Sự An
Nhẫn Của Cư Sĩ Tiền Vạn Dật
Tiền Vạn Dật, tự là Dực Sơn, quê ở Thường Thục, trấn Mai Lý,
người đời nhà Thanh bên Trung Hoa. Buổi thiếu thời, Vạn Dật theo gia nghiệp,
chuyên bán rượu. Sau ông đổi nghề, giới sát tu tịnh nghiệp, hết sức sửa đổi lỗi
lầm trước. Vạn Dật chỉ có một trai, chẳng may bị bịnh lao, niệm Phật mà qua
đời. Người láng giềng chê cười, bảo tại lo tu hành nên con chết. Ông nghe nói
mỉm cười, vẫn an nhiên thờ Phật như cũ.
Một đêm, lửa bén cháy nhà, Vạn Dật chắp tay ngửa mặt trên hư
không vái rằng: "Nghiệp con nặng,
đáng chịu thiêu hủy gia sản, nguyện
xin đừng tổn thương đến những nhà gần bên." Sau khi lửa tắt, chỉ có
nhà ông tiêu ra tro, các gia cư gần đó đều không sao cả. Cố gắng lo chỗ ở tạm
xong, Vạn Dật lại khuyên mẹ là Ngô Thị trường trai niệm Phật, bà mẹ y theo lời.
Tiếp theo ông cũng tự ăn chay trường, nhưng vì tập quán cũ hãy còn, thường hay
uống rượu. Nhưng nhờ có người thân thích là cư sĩ Tạ Phụng Ngô khuyên can, ông
cố gắng lần dứt trừ được.
Mùa Xuân năm Đạo Quang thứ hai mươi hai, vợ đau chết, Vạn Dật
vẫn sống trong cảnh lẻ loi. Nhiều người khuyên nên tục huyền, ông cự tuyệt và
bảo: "Đã có con mà bị chết sớm, tái
thú nữa để làm gì? Vả lại chí tôi ở nơi xuất tục, có phải khăng khăng trong sự
nối dõi đâu!" Mùa Hạ năm ấy, ông đau bịnh lạc huyết, chí thoát trần
càng thiết, vẫn cố gắng gia công niệm Phật. Đến đầu tháng bảy, bịnh ông thêm
nặng, ăn vào liền mửa ra. Phụng Ngô sang viếng thăm, nhân an ủi bảo cho biết:
“Cổ đức đã có một vị nhịn ăn để cầu thấy Phật”. Vạn Dật nghe nói, mừng rỡ bảo:
"Nếu có việc rất tiện lợi như thế, tôi sẽ gắng sức làm theo." Liền
hôm sau, ông tắm gội sạch sẽ, đến trước bàn Phật niệm hương phát nguyện giữ
thanh trai trong bảy ngày, xuất tiền mua vật mạng phóng sanh, để cầu về Tịnh
Độ. Kế đó, ngày đêm ông niệm Phật không dứt, lúc khát chỉ ăn trái dưa mà thôi.
Có người hỏi: "Suốt đêm không ngủ như thế, có mệt mỏi
chăng?" Vạn Dật đáp: "Nhờ
không ngủ mới niệm Phật được nhiều. Khi tôi không bịnh thì chẳng được an nhàn.
Nay nhân lúc bịnh được rảnh rang, phải gắng sức, có mệt nhọc gì đâu!"
Bảy ngày vừa mãn, bởi tuyệt cốc nên kiệt sức, thần thức ông hôn
loạn. Người nhà cho ăn chút cháo loãng, liền buồn dạ no hơi, hôn loạn càng
thêm. Vạn Dật cả sợ, chắp tay để trên gối, bảo đốt ngón tay cúng dường Phật.
Phụng Ngô nói: "Lúc này mà anh phát được tâm nguyện ấy, thì cũng
đồng như đã đốt ngón tay rồi. Thôi chi bằng rũ sạch muôn duyên, nhứt tâm cầu về
Cực Lạc là hơn!" Ông nghe nói liền nhắm mắt niệm Phật, ban sơ như còn gắng
gượng, kế đó nhờ dùng sức dõng mãnh, nên thần chí lần lần an định. Duyên may,
lại nhờ mười mấy người bạn đồng đạo hay tin đến trợ niệm, nên ngày đêm trong
nhà ông tiếng niệm Phật nối nhau không dứt.
