LAM
Niệm Phật Thập Yếu
NIỆM PHẬT
PHẢI PHÁT
LÒNG BỒ ĐỀ
Ý
Nghĩa Của Bồ Đề Tâm
Đem công đức niệm Phật
để cầu phước lợi nhỏ nhen ở thế gian, tất không hợp với bản hoài của Phật, cho
nên hành giả phải vì sự thoát ly khỏi vòng sống chết luân hồi mà niệm Phật.
Nhưng nếu vì giải thoát riêng cho mình mà tu niệm, cũng chỉ hợp với bản hoài của
Phật một ít phần mà thôi. Vậy bản hoài của Phật, cứu cánh là như thế nào?
- Bản hoài đích thật của
đức Thế Tôn, là muốn cho tất cả chúng sanh đều thoát vòng sanh tử, đều được
giác ngộ như Ngài. Cho nên người niệm Phật cần phải phát Bồ Đề tâm.
Bồ Đề nghĩa
là Giác. Trong ấy có ba bậc: Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề, và Phật Bồ Đề.
Đây là chỉ cho quả giác ngộ của hàng Thanh Văn, quả giác ngộ của hàng Duyên
Giác và quả giác ngộ của Phật. Người niệm Phật phát Bồ Đề tâm, chính là phát
tâm cầu quả giác ngộ của Phật; quả vị ấy cùng tột không chi hơn, siêu cả hàng
Thanh Văn, Duyên Giác, nên gọi là Vô Thượng Bồ Đề.
Tâm này gồm hai chủng tử
chính, là từ bi và trí huệ, hay phát xuất công năng độ thoát mình và tất cả
chúng sanh.
Xác nhận lại, Bồ Đề tâm
nói ở đây, chính là Vô Thượng Bồ Đề tâm tức là chỉ cho Phật Bồ Đề, chớ không
phải Thanh Văn hoặc Duyên Giác Bồ Đề tâm.
Kinh Đại Nhật nói:
"Bồ Đề tâm làm
nhân,
đại bi làm căn bản,
phương tiện làm cứu
cánh."
Ví như người đi xa,
trước tiên phải nhận định mục tiêu sẽ đến, phải ý thức chủ đích cuộc hành trình
bởi lý do nào, và sau cùng dùng phương tiện hoặc xe, thuyền, hay phi cơ mà khởi
tiến. Người tu cũng thế, trước tiên phải lấy quả Vô Thượng Bồ Đề làm mục tiêu
cứu cánh; lấy lòng đại bi lợi mình lợi sanh làm chủ đích thật hành; và kế đó là
tùy sở thích căn cơ lựa chọn các pháp môn hoặc Thiền, hoặc Tịnh, hoặc Mật làm
phương tiện tu tập. Phương tiện với nghĩa rộng hơn, còn là trí huệ quyền biến
tùy cơ nghi, áp dụng tất cả hạnh thuận nghịch trong khi hành đạo Bồ Tát.
Cho nên Bồ Đề tâm là mục
tiêu cần phải nhận định của hành giả, trước khi khởi công hạnh huân tu.
Vì thế, chương trước đã
đề cập sự thiết yếu của môn Niệm Phật cùng chủ đích cầu thoát sanh tử của môn này,
chương tiếp đây lại cần ghi nhận Bồ Đề tâm là tiêu điểm cuối cùng phải đi đến.
Đức Thế Tôn thuở xưa khi thuyết về Tứ Đế, đáng lẽ trước tiên phải nói Tập Đế là
nguyên do, nhưng Ngài lại sắp Khổ Đế lên hàng đầu, là muốn trình bày quả khổ
cho chúng sanh dễ nhận thấy để sanh lòng lưu ý kinh sợ, rồi sau mới tìm xét đến
nguyên ủy cội nguồn.
Cũng thế, nơi đây bút
giả tuân theo ý kiến tiên đức, trước tiên nêu môn Niệm Phật cầu giải thoát làm
vấn đề cấp thiết, rồi sau mới luận đến Bồ Đề tâm.
Kinh Hoa Nghiêm
bảo: "Nếu quên mất tâm Bồ Đề mà tu các pháp lành, đó là nghiệp
ma."
Lời này xét ra rất đúng.
Ví như người cất bước khởi hành mà chẳng biết mình sẽ đến đâu, và đi với mục
đích gì, thì cuộc hành trình chẳng thành quanh quẩn, mỏi mệt, cùng vô ích lắm
ư? Người tu cũng thế, nếu dụng công khổ nhọc mà quên sót mục tiêu cầu thành
Phật để lợi mình lợi sanh, thì bao nhiêu hạnh lành chỉ đem đến kết quả hưởng
phước nhơn thiên, chung cuộc vẫn bị chìm mê quanh quẩn trong nẻo luân hồi, chịu
vô biên nỗi khổ. Như vậy chẳng là nghiệp ma còn là gì?
Thế thì phát lòng Vô
Thượng Bồ Đề để lợi ích mình và chúng sanh, phải ghi nhận là điểm phát tâm rất
cần yếu.
Bồ Đề
Tâm Với Môn Tịnh Độ
Phật pháp theo sự tùy
hóa, thông thường có hai cấp bậc là Tiểu Thừa và Đại Thừa. Tiểu Thừa
nói những pháp thấp nhỏ, trọng tâm hướng về mục tiêu gấp cầu liễu sanh tử cho
chính mình, và chỉ đi đến quả vị A La Hán hoặc Duyên Giác. Đại
Thừa nói các pháp rộng lớn, hướng về hoằng nguyện độ thoát tất cả chúng sanh,
và đi đến quả vị Toàn Giác của Như Lai. Pháp môn Niệm Phật thuộc về Đại Thừa,
nên chẳng những đi về chiều hướng tự độ mà còn kiêm cả độ tha.
Đạo Phật du nhập vào
Trung Hoa, trải qua sự hoằng dương của chư vị Tổ Sư, kết quả lập thành mười
tông. Trong đó có hai tông thuộc về Tiểu Thừa là Thành Thật Tông và Câu Xá
Tông. Nhưng căn tánh của người Trung Hoa không hợp với pháp Tiểu Thừa, nên
không bao lâu hai tông này đều bị tàn tạ. Còn tám tông kia thì thuộc về Đại
Thừa, gồm có Thiên Thai Tông, Hiền Thủ Tông, Tam Luận Tông, Pháp Tướng Tông,
Luật Tông, Thiền Tông, Mật Tông và Tịnh Độ Tông. Môn hoằng dương của Tịnh Độ
Tông là pháp Niệm Phật. Nếu pháp môn này chỉ giảng thuyết về sự tự độ, thì e
cho đã bị tiêu mòn như hai tông Tiểu Thừa kia từ lâu rồi. Nước Việt Nam ta là
một bán đảo thuộc miền duyên hải, dân tánh có chiều hướng hoạt động suy tư
rộng, nên phần lớn thích hợp với Đại Thừa. Nên từ xưa đến nay, tại đất nước
này, Thiền Tông và Tịnh Độ đã chiếm phần ưu thắng.
