độ
được.
NHƯ VUA LƯU LY, NẾU NGHE THEO LỜI CAN NGĂN CỦA ĐỨC PHẬT, THÌ
ĐƯƠNG SỐNG KHÔNG BỊ ĐỌA VÀO ĐỊA NGỤC A TỲ (LÀ SỰ ĐAU KHỔ KHÔNG HỀ ĐƯỢC GIÁN
ĐOẠN).
Cho nên, “NGHIỆP LỰC THÙ HẬN” của vua lưu-ly
cũng thật sự “BẤT KHẢ TƯ NGHÌ”, cho dù “ĐỨC PHẬT” cũng
không thể ngăn cản được.
Tóm lại, nếu qúi vị tu “Bạch-Phất Thủ Nhãn
Ấn Pháp” thì chuyển “ĐỊNH NGHIỆP” thành “BẤT ĐỊNH NGHIỆP”;
chuyển “VÔ DUYÊN” thành “HỮU DUYÊN” ; chuyển “CHÚNG SANH KHÔNG ĐỘ
ĐƯỢC” thành “CHÚNG SANH ĐỘ ĐƯỢC” phải không ?
“Quét sạch tất cả nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước của
qúi vị đã tạo.”
PHẬT
HỌC TINH YẾU
Kệ tụng:
Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì
Chấn động tam thiên thế giới thì
Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ Diêm-phù-đề.
13. Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp
Mạ Mạ [34]
Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế,
mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.
Comments
Post a Comment