Đến chiều bữa mùng mười, Vạn Dật tự nói thấy một vị đi lại trước
đầu giường, bảo cả dưa và trái cây đều chớ ăn, hỏi thì xưng là sứ giả ở thượng
giới. Qua ngày hôm sau, ông bỗng thấy Tây Phương Tam Thánh tướng tốt quang minh
hiện đứng giữa hư không trước mặt. Ông muốn vượt lên ngồi vào kim đài, chợt
nghe tiếng bảo: "Thân ngươi còn chưa sạch!" Kế đó các tướng đều ẩn
mất. Vạn Dật liền bảo nấu nước thơm để mình tắm gội. Tắm xong, Tam Thánh hiện
ra như trước. Ông gọi người nhà lại nói: "Tôi
đã dạo chơi Tịnh Độ, thấy vô số hoa sen, mình ngồi trên một đài hoa, vui không
thể tả!" Lại tự chỉ thân mình nói: "Đây không phải thân
tôi."
Sáng sớm ngày mười hai, Vạn Dật từ biệt mẹ và thưa rằng: "Phật cùng chư
Thánh chúng đã đến đầy nhà." Nói xong, liền chắp tay niệm
Phật mà qua đời. Lúc bấy giờ, ông được ba mươi bảy tuổi.
- Như cư sĩ Tiền Vạn Dật: gặp cảnh nghịch mà sơ tâm không
thối, bị bịnh khổ nhưng chánh niệm vẫn bền. Kết cuộc duyên trần rũ sạch, cảnh
tịnh hiện bày, nhiệm mầu điểm ứng đài vàng, thanh thoát thân chơi cõi ngọc,
phẩm vị cao quyết chẳng còn nghi. Ôi! Nhẫn nại mạnh mẽ đến thế ư!
Sự An Nhẫn Của Cư Sĩ Phó Xuân Phố
Phó Xuyên, tự Xuân Phố, người thời Trung Hoa Dân Quốc, quê ở xã
Đông Quách, huyện Thanh Giang, tỉnh Giang Tây. Thuở bé ông mồ côi cha sớm, mẹ
là Nhiếp thái phu nhơn thủ tiết, chịu khổ nuôi dưỡng, khuyến khích học hành cho
đến lúc nên người.
Xuân Phố từng nhậm các chức sự như: huấn khoa viên tại huyện thự
Thanh Giang, cảnh sát trưởng nơi trấn Chu Đàm, và hiệu trưởng Nghĩa Vụ học hiệu
ở Chương Thọ. Ông là người thông minh mẫn tiệp, hằng tham dự các công vụ. Mỗi
khi có việc chi khó khăn, hàng quan thân thường mời đến nhờ giúp ý kiến giải
quyết.
Nhiếp
thái phu nhơn từ lâu đã thờ kính Quán Thế Âm Bồ Tát, và niệm Phật trường trai.
Năm Dân Quốc thứ mười bảy, thái phu nhơn nhiễm bịnh, ông phát
nguyện triều Phổ Đà lễ Đại Sĩ, nhờ đó không thuốc mà bịnh tự lành. Tháng Chín
năm Dân Quốc thứ hai mươi (1931), Xuân Phố mới đến Phổ Đà để hoàn nguyện. Khi
ông chí thành lễ động Phạm Âm, cảm đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân tướng mặc
áo trắng, tay cầm tịnh bình và cành dương liễu. Ông lại cầu Bồ Tát gia bị cho biết
đời trước, thấy tiền thân mình là một vị tăng tu hạnh đầu đà, y phục thô sơ lam
lũ.
Do duyên sự đó, Xuân Phố tỉnh ngộ, biết việc luân hồi không phải
hư huyễn, chí xuất trần càng tha thiết. Ông nhờ Nguyệt Tịnh pháp sư giới thiệu
cho tham yết ngài Ấn Quang và Đức Sum pháp sư nơi chùa Báo Quốc tại tỉnh Tô Châu,
mới nghe được pháp yếu của tông Tịnh Độ. Sau khi ấy, ở Hoằng Hóa Xã xuất bản
kinh sách chi cũng đều có tặng cho. Nhờ đó sự tin hiểu về Phật pháp của ông
càng thâm thúy. Lúc bấy giờ Xuân Phố mới
quyết định tiến thẳng lên đường đạo, quy y thọ giới Ưu Bà Tắc với Đức Sum pháp
sư, được pháp hiệu là Thiền Xuyên, tự Hàng Tây.