Luận về pháp, những pháp
nào đi đến Phật quả cứu cánh, giảng thuyết rộng về giới ngoại và sự lợi tha, đó
là pháp Đại Thừa. Trái lại, chính là pháp Tiểu Thừa. Nhưng điểm chủ yếu để phân
định Tiểu Thừa hay Đại Thừa, là thuộc về tâm chớ không phải pháp. Nếu dùng pháp
Tiểu Thừa hoằng hóa làm phương tiện để dẫn đến Phật quả thì đó chính Đại Thừa.
Chẳng thế, khi đức Như Lai giảng dạy về Tiểu Thừa giáo, Ngài cũng là hạng Tiểu
Thừa hay sao? Vì lẽ ấy cho nên người niệm Phật cần phải chú trọng về chỗ phát
tâm, tức là phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Môn Niệm Phật đã thuộc về pháp Đại Thừa
nếu hành giả tu theo môn này lại phát đại Bồ Đề tâm nữa, thì tâm và pháp đều
được toàn vẹn, sẽ đi đến quả Viên Giác kiêm cả tự lợi lợi tha. Nếu phát tâm
nhơn thiên thừa mà niệm Phật, thì môn Niệm Phật thành pháp nhơn thiên. Người
niệm Phật mà phát tâm như thế, chỉ hưởng được sự sang quý ở cõi người cõi trời,
khi phước báo hết, lại chịu luân hồi sa đọa. Nếu phát tâm Tiểu
Thừa mà niệm Phật, thì môn Niệm Phật thành pháp Tiểu Thừa. Người
niệm Phật mà phát tâm này, thì chỉ được quả giác thấp kém không viên mãn của Thanh
Văn, Duyên Giác, lại còn phạm lỗi nhỏ hẹp thiếu lòng từ bi, duy biết lo giải
thoát cho mình, không đoái đến bao nhiêu chúng sanh đau khổ khác.
Cho nên niệm Phật cần
phải phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Lời tục thường
nói: "Sai một ly, đi ngàn dặm." Người niệm Phật tu hành đối
với điểm phát tâm có chính xác cùng không, há chẳng phải là một điều đáng chú ý
lắm ư?
Làm
Thế Nào Để Phát Bồ Đề Tâm
Phát Bồ Đề tâm như trên
đã nói, có thể tóm tắt trong bốn điều hoằng thệ là:
Chúng sanh vô biên thề
nguyện độ.
Phiền não vô tận thề nguyện dứt.
Pháp môn vô lượng thề nguyện học.
Phật đạo vô thượng thề nguyện thành.
Nhưng không phải chỉ nói
suông: "Tôi phát Bồ Đề tâm", là đã phát tâm, hay mỗi ngày tuyên đọc
bốn điều hoằng thệ, gọi là đã phát Bồ Đề tâm. Muốn phát Bồ Đề tâm hành giả cần
phải quán sát để phát tâm một cách thiết thật, và hành động đúng theo tâm
nguyện ấy trong đời tu của mình. Có những Phật tử xuất gia, tại gia, mỗi ngày
sau khi tụng kinh niệm Phật đều quì đọc bài hồi hướng: "Nguyện tiêu tam chướng
trừ phiền não...", nhưng rồi trong hành động thì trái lại: nay tham lam,
mai hờn giận, mốt si mê biếng trễ, bữa kia nói xấu chê bai chỉ trích người, để
đến bữa khác lại có chuyện tranh cãi gây gổ, buồn ghét nhau. Như thế, tam
chướng làm sao tiêu, phiền não làm sao trừ được?
Chúng ta phần nhiều chỉ
tu theo hình thức ít chú trọng đến chỗ khai tâm, thành thử lửa tam độc vẫn cháy
hừng, không hưởng được hương vị thanh lương giải thoát của đức Phật đã chỉ dạy.
Cho nên ở đây lại cần đặt vấn đề: "Làm thế nào để phát Bồ Đề tâm?"
Muốn cho Tâm Bồ Đề phát
sanh một cách thiết thật, chúng ta nên suy tư quán sát để phát tâm theo sáu yếu
điểm như sau:
Điểm thứ nhứt là Giác
Ngộ Tâm. Chúng sanh thường chấp sắc thân này là ta, tâm thức có
hiểu biết, có buồn giận thương vui là ta. Nhưng thật ra, sắc thân này giả dối,
ngày kia khi chết đi nó sẽ tan về với đất bụi, nên thân tứ đại không phải là
ta. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp về cái biết của sáu trần là: sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp, như một người trước kia dốt, nay theo học chữ
Việt, tiếng Anh, khi học thành, có cái biết về chữ Việt, tiếng Anh. Lại như một
kẻ chưa biết Ba Lê, sau một dịp sang Pháp du ngoạn, thu thập hình ảnh của thành
phố ấy vào tâm. Khi trở về bản xứ có ai nói đến Ba Lê, nơi tâm thức liền hiện
rõ quang cảnh của đô thị ấy. Cái biết đó trước kia không, khi lịch cảnh thu
nhận vào nên tạm có, sau bỏ lãng không nghĩ đến, lần lần nó sẽ phai lạt đến tan
mất hẳn, trở về không. Cái biết của ta khi có khi không, hình ảnh này tiêu,
hình ảnh khác hiện, tùy theo trần cảnh thay đổi luôn luôn, hư giả không thật,
nên chẳng phải là ta. Cổ đức đã bảo: "Thân như bọt tụ, tâm như gió. Huyễn
hiện vô căn, không tánh thật." Nếu giác ngộ thân tâm như huyễn, không chấp
trước, lần lần sẽ đi vào cảnh giới "nhơn không" chẳng còn ngã tướng.
Cái ta của ta đã không, thì cái ta của người khác cũng không, nên không có nhơn
tướng. Cái ta của mình và người đã không, tất cái ta của vô lượng chúng sanh
cũng không, nên không có chúng sanh tướng. Cái ta đã không, nên không có bản
ngã bền lâu, không thật có ai chứng đắc, cho đến cảnh chứng thường trụ vĩnh cữu
của Niết Bàn cũng không, nên không có thọ giả tướng. Đây cần nên nhận rõ, chẳng
phải không có thật thể chân ngã của tánh Chân Như thường trụ, nhưng vì thánh
giả không chấp trước, nên thể ấy thành không.
Nhơn đã không, thì Pháp
cũng không, vì sự cảnh luôn luôn đổi thay sanh diệt, không có tự thể. Đây lại
cần nên nhận rõ chẳng phải các pháp khi hoại diệt mới thành không, mà vì nó hư
huyễn, nên đương thể chính là không, cả Nhơn cũng thế. Cho nên cổ đức đã bảo:
"Cần chi đợi hoa rụng. Mới biết sắc là không" (Hà tu đãi hoa lạc.
Nhiên hậu thỉ tri không).
