Posts

Showing posts from November, 2020
Image
HUỆ VIỄN ĐẠI SƯ ( Liên Tông Sơ Tổ)     H uệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Ðế nhà Tấn. Cả song thân đều khuyết danh. Thuở ấy, còn gọi là thời Ngũ Hồ, mặc dù có nhiễu nhương, nhưng các tư tưởng học thuyết Thánh Hiền lan rộng đã lâu, nên từ bé ngài đã thấm nhuần nề nếp thuần phong đạo đức. Niên hiệu Hàm Hòa thứ 9, ngài lên mười ba tuổi, được song thân cho du học ở miền Hứa Lạc. Không bao lâu, từ Nho giáo đến các học thuyết Lão, Trang cùng bách gia chư tử, ngài đã thông biện đến mức siêu quần. Trong niên hiệu Cảnh Bình, vừa 21 tuổi, cảm thấy các học thuyết sở đắc của mình không thể giải quyết được vấn đề sống chết luân hồi, mà trong tâm hằng thao thức, ngài cùng ẩn sĩ Phạm Tuyên Tử định du phương tìm đạo. Nhưng lúc ấy vì có loạn Thạch Hồ, đường giao thông bị trở ngại nên ý nguyện không thành. Thời gian sau, có Ðạo An Pháp Sư trú tại chùa Nghiệp Trung ở núi Thái Hàng
Image
"Bất huệ nạp tăng,  THÍCH THIỀN-TÂM  hiệu  VÔ-NHẤT  mai cốt xứ".     Tuyền-nhiễu sơn-hoa thảo mộ nhàn, Huyễn thân hà sự hựu đa-đoan? Ưng tri vô-tận trầm-luân hải, Vị xuất luân-hồi khổ diệu mang!   Tôi ( Thích Thiền-Tâm) xin chia làm tam sách như sau:   1.- Thượng-sách là đem xác-thân để tựa cách rừng-hoang bố-thí cho loài chim, thú, hoặc treo đá dìm xuống vực-sâu bố-thí cho loài thủy-tộc, để đền trả nghiệp đời trước.   2. – Trung-sách là bó chiếu chôn sâu, khỏa bằng để chỗ trồng thơm, chuối cũng có lợi cho người.   3.- Hạ-sách , nếu hàng đệ-tử không nỡ làm như vậy, nên đóng sơ mấy tấm gỗ thông, bên trong độn lá chuối, trên để tấm pháp-y, xây ngôi mồ cỏ đơn sơ. Trước mộ dựng tấm bia ghi câu lưu niệm:     “Bất huệ nạp-tăng, Thích Thiền-Tâm hiệu Vô-Nhất mai cốt xứ”. Từ xưa đến nay, trong nhà chùa vào trong những ngày vía Tổ chư Tăng-Ni thường có lời phục-nguyện:   “Tông-phong vĩnh-chấn, Tổ ấn trùng quang”.   Nói riêng theo pháp môn “NIỆM-PH
  TAM NGHI TỨ QUAN Từ Chiếu đại sư nói:   Người tu Tịnh Độ khi lâm chung thường có ba điều nghi, bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để phá trừ ba điều nghi là:   1.- Nghi mình túc nghiệp sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít , e không được vãng sanh. 2.- Nghi mình bản nguyện chưa trả xong, tham sân si chưa dứt , e không được vãng sanh. 3.- Nghi mình niệm Phật, Phật không đến rước , e không được vãng sanh.   Bốn cửa ải là:   1.- Hoặc nhân bị bịnh khổ mà trở lại hủy báng Phật không linh. 2.- Hoặc nhân tham sống mà giết vật mạng cúng tế. 3.- Hoặc nhân uống thuốc mà dùng rượu cùng chất máu tanh hôi. 4.- Hoặc nhân ái luyến mà tự ràng buộc với gia đình. Đại sư nêu ra thuyết Tam Nghi Tứ Quan ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm phương pháp giải quyết. Nay bút giả xin mạn phép nói lược qua cách phá trừ để góp ý, và các bạn đồng tu với sự hiểu biết của mình, có thể suy diễn hiểu rộng thêm ra. 1 .- Phá mối