Sau khi vào đạo, cư sĩ tín nguyện sâu thiết, tinh tấn niệm Phật
không biếng trễ. Năm Dân Quốc thứ hai mươi hai, ông được mời làm chủ giảng ở
Niệm Phật Lâm tại Lộc Giang, dẫn dắt khuyến dụ người tu tiến rất nhiều. Cư sĩ
thể chất vốn yếu, thường hay đau bịnh, lại vì tánh tình liêm khiết nên gia đạo
vẫn nghèo, lắm lúc bị nợ nần thiếu hụt. Bởi hàn vi nên tình đời thường sơ bạc,
gia dĩ nghiệp chướng phát hiện, tiếng thị phi chịu cũng rất nhiều. Ông hằng
muốn xuất gia, nhưng vì số vận mãi long đong, nên cơ duyên chưa thuận tiện. Tuy quanh mình
gia lụy buộc ràng, nhưng bởi chí nguyện chán cõi trược cầu vãng sanh tha thiết,
sớm hôm cư sĩ vẫn tinh tấn lễ niệm, dù đau bịnh cũng gắng gượng, không khi nào
sơ sót.
Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ hai mươi bảy (1938), cư sĩ mộng thấy
đức Quán Thế Âm hiện thân, bảo cho biết quy kỳ vào hạ tuần tháng Bảy. Đến rằm
Trung Nguơn, sau hội Vu Lan Bồn, cư sĩ ngã bịnh, song vẫn nhứt tâm niệm Phật,
hầu như quên bịnh khổ, uống ăn. Ngày hai mươi sáu bịnh trở nặng, người nhà
thương khóc, cư sĩ cười bảo: "Tôi sẽ vãng sanh vào ngày vía đức Địa Tạng,
hãy nên vui mừng, đừng bi lụy." Đến ngày ấy, cư sĩ lại ghế ngồi kiết dà,
kiết ấn Di Đà định, nhìn chăm chú tượng Phật, rồi an nhiên qua đời. Lúc đó, gương mặt ông bỗng sáng rạng rỡ hơn
lúc sanh bình, thân thể lần lần lạnh, chỉ có đỉnh đầu còn nóng.
Sau khi cư sĩ vãng sanh, vị tọa chủ chùa Thông Tuệ và Đại Nhân
pháp sư đồng đến lo liệu cho việc nhập khám, nhục thân của cư sĩ vẫn ngồi thẳng
như lúc bình thời. Trước ngày ấy gió mưa rất lớn, nhưng vào nửa đêm đến khi đốt
lửa làm lễ trà tỳ, trời bỗng sáng tạnh, hương lạ bay ngào ngạt, không phải mùi
trầm đàn cũng không phải mùi hoa lan. Từ nóc khám, một đạo bạch quang phóng lên
hư không, rồi bay thẳng về Tây. Lúc ấy vào tiết sơ Thu, khí hậu viêm nhiệt, cư sĩ chết
đã ba ngày mà thây không hôi, lại phóng mùi thơm và ánh quang minh, nên ai nấy
đều khen lạ. Bấy giờ cư sĩ đã bốn mươi tám tuổi.
- Thời mạt pháp người niệm Phật nhiều, mà thành công ít, bởi vì
không nguyện thiết tin sâu. Luận về tư cách bậc trượng phu, thầy Mạnh Tử bảo:
"Giàu sang không làm cho kiêu dâm, nghèo hèn không làm cho đổi chí, uy vũ
không làm cho khuất phục." Pháp thế gian còn như thế, huống là người theo
Phật pháp tu Tịnh Độ cầu siêu phàm nhập thánh ư? Như cư sĩ Phó Xuân Phố: nhà
nghèo, thân bịnh, gia lụy, mà vẫn nhẫn nại lướt qua, chuyên tâm niệm Phật, ngàn
tiếng khen chê chẳng quản, trăm điều mài bẻ không sờn. Nhờ đó đến khi lâm chung
biết ngày giờ trước, điềm lạ hiện bày. Như thế đủ thấy môn Tịnh Độ là bi nguyện
triệt để của Như Lai, nếu chịu quyết tâm, không ai chẳng lên thuyền giải thoát.