Hành giả khi đã giác ngộ
Nhơn và Pháp đều không, thì giữ Tâm thanh tịnh trong sáng không chấp trước mà
niệm Phật. Dùng Tâm giác ngộ như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
Điểm thứ hai là Bình
Đẳng Tâm. Trong Khế Kinh, đức Phật khuyên dạy: "Tất cả
chúng sanh đều có Phật tánh, là cha mẹ đời quá khứ và chư Phật đời vị
lai." Chư Phật thấy chúng sanh là Phật, nên dùng tâm bình đẳng đại bi mà
tế độ. Chúng sanh thấy chư Phật là chúng sanh, nên khởi Tâm phiền não phân biệt
ghét khinh. Cũng đồng một cái nhìn, nhưng lại khác nhau bởi mê và ngộ. Là đệ tử
Phật, ta nên tuân lời đức Thế Tôn chỉ dạy, đối với chúng sanh phải có tâm bình
đẳng và tôn trọng, bởi vì đó là chư Phật vị lai, đồng một Phật tánh. Khi dùng Tâm
bình đẳng tôn kính tu niệm, sẽ dứt được nghiệp chướng phân biệt khinh mạn, nảy
sanh các đức lành. Dùng Tâm bình đẳng như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ
Đề tâm.
Điểm thứ ba
là Từ Bi Tâm. Ta cùng chúng
sanh đều sẵn đủ đức hạnh, tướng hảo trí huệ của Như Lai, mà vì mê chân tánh,
khởi hoặc nghiệp nên phải bị luân hồi, chịu vô biên sự thống khổ. Nay đã rõ như
thế, ta phải dứt tâm ghét, thương, phân biệt, khởi Tâm cảm hối từ bi tìm phương
tiện độ mình cứu người, để cùng nhau được an vui thoát khổ. Nên nhận rõ từ bi
khác với ái kiến. Ái kiến là Tâm thương yêu mà chấp luyến trên hình thức, nên
kết quả bị sợi giây tình ái buộc ràng. Từ bi là Tâm xót thương cứu độ, mà lìa
tướng, không phân biệt chấp trước; tâm này thể hiện dưới đủ mọi mặt, nên kết
quả được an vui giải thoát, phước huệ càng tăng.
Muốn cho tâm từ bi được
thêm rộng, ta nên từ nỗi khổ của mình, cảm thông đến các nỗi khổ khó nhẫn thọ
hơn của kẻ khác, tự nhiên sanh Tâm xót thương muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ Đề
tâm từ đó phát sanh. Đại khái như trong hoàn cảnh chiến tranh hiện nay, trẻ thơ
phải nhờ cha mẹ nuôi dạy, mà cha mẹ lại bị tử nạn thành ra côi cút, bơ vơ. Lại
như người già phải nhờ con cái phụng dưỡng, mà con cái đều bị yểu vong, nên
phải buồn đau cô khổ. Thấy những cảnh ấy, động Tâm xót thương, muốn cứu độ,
niệm từ bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh.
Những thanh niên thông
minh khỏe mạnh, tương lai đầy hy vọng bỗng bị bom đạn làm cho tàn phế. Nhiều
thiếu nữ đang hồi xuân sắc, người thân yêu nhờ cậy bỗng bị tử thần cướp mất,
khiến nỗi lạc bước sa đọa, hoặc thành cảnh mẹ góa con côi, sanh kế sống còn của
ngày mai mờ mịt. Thấy những cảnh ấy, động Tâm xót thương muốn cứu độ, niệm từ
bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh.
Có nhiều người đau yếu,
mà vì vật giá cao quý, không tiền thuốc thang, thành ra kéo dài thân bịnh khổ
qua năm tháng, đôi lúc lắm kẻ phải quyên sinh. Có những người nghèo nàn thất
nghiệp, nay vợ đau, mai con bịnh, rách rưới lang thang, nợ nần đòi hỏi, hằng
chịu đói lạnh qua ngày tháng, sống cũng lỡ mà chết chẳng xong. Lại có những kẻ
mang nhiều tâm sự buồn khổ không bạn lành khuyên lơn giải thích; những kẻ mê
tối tạo nghiệp không biết ngày mai mình sẽ khổ, không gặp Phật pháp để tìm
đường lối thoát ly. Thấy những cảnh ấy, động Tâm thương xót muốn cứu độ, niệm
từ bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh.
Nói rộng ra, như trong
kinh Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền đã khai thị:
"Bồ Tát quán sát
chúng sanh không nơi nương tựa mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh tánh chẳng
điều thuận mà khởi đại bi, quán sát chúng sanh nghèo khổ không căn lành mà khởi
đại bi. Quán sát chúng sanh ngủ say trong đêm dài vô minh mà khởi đại bi. Quán
sát chúng sanh làm những điều ác mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh đã bị ràng
buộc, lại thích lao mình vào chỗ ràng buộc mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh
bị chìm đắm trong biển sanh tử mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh vương mang
tật khổ lâu dài mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh không ưa thích pháp lành mà
khởi đại bi. Quán sát chúng sanh xa mất Phật pháp mà khởi đại bi..."
Đã phát đại bi tâm tất
phải phát đại Bồ Đề tâm thề nguyền cứu độ. Thế thì Tâm đại từ bi và Tâm đại Bồ
Đề dung thông nhau. Cho nên phát từ bi tâm tức là phát Bồ Đề tâm. Dùng Tâm đại
từ bi như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
Điểm thứ tư là Hoan
Hỷ Tâm. Đã có xót thương tất phải thể hiện Tâm ấy qua tâm
hoan hỷ. Hoan hỷ đây có hai thứ: tùy hỷ và hỷ xả. Tùy hỷ là khi thấy trên từ
chư Phật, Thánh Nhơn, dưới cho đến các loại chúng sanh, có làm được công đức
gì, dù là nhỏ mọn cũng vui mừng theo. Và khi thấy ai được sự phước lợi, hưng
thạnh, thành công, an ổn, cũng sanh niệm vui vẻ mừng giùm. Hỷ xả là dù có chúng
sanh làm những điều tội ác, vong ân, khinh hủy, hiểm độc, tổn hại cho người
hoặc cho mình, cũng an nhẫn vui vẻ mà bỏ qua. Sự vui nhẫn này nếu xét nghĩ sâu,
thành ra không thật có nhẫn, vì tướng người, tướng ta và tướng não hại đều
không.
Nên Kinh Kim Cang
dạy: "Như Lai nói nhẫn nhục Ba La Mật, tức chẳng phải nhẫn
nhục Ba La Mật, đó gọi là nhẫn nhục Ba La Mật."
Tâm tùy hỷ trừ được
chướng tật đố nhỏ nhen. Tâm hỷ xả giải được chướng hận thù báo phục. Bởi tâm
hoan hỷ không ngoài sự giác ngộ mà thể hiện, nên đó chính là Bồ Đề tâm. Dùng
Tâm hoan hỷ như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
Điểm thứ năm là Sám
Nguyện Tâm. Trong kiếp luân hồi, mọi loài hằng đổi thay làm
quyến thuộc lẫn nhau. Thế mà ta vì mê mờ lầm lạc, từ kiếp vô thỉ đến nay, do
tâm chấp ngã muốn lợi mình nên làm tổn hại chúng sanh, tạo ra vô lượng vô biên
ác nghiệp. Thậm chí đến chư Phật, Thánh Nhơn, vì tâm đại bi ra đời thuyết pháp
cứu độ loài hữu tình, trong ấy có ta, mà đối với ngôi Tam Bảo ta lại sanh Tâm
vong ân hủy phá. Ngày nay giác ngộ, ta phải hổ thẹn ăn năn, đem ba nghiệp chí
thành sám hối. Đức Di Lặc Bồ Tát đã lên ngôi Bất Thối, vì muốn mau chứng quả
Phật, mỗi ngày còn lễ sám sáu thời. Vậy ta phải đem thân nghiệp kính lễ Tam
Bảo, khẩu nghiệp tỏ bày tội lỗi cầu được tiêu trừ, ý nghiệp thành khẩn ăn năn
thề không tái phạm. Đã sám hối, phải dứt hẳn tâm hạnh ác không còn cho tiếp tục
nữa, đi đến chỗ tâm và cảnh đều không, mới là chân sám hối. Lại phải phát
nguyện, nguyện hưng long ngôi Tam Bảo, nguyện độ khắp chúng sanh, để chuộc lại
lỗi xưa và đền đáp bốn ân nặng. Bốn ân đó là: ân Tam Bảo, ân cha mẹ sư trưởng,
ân thiện hữu tri thức, và ân chúng sanh.
Có tâm sám nguyện như
vậy tội chướng mới tiêu trừ, công đức ngày thêm lớn, và mới đi đến chỗ phước
huệ lưỡng toàn. Dùng Tâm sám nguyện như thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ Đề
tâm.
Điểm thứ sáu là Bất
Thối Tâm. Dù đã sám hối phát nguyện tu hành, nhưng nghiệp
hoặc ma chướng không dễ gì dứt trừ, sự lập công bồi đức thể hiện sáu độ muôn
hạnh không dễ gì thành tựu. Mà con đường Bồ Đề đi đến quả Viên Giác lại xa vời
dẫy đầy gay go chướng nạn, phải trải qua hằng sa kiếp, đâu phải chỉ một hai
đời? Ngài Xá Lợi Phất trong tiền kiếp chứng đến ngôi Lục Trụ, phát đại Bồ Đề
tâm tu hạnh bố thí. Nhưng khi chịu khổ khoét một con mắt cho ngoại đạo, bị họ
không dùng, liệng xuống đất rồi nhổ nước dãi, lấy chân chà đạp lên trên, Ngài
còn thối thất Đại Thừa tâm. Thế thì ta thấy sự giữ vững tâm nguyện là điều
không phải dễ! Cho nên hành giả muốn được đạo tâm không thối chuyển, phải lập
thệ nguyện kiên cố. Thề rằng: "Thân này dầu bị vô lượng sự nhọc nhằn khổ
nhục, hoặc bị đánh giết cho đến thiêu đốt nát tan thành tro bụi, cũng không vì
thế mà phạm điều ác, thối thất trên bước tu hành." Dùng Tâm Bất Thối
chuyển như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
1. Giác
Ngộ
2. Bình Đẳng
3. Từ Bi
4. Hoan Hỷ
5. Sám
Nguyện
6. Bất
Thối
Sáu yếu điểm đã dẫn đại
lược như trên, là sự kiện phải có của người phát Bồ Đề tâm. Nếu không y theo
đây lập chí thiết thật tu hành, thì dù nói phát tâm chỉ là phát tâm suông,
không thể nào đi đến Phật quả. Trước mặt chúng ta chỉ có hai đường: luân hồi và
giải thoát. Đường giải thoát tuy có lắm nỗi gian nan, nhưng mỗi bước đi lần đến
chỗ sáng suốt tự tại an vui. Đường luân hồi dù được tạm hưởng phước nhơn thiên,
nhưng kết cuộc phải chuyển đến cảnh tam đồ ác đạo, sự khổ vô biên không biết
kiếp nào ra khỏi. Vậy các vị đồng tu nên phát tâm mãnh tiến, bước thẳng lên
đường sáng đại Bồ Đề. Cảnh muôn hoa đua nở nơi chân trời giải thoát sẽ đón chào
các vị!
Những
Huấn Thị Về Bồ Đề Tâm
Về Bồ Đề tâm, trong nội
điển có thuyết minh rất nhiều, nay chỉ xin trích lục ít đoạn nơi Kinh
Hoa Nghiêm để chư vị đồng tu thể nhận:
“Này thiện nam tử! Bậc
Bồ Tát phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề là: khởi Tâm đại bi cứu độ tất cả chúng sanh.
Khởi Tâm cúng dường chư Phật, cứu cánh thừa sự. Khởi Tâm khắp cầu chánh pháp,
tất cả không sẻn tiếc. Khởi Tâm thú hướng rộng lớn, cầu Nhứt Thiết Trí. Khởi
Tâm đại từ vô lượng, khắp nhiếp tất cả chúng sanh. Khởi Tâm không bỏ rơi các
loài hữu tình mặc áo giáp kiên thệ để cầu Bát Nhã Ba La Mật. Khởi Tâm không
siểm dối, vì cầu được trí như thật. Khởi Tâm thật hành y như lời nói, để tu đạo
Bồ Tát. Khởi Tâm không dối với chư Phật, vì gìn giữ thệ nguyện lớn của tất cả
Như Lai. Khởi Tâm nguyện cầu Nhứt Thiết Trí, cùng tận kiếp vị lai giáo hóa
chúng sanh không dừng nghỉ. Bồ Tát dùng những công đức Bồ Đề tâm nhiều như số
bụi nhỏ của cõi Phật như thế, nên được sanh vào nhà Như Lai.
Này thiện nam tử! Như
người học bắn, trước phải tập thế đứng, sau mới học đến cách bắn. Cũng thế, Bồ
Tát muốn học đạo Nhứt Thiết Trí của Như Lai, trước phải an trụ nơi Bồ Đề tâm,
rồi sau mới tu hành tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! Ví như vương tử tuy hãy còn
thơ ấu, song tất cả đại thần đều phải kính lễ. Cũng thế, Bồ Tát tuy mới phát Bồ
Đề tâm tu Bồ Tát hạnh, song tất cả bậc kỳ cựu hàng Nhị Thừa đều phải kính trọng
nể vì. Thiện nam tử! Như thái tử tuy đối với quần thần chưa được tự tại, song
đã đủ tướng trạng của vua, các bầy tôi không thể sánh bằng, bởi nhờ chỗ xuất
sanh tôn quý. Cũng thế Bồ Tát tuy đối với tất cả nghiệp phiền não chưa được tự
tại, song đã đầy đủ tướng trạng Bồ Đề, hàng Nhị Thừa không thể sánh bằng, bởi
nhờ chủng tánh đứng vào bậc nhứt. Thiện nam tử! Như người máy bằng gỗ, nếu
không có mấu chốt thì các thân phần rời rạc chẳng thể hoạt động. Cũng thế, Bồ
Tát nếu thiếu Bồ Đề tâm, thì các hạnh đều phân tán, không thể thành tựu tất cả
Phật pháp. Thiện nam tử! Như chất kim cương tất cả vật không thể phá hoại, trái
lại có thể phá hoại tất cả vật, song thể tánh của nó vẫn không tổn giảm. Bồ Đề
tâm của Bồ Tát cũng thế, khắp ba đời trong vô số kiếp, giáo hóa chúng sanh, tu
các khổ hạnh, việc hàng Nhị Thừa không thể làm đều làm được, song kết cuộc vẫn
chẳng chán mỏi, giảm hư...”