Xem
gương cư sĩ xong, bỗng cảm khái tự hỏi: tánh linh nguyên cũng vẫn đồng, siêu đọa bởi sao sai khác, khúc điệu
Cao Sơn vang lại đó, lắng nghe Lưu Thủy mấy ai đây? Nên viết ra
khuyên người mà cũng để nhắc mình vậy.
Afterthoughts
In the
Dharma-Ending Age, many people recite the Buddha's name, but few achieve
results. This is because they lack earnest vows and deep faith. In a discourse
on the character of the ideal gentleman, Mencius once wrote:
Wealth
and power do not make him proud or lustful; poverty and want do not cause him
to alter his resolution; force cannot make him yield and submit.
Even the ideal
gentleman should be thus -- not to mention those who cultivate the Dharma and
practice Buddha Recitation, seeking to transcend this world and enter the
"stream of the sages ..."
The Pure
Land method stems from the great compassionate Vows of the Tathagatas; with
determination, no one will miss the boat of liberation. This author was moved
to ask himself: the wonderful Nature in all sentient beings has always been
equal and the same; why is it that some of us are reborn in the Pure Land,
while others keep revolving within the cycle of Birth and Death? The music of
the high mountains reverberates down to
us; how many listen intently to the sound of the flowing stream? The author has, therefore, penned a few
thoughts for the edification of others -- as well as himself.
BÀI SỐ 98
Ẩn tu phương tiện mượn thi ngâm
Thức ngộ mình người khởi đạo tâm
Đâu nghỉ hoa đào ra động bích
Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?
NHƯ Ý : Nếu Hoa-đào có rơi nhẹ trôi theo vòng suối ra ngoài ĐỘNG BÍCH, đó cũng là một sự Ngẫu-nhiên, không phải do ý Chư-tiên mượn nó để dời chân LƯU NGUYỄN , cũng như thế Bút-giả không có ý mượn những lời Thi trong đây để Thả cánh Hoa-đào, mà chỉ muốn ngõ riêng với một ít vì Thông Cảm, Hữu Duyên.
Bởi Mình đã có DUYÊN để đáng tỏ BÀY công bố.
Niệm Phật Thập Yếu
IX
Niệm Phật
Phải An Nhẫn Các Chướng Duyên
Lời Khuyên Dạy Của Cổ Đức
Vì biết trên đường tu có nhiều chướng ngại, khi xưa đức Đạt Ma Tổ Sư đã nói bốn hạnh để làm phương châm tiến đạo cho hàng đệ tử. Bốn hạnh ấy là: Báo Oan Hạnh, Tùy Duyên Hạnh, Xứng Pháp Hạnh và Vô Sở Cầu Hạnh.
Sao gọi là Báo Oan Hạnh?
Chúng ta từ trước đến nay luân hồi trong sáu nẻo, mỗi đời đều gây nghiệp trái hoặc ân hoặc oán, từ việc nhỏ đến việc lớn, có thể nói là vô lượng vô biên. Cho nên khi ta hành đạo, tuy nhờ công đức tu tập tiêu trừ một phần nào, nhưng các nghiệp chưa tan, tất phải lần lượt đền trả.
Như người thường đau yếu hoặc tàn tật, do kiếp trước đã tạo nghiệp sát sanh.
Người bị nhiều tiếng thị phi khen chê, do kiếp trước ỷ thông minh quyền thế xem rẻ người, hoặc đã tạo nghiệp hủy báng.
Người bị nghèo khổ thiếu hụt, do kiếp trước không có lòng xót thương tu hạnh bố thí.
Người bị gông cùm tra khảo tù đày, do kiếp trước hay trói buộc, đánh đập, giam nhốt chúng sanh.
Kẻ bị cô độc lẻ loi thiếu người phụ trợ, do kiếp trước không hoan hỷ kết duyên với mọi người.