Phổ Hiền Bồ Tát bảo:
- “Thiện nam tử! Bồ Tát vì điều phục giáo hóa tất cả chúng sanh nên phát Bồ Đề
tâm. Vì trừ diệt khổ tụ cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì đem cho
tất cả chúng sanh sự an vui đầy đủ, nên phát Bồ Đề tâm. Vì dứt trừ sự ngu tối
cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì đem lại Phật trí cho tất cả chúng
sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì cung kính cúng dường tất cả chư Phật, nên phát Bồ
Đề tâm. Vì tùy thuận lời dạy Như Lai khiến chư Phật hoan hỷ, nên phát Bồ Đề
tâm. Vì muốn thấy sắc thân tướng hảo của tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm.
Vì muốn vào trí huệ rộng lớn của tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm. Vì muốn
hiển hiện các đức: lực, vô úy của chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm”.
Như thế, trong
Kinh Hoa Nghiêm đức Thế Tôn và chư Bồ Tát đã thuyết minh rộng rãi về công đức
của Bồ Đề tâm, trên đây chỉ lược trích một vài yếu điểm. Kinh văn cũng có
nói: "Cửa yếu vào đạo, trước phải phát tâm. Việc yếu tu hành,
trước nên lập nguyện."
Nếu không phát tâm rộng
lớn, không lập nguyện bền chắc, thì dù trải qua vô lượng kiếp, vẫn y nhiên ở
trong nẻo luân hồi; dù có tu hành cũng khó tinh tấn và chỉ luống công khổ nhọc.
Do đó nên biết: muốn học Phật đạo, quyết phải phát Bồ Đề tâm không thể trì
huỡn. Bởi thế khi xưa Tỉnh Am đại sư đã soạn ra Phát Bồ Đề Tâm Văn để khuyến
khích tứ chúng. Trong ấy, Ngài theo các tâm nguyện mà trình bày sự phát tâm
thành tám cách: tà, chánh, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên. Xin tóm đại lược
như sau:
1. Có những người tu
không tham cứu tự tâm, chỉ biết theo bên ngoài, hoặc cầu danh lợi, đắm cảnh vui
hiện tại, hay mong quả phước tương lai mà phát Tâm Bồ Đề. Phát tâm như thế
gọi là TÀ.
2. Như chẳng cầu danh
lợi, không tham cảnh vui cùng mong quả phước, chỉ vì thoát vòng sanh tử, lợi
mình lợi sanh mà cầu đạo Bồ Đề. Phát tâm như thế gọi là CHÁNH.
3. Mỗi niệm trên vì cầu
Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn đường Bồ Đề dài xa mà không khiếp, thấy
loài hữu tình khó độ nhưng chẳng sờn. Tâm bền vững như lên núi quyết đến đảnh,
như leo tháp quyết đến chót. Phát tâm như thế gọi là CHÂN (thật).
4. Có tội lỗi không sám
hối chừa cải, ngoài dường trong sạch, trong thật nhớp nhơ, trước tinh tấn sau biếng
lười. Dù có tâm tốt nhưng còn xen lẫn lợi danh, có pháp lành song bị tội lỗi
làm ô nhiễm. Phát tâm mà còn những điều này, gọi là NGỤY (dối).
5. Cõi chúng sanh hết,
nguyện mới hết; đạo Bồ Đề thành, nguyện mới thành. Phát tâm như thế gọi
là ĐẠI.
6. Xem tam giới như tù
ngục, sanh tử như oan gia; chỉ mong mình mau giải thoát, chẳng muốn độ người.
Phát tâm theo quan niệm này, gọi là TIỂU.
7. Thấy chúng sanh và
Phật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành, đường công hạnh chẳng
quên, sự thấy hiểu không dứt. Phát tâm như thế gọi là THIÊN (lệch).
8. Biết chúng sanh và
Phật đạo đều là tự tánh, nên nguyện độ nguyện thành, tu công đức không thấy
mình có tu, độ chúng sanh không thấy có chúng sanh được độ. Phát tâm như thế
gọi là VIÊN (tròn).
Trong tám cách như trên,
Tà, Ngụy, Thiên, Tiểu nên bỏ, Chân, Chánh, Viên,
Đại nên theo. Được như thế mới gọi là phát Bồ Đề tâm đúng cách.
Trong văn, Tỉnh Am đại
sư lại khuyên đại chúng nên nghĩ đến mười nhân duyên để phát tâm. Mười duyên ấy
là: vì nghĩ đến ơn Phật, vì công ơn cha mẹ, vì nhớ ơn sư trưởng, vì tưởng ơn
tín thí, vì biết ơn chúng sanh, vì lo khổ sanh tử, vì tôn trọng tánh
linh, vì sám trừ nghiệp chướng, vì hộ trì chánh pháp, vì cầu sanh Tịnh Độ. Nơi
điều cầu Tịnh Độ, Ngài dẫn một lời Kinh A Di Đà và bảo: Kinh Văn nói: “Không
thể dùng chút ít căn lành phước đức nhân duyên được sanh về nước kia”. Thế
thì biết, phải có nhiều căn lành phước đức mới được vãng sanh Cực Lạc. Nhưng
nhiều căn lành không chi hơn phát Bồ Đề tâm, nhiều phước đức không chi hơn trì danh
hiệu. Nhiếp tâm niệm Phật giây phút hơn bố thí nhiều năm, chân thật phát Tâm Bồ
Đề hơn tu hành nhiều kiếp. Giữ chắc hai nhân duyên này, quyết định được sanh
Cực Lạc.
Qua những lời dạy của
Phật, Bồ Tát, Tổ Sư ở trên, ta thấy phát Bồ Đề tâm là điều rất quan yếu trên
đường hành đạo.
Đường
Sanh Tử Nhiều Nguy Hiểm
Đường vào vườn giác ngộ
có nhiều cửa, hành giả trước tiên phải lấy tâm đại Bồ Đề làm khởi điểm chánh
chân, rồi tùy căn cơ sở thích, muốn tu theo pháp môn nào cũng tốt.
Trên đường tu, nếu luận về "Căn-cơ" thì
môn Tịnh Độ bao gồm cả ba căn thượng, trung, hạ; chẳng những hạng phàm thường,
mà các bậc Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đều nguyện vãng
sanh.
Nếu luận về "Thời-tiết" thì
thời mạt pháp này chúng sanh phần nhiều tâm tạp chướng nặng, môn Tịnh Độ dễ
thật hành, lại có thể trong một đời được vãng sanh giải thoát.
Nhưng, nếu luận về “Sở-thích”,
thì riêng môn Tịnh Độ không thể thỏa mãn được hết mọi người, vì thế đức Như Lai
mới nói nhiều pháp môn.
Đại khái như những vị có
tâm hùng tráng, ưa sự giản dị trực thiệp trong sáng, thì thích về Thiền Tông.
Những vị ưa sự thần thông linh ứng kỳ bí, thích tu về Mật Tông. Những vị ưa lý
luận, cần phân tích cho xác thật rành rẽ mới chịu tin tưởng làm theo, thích tu
về Duy Thức Tông... Trong mỗi tông lại có nhiều chi tiết khác biệt, mà mỗi
người hành trì không giống nhau.
Tuy nhiên, trong đời Mạt
Pháp, hành giả đã phát đại Bồ Đề tâm thề độ mình độ sanh, mà muốn bảo đảm cho
tâm ấy thành tựu không bị thối thất; dù tu các môn khác, cũng nên kiêm hành
Tịnh Độ để cầu vãng sanh. Tại sao thế? Trong đây có ba sự kiện thiết yếu, xin
tuần tự kể phần đại lược:
Trong nẻo sống chết luân
hồi, có nhiều hiểm nguy chướng nạn cho đường tu. Muốn thoát cảnh hiểm
luân hồi để bảo đảm tâm Bồ Đề không thối thất, phải cầu sanh Tịnh Độ. Đây
là sự kiện thiết yếu trước tiên, mà hành giả cần lưu ý.
Tiên đức hằng răn nhắc:
"Nếu tu mà không chuyên cầu giải thoát, thì sự tu nơi kiếp này là mối thù
trong kiếp thứ ba." Sở dĩ có việc ấy, bởi kiếp thứ nhứt lo kham
khổ tu hành, nên chuyển sanh qua kiếp thứ nhì được hưởng quả báo thông minh
giàu sang quyền thế. Trong kiếp thứ hai này, do giàu sang nên dễ mê theo cảnh
quyền quý, vợ đẹp con xinh, cùng các thú vui vật chất nơi cõi trần. Đã nếm mùi
dục lạc tất dễ sanh đắm nhiễm, càng đắm nhiễm càng đi đến chỗ sa đọa tối tăm,
dám làm nhiều điều ác để củng cố lợi quyền và thỏa lòng tham vọng. Kiếp thứ nhì
đã gieo nhân như thế, kiếp thứ ba làm sao khỏi bị đọa lạc tam đồ?
Có kẻ gạn: "Kiếp
trước đã có công tu gieo nhân tốt, không lẽ sang kiếp thứ nhì trí huệ căn lành
đều mất, để đến nỗi phải bị đọa hay sao?" - Xin đáp: "Căn lành tuy
có, nhưng nghiệp ác từ vô lượng kiếp chưa phải đã tiêu trừ. Mà trong cảnh trần,
việc lành rất khó làm như leo lên cây cao, điều ác rất dễ phạm như tuột xuống
dốc lở. Người xưa đã chẳng bảo: ‘Trọn đời làm lành, lành còn chẳng đủ; một ngày
làm ác, ác tự có dư’ đó ư? Như những người giàu sang quyền thế mà chúng ta hiện
thấy, kiếp trước họ đều có ít nhiều công đức bố thí tu phước làm lành, nhưng kẻ
hướng về nẻo thiện không bao nhiêu, người say đắm danh lợi vinh hoa lại chiếm
phần đa số. Thử hỏi có mấy vị đỗ cao quyền quý chịu xuất gia, sống một cuộc đời
khắc khổ đạm bạc, hướng về mục đích giải thoát thanh cao? Ngay như người xuất
gia, khi chưa có địa vị còn kham nhẫn tu hành, lúc đã được quyền danh, nhiều kẻ
lễ bái tôn trọng cúng dường, lại dễ bị cảnh phù trần ràng buộc. Hiện tại ta
thấy có biết bao hàng Tăng Ni thiện tín, trước còn tinh tấn hành trì, sau lần
lần biếng trễ bỏ tu hoặc hoàn tục thối đạo, nói chi đến kiếp sau?"
Ở cõi người còn như thế,
nếu sanh lên cõi trời cảnh vui ngũ dục quá nhiệm mầu, lại còn khó tu hơn nữa! Đó
là nói những vị có phước, còn những người ít phước sống một cuộc đời nghèo khổ
quá cũng khó tu. Hoặc tuy vào hạng trung lưu, nhưng giữa đời này tà đạo dẫy
đầy; trong chánh pháp bậc thiện hữu tri thức khó gặp, nẻo đường giải thoát
không phải dễ tìm! Đến như chúng sanh trong ba ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, thì việc tu niệm thật là khó đến muôn phần, vì các loài ấy ngu tối, thân
tâm hằng ở trong cảnh khổ.
Kiếp luân hồi có nhiều
hiểm nạn như thế, nếu không cầu sanh Tịnh Độ để thoát ly, tất khó bảo đảm tâm
Bồ Đề không bị thối thất.
Cần
Giải Thoát Ngay Trong Hiện Kiếp
Trong thời mạt pháp, nếu
chỉ tu môn khác không kiêm cầu Tịnh Độ, tất khó giải thoát ngay trong một
đời. Nếu đời này không được giải thoát bị mê trong nẻo luân hồi, thì
tất cả tâm nguyện sẽ thành hư tưởng. Đây là sự kiện thiết yếu thứ hai,
mà hành giả cần lưu ý.
Các hành giả tu theo
những pháp môn khác, duy trọng về tự lực, lập tâm trường cửu, quan niệm mỗi đời
cứ tiến tu, dù đời này không được giải thoát, trong những kiếp sau cũng sẽ
thành đạo. Nhưng có một điều cần để ý, là liệu đời sau sẽ được bảo đảm chắc chắn
cho ta tiếp tục tu nữa chăng? Bởi khi chưa là bậc đắc đạo, lúc chuyển sanh tất
phải hôn mê, dễ quên tâm nguyện tu hành kiếp trước. Nơi cảnh trần duyên tiến
đạo thì ít, duyên thối đạo lại nhiều. Biết bao vị xuất gia lúc chuyển sanh
không thể tiến tu, như các sự tích đã lược trần trong chương thứ nhứt.
Kinh nói:
"Bồ Tát còn mê khi
cách ấm,
Thanh Văn còn muội lúc
ra thai."
"Cách ấm" là
trải cách từ ấm thân này sang ấm thân khác. Như thân hiện tại là tiền ấm,
chuyển sanh thân kiếp sau gọi là hậu ấm; trải qua sự xen cách từ thân trước đến
thân sau như thế, bậc Bồ Tát chưa đắc đạo phải bị hôn mê.
Trong kinh, có nơi khác
lại nói: "Hạng phàm thường khi nhập thai, trụ thai và xuất thai đều hôn
mê. Bậc Chuyển Luân Thánh Vương do phước báo, lúc nhập thai thì biết, khi trụ
thai, xuất thai phải bị hôn mê. Hàng Thanh Văn lúc nhập thai, trụ thai đều có
thể tỉnh biết, song khi xuất thai lại hôn mê. Duy có bậc Bồ Tát chứng
Vô Sanh Nhẫn, lúc nhập thai, trụ thai và xuất thai đều tỉnh giác."
Đôi khi hạng phàm phu do
nghiệp duyên đặc biệt cũng nhớ được kiếp trước, nhưng đây chỉ là trường hợp ít
có trong muôn một. Hoặc đó là Bồ Tát thị hiện để cho chúng sanh biết có luân
hồi, ngoài ra tất cả khi chuyển sanh đều bị mê muội. Khi đã hôn mê, thì bao
nhiêu sự hiểu biết về đạo lý và những tâm nguyện nơi kiếp trước, đều vì vô minh
che lấp khiến cho lãng quên.