Những nghiệp như thế vô lượng vô biên, ngày nay tu hành khi bị oan trái đến, phải an lòng nhẫn nại chịu đền trả, không nên oán trách buồn phiền. Nơi kiếp luân hồi, chúng sanh đều có ăn uống cùng gia đình đôi bạn, nên trong các nghiệp duy có nghiệp sát và nghiệp ái là nặng nhứt.
Cổ đức đã than:
"Bể nghiệp mênh mang,
Khó đoạn không chi hơn ÁI-DỤC.
Cõi trần man mác,
Dễ phạm duy chỉ có SÁT-SANH!"
Thế nào là Tùy Duyên Hạnh?
Đây là nói sự an phận tùy duyên của người tu cảnh nào sống theo cảnh ấy. Như cảnh giàu sang tùy theo giàu sang, cảnh nghèo hèn tùy theo nghèo hèn, cảnh man rợ tùy theo man rợ, cảnh hoạn nạn tùy theo hoạn nạn, Cho đến cảnh thạnh suy, họa phước, đắc thất, thị phi... cũng đều như thế.
An phận tùy duyên đây, là giàu sang mà không tự đắc kiêu căng, nghèo hèn hoạn nạn mà không buồn rầu đổi chí. Tại sao thế? Vì tất cả cảnh thạnh suy họa phước đều như huyễn, chỉ tùy nghiệp hiện lên một thời gian rồi diệt, có chi đáng tham luyến nản buồn?
Sao gọi là Xứng Pháp Hạnh?
"Pháp" đây là Chân Như pháp, đối với người tu Tịnh Độ là Niệm Phật Tam Muội. Người tu Thiền khi đi đứng nằm ngồi, tâm phải xứng hợp với pháp Chân Như, như nước hòa nước, tợ hư không hợp với hư không. Hành giả tu Tịnh Độ cũng thế, tâm lúc nào cũng trụ nơi câu niệm Phật.
Cổ đức bảo:
"Nếu tạm thời không trụ nơi CHÁNH-ĐỊNH,
Tức đồng như người đã chết."
Bởi không trụ được nơi chánh định, tức là bị trần cảnh đoạt. Bị trần cảnh cướp đoạt lôi cuốn, thì pháp thân huệ mạng không còn. Cho nên người tu Tịnh Độ nếu thường trụ nơi câu niệm Phật, thì tâm địa lần lần lặng yên sáng suốt, cảm thông với Phật, chắc chắn sẽ được vãng sanh.
Thế nào là Vô Sở Cầu Hạnh?
Đạo là chỉ cho tâm hạnh trong sạch không mong cầu điều chi. Bởi tất cả pháp đều như huyễn, sanh rồi diệt, diệt lại sanh, có chi chân thật để mong cầu?
Vả lại pháp thế gian đều tương đối, trong họa có phước, trong phước có họa, nên người trí vẫn bình thản, ở cảnh thạnh suy họa phước đều không động tâm.
Có người hỏi:
"Nếu niệm Phật không cầu vãng sanh, không cầu phước huệ viên mãn để thành Phật, thì làm sao tu tiến?"
Đáp: "Bởi Phật là chơn không, càng cầu lại càng xa càng mất." Vì thế Kinh Pháp Hoa nói: "Giả sử có vô số bậc Thanh Văn, Duyên Giác cho đến hàng Bất Thối Bồ Tát, trong vô lượng kiếp suy nghĩ tìm cầu, cũng không thấy hiểu được thật trí của Phật."
Về sự vãng sanh, thì lối cầu của người tu là cầu mà không cầu, không cầu mà cầu. Sự ứng dụng ấy như mặt gương sáng trong, khi hình đến thì chiếu soi, hình đi, lại lặng yên rỗng suốt.
Giữ sự thấy biết tìm cầu thì lạc vào VỌNG TƯỞNG,
Không thấy biết tìm cầu nào khác gì gỗ đá VÔ-TRI!
Nói rộng ra, hạnh Vô Sở Cầu đây gồm cả ba môn: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện vậy. Nếu người tu giữ theo bốn hạnh của đức Đạt Ma Tổ Sư đã dạy, thì có thể bình thản trước mọi chướng duyên.
Comments
Post a Comment