Duyệt qua chỗ kiến văn,
bút giả từng nghe có vị thuật lại, lúc trẻ tuổi mỗi khi nằm mơ thấy mình bay tự
do cao vút đi khắp mọi nơi; tuổi càng lớn lại thấy bay thấp lần lần, sau không
còn bay được nữa. Trong quyển Phật Học Chỉ Nam, có
kể chuyện ông Viên Thủ Đồng, người ở đất Trường Sơn bên Trung Hoa, lúc bốn, năm
tuổi, trong đêm tối thấy rõ rệt các vật như ban ngày. Mấy năm kế, sự thấy mờ
giảm lần. Từ mười tuổi trở lên, ông không còn thấy nữa, chỉ đôi khi nửa đêm
thức dậy ngẫu nhiên thấy rõ được trong giây lát. Khoảng mười bảy tuổi về sau,
hai ba năm mới thấy một lần, nhưng chỉ lóe sáng lên rồi liền tắt mất.
Những vị này kiếp trước
đều có tu nhưng khi chuyển thế bị mê đi, kế đó trần nhiễm càng sâu, thần minh
càng tiêu giảm. Có những vị như vị Thiên Đại Hạc Tử ở Nhựt Bản, Ngụy Tịch Phủ ở
Trung Hoa, ngồi một nơi thấy rõ những vật xung quanh cách xa đến mấy mươi dặm.
Có nhiều người thấy được vật dưới đất, sự việc cách tường vách, hoặc đồ để
trong túi của quần chúng, mà thế gian gọi là “thiên nhãn”, nhưng họ
không chịu tu. Bởi thế lần lần sự thấy suy giảm, kết cuộc cũng như thường nhơn.
Lại có những vị xem sách
một lần rồi gấp lại đọc thuộc lòng không sai một chữ, hoặc văn tài mau lẹ xuống
bút thành phú, mở miệng thành thi, nhưng không chịu tu hành, đôi khi trở lại
bài bác đạo Phật. Cổ đức bình luận những người sau này, kiếp trước tu Thiền
định đến trình độ khá cao, đã có chỗ sở đắc. Nhưng bởi những vị hành
trì theo Tông môn chỉ nhận ngay tự tâm, phá trừ Phật kiến, Pháp kiến,
nghĩa là để tâm rỗng không chẳng thấy có Phật và Pháp; nên khi chưa chứng đạo
phải chuyển sanh trở lại, duy bằng cứ vào sự thông minh của mình, không ưa
thích đạo Phật. Các bậc xưa còn như thế, người tu hiện tại sở đắc phỏng có là
bao?
Như lời Phật huyền
ký: "Đời mạt pháp người tu thì nhiều nhưng khó có ai đắc
đạo." Mà khi chưa chứng đạo, nếu còn nghiệp lực nhỏ như sợi tơ cũng
bị luân hồi. Dù có một vài vị ngộ đạo, nhưng ngộ chưa phải là chứng, chỉ do sức
Ðịnh chế phục nghiệp thức khiến cho lắng đọng lại, nên tạm được khai tâm, lúc
chuyển sanh vẫn còn bị hôn mê không được tự tại. Đến kiếp sau, duyên tiến đạo
thì ít cảnh thối đạo lại nhiều, nguyện giải thoát đã thấy khó bảo toàn chắc
chắn. Về sự ngộ đạo còn bị thối thất, cổ đức đã có ba điều thí dụ:
Điều thứ nhất: như
dùng tảng đá đè lên cỏ dại, cỏ tuy không mọc được nhưng củ nó chưa hư thúi, nếu
gặp duyên khác tảng đá bị lật lên, cỏ vẫn mọc lại như cũ.
Điều thứ hai: như
lóng nước trong chum, bùn tuy lắng xuống nằm yên tận đáy, nhưng khi chưa gạn
lọc ra được, gặp duyên khuấy động, bùn lại nổi lên.
Điều thứ ba: như
đồ gốm tuy nắn thành hình, nhưng chưa trải qua một phen nung lại cho chắc, gặp
mưa xuống tất phải bị tan rã. Trạng huống ngộ đạo khi chuyển sanh dễ bị thối
thất, cũng lại như thế.
Đời mạt pháp, người tu
có mấy ai ngộ đạo? Ngộ đạo không phải là dễ. Như thuở xưa, Hương Lâm thiền sư
dụng tử công phu trong bốn mươi năm mới dung luyện thành một khối. Ngài Trường
Khánh Nhàn ngồi rách mười mấy chiếc bồ đoàn mới được thấy tánh bản lai. Người
đời nay, trừ một vài vị Thánh Nhơn ứng thân thị hiện để làm mô phạm cho quần
chúng, ngoài ra các vị khác tu Thiền, chỉ tạm được thân tâm an tĩnh hoặc thấy
thiện cảnh giới là cùng! Dù đã ngộ đạo, khi chuyển sanh vẫn còn có thể bị chướng
nạn như những điều đã kể trên. Đường sanh tử có nhiều nguy hiểm đáng e ngại với
kẻ chưa đắc đạo là thế. Cho nên nếu bảo không sợ sanh tử, đó là chỉ lối suy tư
của người thiển cận mà thôi.
Hơn nữa, hiện tại chánh
pháp đã lần lần ẩn diệt, trên thế giới, nơi nào ảnh hưởng duy vật tràn đến là
đạo Phật không còn. Đã có nhiều nơi chùa chiền bị hủy phá, kinh sách bị thiêu
đốt, tăng ni phải hoàn tục, hàng thiện tín không được tu. Dù cho ngày kia có
được phục hồi, cũng phải bị biến thể và tiêu hao một phần lớn. Mong chuyển sanh
để tiếp tục tu hành với một nền đạo suy tàn, thiếu bậc cao tăng dìu dắt, lấy
đâu làm duyên tốt tiến đạo để giải thoát trong tương lai? Cho nên muốn bảo đảm
tâm Bồ Đề không bị thối thất, phải tu Tịnh Độ. Dù tu các môn khác cũng nên kiêm
niệm Phật phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc.
Đây là lời khuyến tấn
chung của các bậc tiên đức, như các ngài: Liên Trì, Ngẫu Ích, Kiên Mật, Ấn
Quang.
Làm
Thế Nào Để Thành Mãn Bồ Đề Tâm ?
Đã phát Bồ Đề tâm, suy
tư kỹ đối với căn cảnh thời nay, phải dùng phương tiện nào cho tâm ấy được
thành tựu viên mãn? - Muốn cho sự tự lợi lợi
tha của nguyện Bồ Đề được toàn vẹn, không chi hơn cầu sanh Tịnh Độ. Đây
là sự kiện thiết yếu thứ ba mà hành giả cần lưu ý.
Một vị cao đức thời xưa,
sau khi phát đại nguyện tu hành, đã thốt ra câu:
Thế gian, xuất thế suy
cùng khắp.
Chẳng niệm Di Đà lại niệm ai?
(Thế gian, xuất thế tư duy biến.
Bất niệm A Di cánh niệm thùy?)
Quả thật, khi xem qua
lời này, rồi suy lường so sánh từ pháp môn đến căn cơ và hoàn cảnh thời nay, có
lẽ tu Tịnh Độ là đường an ổn vẹn toàn nhất.
Có người hỏi: - Đã phát
tâm độ sanh, thì nên trụ ở thế giới Ta Bà, vì nơi đấy có nhiều chúng sanh khổ
cần phải tế độ, tại sao lại cầu sanh về Tây Phương?
- Xin thử hỏi lại: Độ
sanh cần có điều kiện chi để thực hiện? Phải chăng là cần có: phước đức,
trí huệ, biện tài, thần thông, tướng hảo? (Mà trong những phương diện ấy,
chúng ta đã có một phần nào chưa?) Chỉ riêng về điểm phá phiền hoặc để phát
sanh trí huệ cho khỏi bị trần cảnh làm mê, còn là điều không phải dễ! Cổ đức đã
bảo: "Đoạn kiến hoặc khó như ngăn dòng nước bốn mươi dặm!" Như thế,
nói chi đến đoạn tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh? Kiến hoặc, nói đơn giản, là
những phiền não thấy chấp về phần thô; tư hoặc là phiền não về phần tế. Từ vô
lượng kiếp đến nay, chúng ta đã huân tập vào tâm thức những ô nhiễm tham sân
si, và không biết bao nhiêu là sự thấy hiểu sai biệt, liệu trong một thời gian
ngắn của đời này, ta có thể tiêu diệt hết nó được chăng? Người tu hiện nay,
phần nhiều phước mỏng huệ cạn, chỉ một câu A Di Đà Phật, niệm còn không dễ
thuần thục, đề cập chi đến sự tự tại độ sanh là việc xa vời?
Cho nên điều cần thiết
trước mắt, là chúng ta nên cầu sanh Tây Phương, trước tế độ mình cho khỏi bị
đọa luân hồi, nương thắng duyên ở cảnh giới ấy mà tinh tấn tu hành. Chờ
đến khi được chứng quả, đủ trí huệ, biện tài, thần thông, tướng hảo, chừng ấy
sẽ trở lại Ta Bà độ sanh, mới có phần tự tại. Tuy
nhiên, đối với bổn phận và bi tâm của người tu, không phải bác bỏ hẳn sự độ
sanh trong hiện đời. Nhưng sự lợi người nơi hiện tại của chúng ta, thật ra chỉ
ở trong cảnh tùy sức tùy duyên, như người rớt xuống dòng mê, vừa tự lội vào bờ,
vừa kêu gọi khuyên kẻ khác lội theo mà thôi.
Luận rộng thêm, dù chứng
đến quả Vô Sanh, tuy muốn tu cho sáu độ được hoàn mãn cần phải ở nơi cõi ác
trược nhưng thật ra cũng không thể xa lìa Tịnh Độ. Tại sao thế? - Như trong
kinh nói, bậc Sơ Địa Bồ Tát còn không thể biết chỗ giở chân lên, để chân xuống
của hàng Nhị Địa, huống chi là biết được cảnh giới của Như Lai? Vì lẽ ấy, nên
trong hải hội Hoa Nghiêm, sau khi giảng thuyết mười đại nguyện vương, đức Phổ
Hiền liền dùng lời kệ khuyến tấn chư Bồ Tát khắp trong năm mươi mốt ngôi vị là:
Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Đẳng Giác cầu sanh
về Cực Lạc. Bởi nơi Tịnh Độ Phật thường hiện thân, muốn vào cảnh giới thâm mật
của Như Lai, Bồ Tát phải năng gần gũi Phật. Cho nên những bậc đăng
địa Bồ Tát đều phải một mặt phân thân ở các Uế Độ lập bồi công hạnh, mặt khác
lại hiện thân nơi các Tịnh Độ gần gũi học hỏi chư Phật để cầu bước tiến tu. Sự
vãng sanh Tịnh Độ rất cần cho từ hạnh bạt địa phàm phu đến bậc Đẳng Giác Bồ Tát
là như thế.
Cứ như ba sự kiện trên,
nẻo luân hồi có nhiều chướng nạn, nếu chưa chứng quả Vô Sanh, khi chuyển thế dễ
bị hôn mê sa đọa. Cho nên muốn bảo đảm tâm đại Bồ Đề không bị thối thất và để
thành mãn nguyện này, chẳng những hàng phàm phu như chúng ta, vì gấp giải quyết
vấn đề sanh tử luân hồi trước mắt, cần phải cầu vãng sanh. Mà đến hàng siêu địa
Bồ Tát, nếu muốn vào cảnh giới thâm mật của Như Lai cùng hoàn mãn đại nguyện
ấy, cũng không thể xa lìa Tịnh Độ.
BÀI SỐ 98
Ẩn tu phương tiện mượn thi ngâm
Thức ngộ mình người khởi đạo tâm
Đâu nghỉ hoa đào ra động bích
Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?
NHƯ Ý : Nếu Hoa-đào có rơi nhẹ trôi theo vòng suối ra ngoài ĐỘNG BÍCH, đó cũng là một sự Ngẫu-nhiên, không phải do ý Chư-tiên mượn nó để dời chân LƯU NGUYỄN , cũng như thế Bút-giả không có ý mượn những lời Thi trong đây để Thả cánh Hoa-đào, mà chỉ muốn ngõ riêng với một ít vì Thông Cảm, Hữu Duyên.
Bởi Mình đã có DUYÊN để đáng tỏ BÀY công bố.
Niệm Phật Thập Yếu
NIỆM PHẬT
PHẢI PHÁT LÒNG BỒ ĐỀ
Ba cõi không an dường hỏa-trạch
Đâu miền chân-lạc khỏi tang thương?
Người vô thường,
Cảnh vô thường!
Khuyên gọi cùng nhau tỉnh mộng
Quay về bể giác thanh lương.
Khởi lòng bi trí
Nguyện độ mười phương.
Ba tăng-kỳ kiếp tu muôn hạnh.
Bền lòng không thối chuyển
Cầu ngôi vị Pháp-Vương!
Phải
Diệt Niệm Buồn Chán
Người hoài bão tâm thương đời, hay kẻ có lòng lo
đạo, trên đường chí nguyện thường thường phải trải qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhứt là tâm nhiệt
thành sốt sắng.
Giai đoạn thứ hai là niệm buồn
rầu chán nản.
Giai đoạn thứ ba là lòng BI TRÍ tùy cơ.
Nhưng thông thường, những vị hữu tâm ấy hay bỏ
cuộc và tiêu tán chí niệm ở đoạn hai, ít ai đi đến đoạn ba. Vượt đoạn hai để đi
đến đoạn ba là người có tâm bi trí rộng lớn, như con thần long khi bay lên mây
xanh, lúc ẩn nơi lòng biển cả. Nhà Nho gọi điều này là:
"Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng."
Đây là ý nói:
"Bậc chân nho, đời hữu đạo thì đem đạo lưu
hành, đời vô đạo lại lui về ở ẩn."
Như đức Khổng Tử khi đem đạo thánh hiền truyền
hóa, các vua thời Đông Châu không ai chấp nhận, Ngài lui về viết sách dạy học
trò, chí thương lo cứu đời không khi nào bị thối giảm.
Kẻ chưa thấu hiểu thời tiết cơ duyên, chưa suốt được đạo lý này, thường hay chán buồn bi phẫn!
Comments
Post a Comment